Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Luận văn nhân vật trong truyện ngắn nguyễn mạnh tuấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.25 MB, 112 trang )

B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
_______________ỉ ___________ t __________________________ 1__________________



TRẦN THỊ HƯỜNG

NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MANH TUẤN
Chuyên ngành: L í luận văn học
M ã số: 60 22 01 20

LU Ậ N VĂN THẠC s ĩ
NG Ô N N G Ữ VÀ VĂN H Ó A VIỆT NAM

Ngưòi hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Công Tài

HÀ NỘI - 2016


MUC
• LUC

MỞ Đ À U ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................. 1
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................ 7
5. Phưomg pháp nghiên cứu...............................................................................8
6. Đóng góp của luận văn..................................................................................9
7. Cấu trúc luận v ăn ...........................................................................................9


NỘI DUNG...................................................................................................... 10


Chương 1. QUAN NIỆM VÈ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ THẾ GIỚI
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MẠNH TUẤN....... 10
1.1 Quan niệm về nhân vật văn học............................................................... 10
1.1.1 Khái niệm nhân vật văn học...................................................................10
1.1.2 Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học............................................... 12
1.1.3 Chức năng của nhân vật văn học...........................................................14
1.1.4 Nhân vật truyện ngắn..............................................................................17
1.1.5 Vài nét về nhân vật trong truyện ngắn hiện đại.................................... 19
1.2

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn.................. 22

1.2.1 Quan niệm nghệ thuật về con người...................................................... 22
1.2.2 Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn.... 24
1.2.3 Thế giói nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn.................... 28
1.2.3.1 Nhân vật học sinh.................................................................................29
1.2.3.2 Nhân vật thanh niên.............................................................................32
1.2.3.3 Nhân vật công nhân:.............................................................................34
1.2.3.4 Nhân vật trí thức..................................................................................36
Chương 2. KIỂU NHÂN VẬTTRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
MẠNH TUẤN.................................................................................................40
2.1 Nhân vật hành động.................................................................................40


2.2 Nhân vật nội tâm .......................................................................................48
2.3 Nhân vật tính cách hài hòa, cao cả........................................................... 52
2.4 Nhân vật bi kịch........................................................................................56

Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DựNG NHÂN YẬTTRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN MẠNH TUẤN................................................................. 62
3.1 Nghệ thuật tràn thuật..................................................................................63
3.1.1 Điểm nhìn trần thuật...............................................................................63
3.1.1.1 Điểm nhìn nhân vật............................................................................64
3.1.1.2 Điểm nhìn tác g iả...............................................................................68
3.1.2 Giọng điệu trần thuật.............................................................................72
3.1.2.1 Giọng điệu hài hước, châm biếm ....................................................... 73
3.1.2.2 Giọng điệu thân mật, suồng sã........................................................... 76
3.1.2.3 Giọng điệu triết luận............................................................................ 79
3.2 Nghệ thuật khắc họa nhân vật.................................................................83
3.2.1 Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân v ậ t............................................... 83
3.2.2 Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân v ật....................................................... 87
3.2.3 Nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua ngôn ngữ nhân vật............... 93
3.2.3.1 Ngôn ngữ đối thoại...............................................................................94
3.2.3.2 Ngôn ngữ độc thoại............................................................................100
KẾT LUẬN................................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................107


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1

Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn sinh năm 1945. Bạn đọc đều biết ông là

một trong những hiện tượng nổi bật ừong đòi sống văn chương, là tác giả của
nhiều tác phẩm văn học, điện ảnh, sân khấu có nội dung khá dữ dội, quyết

liệt, với khối lượng đồ sộ.
Trong sự nghiệp văn chương của mình, Nguyễn Mạnh Tuấn đã gây ấn
tượng mạnh với độc giả qua những cuốn tiểu thuyết vào những năm 1980:
Những khoảng cách còn lại, Cù lao Tràm, Đứng trước biển, Ngoại tình,
Đòi hát rong, Yêu như là sống... Từ 1975 đến 1985, Nguyễn Mạnh Tuấn nổi
lên như một hiện tượng văn chương sáng giá. Tác phẩm của ông bắt đầu xuất
hiện vào đầu những năm 1970, nhưng ngòi bút của ông chỉ thực sự được
khẳng định vói những truyện ngắn và truyện dài viết về hiện thực miền Nam
sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng. Với các tác phẩm này, dư luận
dường như coi ông là một trong những hiện tượng văn chương đang được chờ
đợi và hứa hẹn sẽ mang đến cho độc giả nhiều điều thú vị.
Năm 1990, Nguyễn Mạnh Tuấn bắt đầu tập trung viết kịch bản phim
điện ảnh vói các bộ phim truyền hình: Đồng tiền xương máu, Người đàn bà
yếu đuổi, Chuyện tình bên dòng kỉnh Xáng, Ấp ba nhà, Cô thư ký xinh
đẹp, Blouse trắng, Hướng nghiệp, Nghề báo, Hậu họa, Thái sư Trần Thủ
Độ, Huyền sử Thiên đô, Công nghệ thời trang,...
Gần đây nhà văn lại xuất hiện đầy ấn tượng trên văn đàn với tiểu thuyết Phần
hồn và tập truyện ngắn Nỗi sợ hãi mầu nhiệm.
Nguyễn Mạnh Tuấn có thể xem là một cây bút viết thành công nhất trong lĩnh
vực tiểu thuyết và kịch bản truyền hình, điện ảnh. Ngòi bút của ông mạnh dạn
chấp nhận nhiều thử thách và cũng giành được nhiều vinh quang. Ông là một
trong những tác giả hiếm hoi hiện nay sống được nhờ sáng tác của mình.


2

1.2 Là một nghệ sĩ đa tài, Nguyễn Mạnh Tuấn đã có rất nhiều tác phẩm
văn học và điện ảnh có chất lượng, đề cập được những vấn đề "thòi sự" của
cuộc sống, con người. Nhưng dù là ở lĩnh vực nào, có nội dung ra sao, các tác
phẩm của ông vẫn luôn chứa đựng một giá trị nhân văn sâu sắc. Trong đó, thể

loại truyện ngắn là một trong những thể loại được độc giả yêu thích và đón
đọc nhiệt tình.
Để làm nên sức hấp dẫn ttong các tập truyện ngắn của mình, tác giả
Nguyễn Mạnh Tuấn đã xây dựng thành công một hệ thống nhân vật phong
phú. Nó giúp nhà văn phản ánh cuộc sống một cách rõ nét, sinh động nhất.
Qua đó thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả.
Khi đọc truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn, chúng ta dễ dàng bắt gặp nhiều
nhân vật gàn gũi đến mức ta tưởng họ là những người đã gặp ở đâu đó trong
đời thực, giờ họ đi thẳng vào các trang văn để sống tiếp cuộc đòi của mình.
Đi sâu vào nghiên cứu thế giói nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh
Tuấn là chúng ta đang đi khám phá một phàn của cuộc sống để thấy được sự
sôi động, nhiều vẻ của nó. Và qua đó thấy được tấm lòng cũng như tài năng
nhiều mặt của nhà văn khi xây dựng nhân vật. Đồng thời góp phần khẳng định
những đóng góp không nhỏ của ông trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
1.3 Nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng nhất của truyện ngắn.
Truyện ngắn chỉ có thể hấp dẫn, lôi cuốn người đọc khi nhân vật được xây
dựng một cách thành công. Đã có một số bài viết, công trình đề cập, nghiên
cứu đến vấn đề này trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn, nhưng chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu nó một cách hệ thống và toàn diện. Do vậy,
luận văn sẽ đi khai thác, làm rõ vấn đề nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Mạnh Tuấn ở cả phưomg diện nội dung lẫn nghệ thuật xây dựng nhân vật.
2. Lịch sử vấn đề
Khi mới xuất hiện trên văn đàn, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn đã thu hút được
rất nhiều sự chú ý không chỉ của bạn đọc mà còn của các nhà nghiên cứu. Đây


3

là một cây bút táo bạo, có nhiều đổi mới ttong cách viết, cách nhìn nhận vấn
đề cũng như cách phản ánh hiện thực cuộc sống.

Năm 1985, tiểu thuyết Cù lao tràm của ông từng tạo nên sóng gió. Hàng
tháng trời, báo đài và hội thảo liên tục bàn đến tác phẩm này, đến độ nhà báo
Trần Thanh Phương đã sưu tầm được cả một tập dày những bài báo viết về
Cù lao tràm. Thế nhưng, một tác phẩm có giá trị thực sự sẽ vượt qua khó
khăn, thử thách để sống mãi với thòi gian. Sau khi bị "đánh tơi bời", nhiều lúc
tác giả rơi vào tình trạng cô lập thì sóng gió cũng qua đi, tác phẩm đã khẳng
định được vị trí của mình vói số lượng bản in lên tói 160 ngàn bản.
Trong cuốn Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật, Tố Hữu đã nói về
vấn đề mà Nguyễn Mạnh Tuấn chọn làm đối tượng trong tác phẩm của mình:
"Có thể dễ nhận thấy Nguyễn Mạnh Tuấn quan tâm nhiều tới những vẩn đề nóng
hổi bức xúc của cuộc sống ngày hôm nay. Tính tích cực của người cầm bút có
trách nhiệm đã khiến anh cảm nhận nhanh nhạy hơn cả đổi với những vẩn đề
này. Bởi lẽ, nhà văn tiên tiến ở bất cứ nơi nào và bất cứ thời nào bao giờ cũng
hướng thẳng tới những vẩn đề của cuộc sổng đang diễn ra” [19, tr 52],Đây là
đòi hỏi da diết của chính bạn đọc khi tiếp nhận nền văn chương của dân tộc
mình, thời đại mình. Nguyễn Mạnh Tuấn đã dám đi thẳng vào nhiều vấn đề
phức tạp, dám nói lên tiếng nói riêng của mình để làm sáng tỏ những vấn đề gai
góc mà một số nhà văn cùng thòi còn e ngại, né tránh: "Cuộc sổng xung quanh
lúc nào cũng như lửa cháy. Cả cái tốt lẫn cái xẩu của nó đều hừng hực than
hồng... Và đã truyền sang tôi những hổi thúc đẩu tranh, những phân loại nóng
bỏng" [42, tr.689]. Với tất cả sự tự tin, tự chủ của mình, tác giả hàu như đã
hóa thân vào các nhân vật chính với tính cách mạnh mẽ, xông xáo và luôn có
cái nhìn mới mẻ về đấu ừanh, đổi mới xã hội.
Nhà phê bình Lại Nguyên Ân trong bài viết Thành công của Nguyễn
Mạnh Tuấn đã có những nhận xét về đặc điểm văn phong của Nguyễn Mạnh


4

Tuấn: "Đúng là đọc Nguyễn Mạnh Tuấn, người sành văn sẽ thấy không ít chỗ

đáng chê, thậm chí về những điều đơn giản. Nhưng vượt lên trên những gì
còn là xô bồ xộc xệch trong câu chữ, ta lại thấy những điều khác, cuốn hút ta
mạnh hơn: ấy là những tình huống, những vẩn đề, những bàn luận biện giải".
Chính Nguyễn Mạnh Tuấn khi viết về văn của mình trong Cù lao Tràm cũng
đã khẳng định giống như vậy: "Văn chương của tôi, những người sành sỏi
quá hay kỵ, nếu khó tính, có thể sẽ khó đọc, xỉn tạm bỏ qua điều đó, để coi
giùm liệu nó có lợi ích gì cho cuộc sổng hay không?" [2, ữ 168]. Có lẽ vì điều
này mà nhân vật chính lẫn tác giả đều đã biết chèo lái tói một kết thúc có hậu,
vừa thỏa mãn tâm lý độc giả phổ thông, vừa thỏa mãn điều mà tác giả hình
dung như là sự đòi hỏi củasáng tạo văn học.
Tiếp đó, Lại Nguyên Ân trong bài Mấy nhận xét về một số tác giả văn
xuôi lứa "tứ tuần" lại tiếp tục có những đánh giá về sức viết của Nguyễn
Mạnh Tuấn: "Nguyễn Mạnh Tuấn là người viết rất khỏe và quá tự tin... Tuấn
coi những cách xử lý các xung đột như kiểu mình làm là thực chất phương
pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Với sức bút như hiện nay, Nguyễn Mạnh
Tuấn còn viết xông xáo và "mẳn đẻ" hơn nữa". Qua nhận định trên, chúng ta
thấy được sự lao động miệt mài, giàu tâm huyết của nhà vãn khi nói về những
vấn đề mới mẻ của xã hội.
Trong bài viết Tiến trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam viết về
nông thôn giai đoạn 1932 - 1985, Bùi Như Hải đã bàn về giọng văn củatác
giảNguyễn Mạnh Tuấn khi viết về đề tài nông thôn. Đó là "một giọng văn
trầm tĩnh đến xa xót". Giọng văn ấy cùng với tính thời sự đã làm nên sức hấp
dẫn chủ yếu trong tác phẩm của ông. Nhà văn dám đặt ra những kinh nghiệm
cá nhân ngang với kinh nghiệm cộng đồng, dám nói và nói được những vấn
đề tiêu cực lớn ữong bối cảnh rộng lớn. Những vấn đề mà ông đặt ra trong tác
phẩm của mình đã đi ngược lại với đường lối, với quan điểm chính trị lúc bấy


5


giờ, chính vì thế mà một thời, ông đã bị liên lụy, bị công kích dữ dội, bị truy
tố rồi đốt sách. Tuy nhiên, bao nhiêu vấn đề đặt ra ấy cho đến thời điểm hiện
nay vẫn còn nguyên giá trị, bỏi sự phát triển hay suy thoái của nông nghiệp,
nông thôn và nông dân vẫn được xem là một vấn đề lớn của quốc gia. Đây
chính là bản lĩnh và tài năng của một người cầm bút chân chính như Nguyễn
Mạnh Tuấn.
GS. Nguyễn Đăng Mạnh khi nói về tình hình văn học sau 1975 đã nhận thấy sự
thay đổi rõ nét về nhiều mặt. Nếu lúc đầu nền vãn học vẫn phát triển theo quán
tính: tuy hoàn cảnh xã hội, tâm lý độc giả đã thay đổi nhưng văn học vẫn viết
theo lối cũ nên bị hẫng hụt trước thái độ thờ ơ lạnh nhạt của công chúng, thì
sau đó từ những năm 1980 trở đi, văn học đã bắt đầu có những chuyển biến tích
cực. Nổi bật lên là những cây bút mạnh dạn phản ánh mặt tiêu cực của xã hội.
Trong đó Nguyễn Mạnh Tuấn là một tác giả tiêu biểu cùng với các nhà văn
khác như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Trọng Oánh, Ma Văn
Kháng, Lê Lựu... Họ đã bắt đầu phản ánh cuộc sống theo kinh nghiệm cá nhân
và nhìn con ngưòi với cái nhìn toàn diện hon. Như vậy, Nguyễn Mạnh Tuấn
được nhìn nhận là một trong những cây bút có tư duy đổi mới, góp phần đáng
kể vào sự hiện đại của nền văn học Việt Nam.
Không chỉ thành công vói tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Mạnh
Tuấn cũng đã để lại được nhiều ấn tượng sâu sắc ừong lòng độc giả. Tập
truyện ngắn Nỗi sợ hãi màu nhiệm đã thu hút được nhiều sự chú ý của bạn
đọc và cũng có khá nhiều ý kiến xoay quanh tập truyện ngắn đáng đọc này.
Đạo diễn Tô Hoàng, một người bạn của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn và
cũng là độc giả tác phẩm mới nhất của ông cho rằng hiện nay có rất nhiều tác
phẩm viết về cái thòi mà Nguyễn Mạnh Tuấn đã sống và kể lại trong tập
truyện ngắn của mình. Thế nhưng, chẳng có mấy ai có cách kể chuyện như
của tác giả. Có người thì tô hồng, ca tụng, lại có người thì hằn học, cay


6


đắng... Riêng Nguyễn Mạnh Tuấn trong Nỗi sợ hãi mầu nhiệm lại có cách
kể chuyện khác hẳn. Ông không che giấu những bất công, cay đắng, tiêu cực
của một thời đã qua. Bằng câu chuyện của mình, ông lại giúp bạn đọc thấy
được những điều tốt đẹp, những niềm vui, niềm hạnh phúc trong cuộc sống.
Có lẽ chính điều này đã làm nên giá trị nhân văn của tập truyện.
Nhà văn Bích Ngân đã có những nhận xét khá xác đáng về nội dung
cũng như cách viết của Nguyễn Mạnh Tuấn: "Đó là những trang viết một thời
đã qua nhưng dấu ẩn nghiệt ngã của nó không chỉ hằn sâu ký ức, cảm xúc mà
còn là sổ phận của nhân vật, những nhân vật gân guốc tính cách, vừa chịu
đựng, vừa đương đầu, vừa vượt lên được - mất của cá nhân, của dân tộc...".
Với tập truyện ngắn này, nhà văn đã đánh dấu sự trở lại với "một bút lực tươi
mới, mạnh mẽ, giàu cảm xúc, lặng lẽ kéo người đọc qua từng trang viết ma
lực của sự thật bằng ngòi bút chân thật" [46, trang bìa].
Khi bàn về hình thức, thể loại của Nỗi sợ hãi mầu nhiệm, nhà nghiên cứu
Huỳnh Như Phưomg không tán đồng ý với kiến cho rằng đây là tập hồi ký.
Theo ông, đây là tác phẩm nhà văn đã khéo léo kết hợp giữa tự truyện và văn
xuôi hư cấu để chuyển tải tư tưởng của mình. Một hình thức sáng tác tạo nên
ranh giới mờ giữa hư cấu và hồi ký. Bạn đọc sẽ bị cuốn theo những chi tiết thật
để đến với mục đích có thật của người sáng tác. Sự kết họp ăn ý này vừa tăng
sức thuyết phục cho hiện thực, vừa tăng thêm tính hấp dẫn cho cách kể chuyện.
Còn nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn tự nhận xét về tác phẩm mới của mình
là “một nửa của sự thật ” [46, tr 2] và khác cách mà nhiều người hay nói rằng
“nửa sự thật không phải là sự thật”. Với nhà văn thì một nửa sự thật hay một
mẩu của sự thật đi chăng nữa nó cũng đủ để trở thành chìa khóa mở ra một ý
nghĩa trọn vẹn.
Điểm qua những bài viết, những công trình nghiên cứu và các bài phê
bình của nhiều tác giả về văn chương Nguyễn Mạnh Tuấn, chúng tôi nhận



7

thấy chưa có tác giả và công trình nào đi sâu nghiên cứu thế giói nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn. Qua việc nghiên cứu về lịch sử vấn
đề, ừên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đi trước,
chúng tôi mong muốn trình bày những hiểu biết của mình về nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn một cách hệ thống nhất để thấy được sự tiến
bộ và đổi mới của nhà vãn khi tiếp cận cuộc sống vói nhiều chiều phức tạp.
3. Muc đích và nhiêm vu nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Với việc lựa chọn đề tài Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh
Tuấn, chúng tôi tiến hành khảo sát, đi sâu vào tìm hiểu thế giới nhân vật
phong phú, nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc trong truyện ngắn của nhà
văn nhằm làm nổi bật tài năng, cá tính sáng tạo và những nét độc đáo riêng
của tác giả trên thể loại truyện ngắn. Đồng thời khẳng định những đóng góp
không nhỏ của ông trong nền văn Việt Nam hiện đại.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
Thứ nhất, trình bày những vấn đề lí thuyết về nhân vật văn học.
Thứ hai, khảo sát những truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Mạnh Tuấn.
Thứ ba, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Mạnh
Tuấn trong sáng tác của mình. Bởi điều này chi phối đến việc lựa chọn nhân
vật và cách thể hiện nhân vật của nhà văn.
Thứ tư, chỉ ra đặc điểm nổi bật và những kiểu loại nhân vật chủ yếu
trong sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Mạnh Tuấn.
Cuối cùng, làm rõ những sáng tạo độc đáo trong việc xây dựng nhân vật
của Nguyễn Mạnh Tuấn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn.



8

4.2. Phạm vỉ nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận văn tập trung khảo sát, thống kê, phân tích
một số tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Mạnh Tuấn như sau:
Người đứng gác ngã tư đường phố (1982)
Giữa bình thường (1985)
Truyện ngắn chọn lọc (1995)
Khỏa thân (2007)
Nỗi sợ hãi mầu nhiệm (2014)
Khai thác, vận dụng những tài liệu lí luận về thể loại truyện ngắn liên
quan đến đề tài.
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi sẽ chú ý mở rộng thêm một số tác
phẩm của nhà văn cùng thời để làm nổi bật những nét đặc sắc về nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng
đồng thời các phương pháp sau:
Phương pháp thống kê - phân loại: Khảo sát, thống kê toàn bộ hệ thống
nhân vật trong các tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Mạnh Tuấn, từ đó
tiến hành phát hiện, phân loại nhân vật theo những tiêu chí riêng.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Tiến hành phân tích cụ thể các khía
cạnh thuộc vấn đề nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn. Sau đó
tổng hợp, khái quát và rút ra những kết luận cần thiết theo mục đích và yêu
càu của luận văn.
Phương pháp loại hình: Vận dụng những kiến thức lí luận và thể loại
truyện ngắn để làm tiền đề cho việc đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề cụ thể
về loại hình nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn.

Phương pháp so sánh - đối chiếu: Tiến hành so sánh, đối chiếu nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn với nhân vật trong các truyện ngắn của


9

một số các nhà văn cùng thời khác để thấy được nét riêng biệt, sự độc đáo ừong
thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Mạnh Tuấn.
Ngoài các phương pháp ừên, tác giả luận văn còn vận dụng phương pháp
thi pháp học để cắt nghĩa, lí giải nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh
Tuấn một cách toàn diện nhất.
6. Đóng góp của luận văn
Tìm hiểu nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn, chúng tôi
mong muốn bước đầu làm rõ những đặc sắc về thế giói nhân vật và nghệ thuật
xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của ông. Từ đó góp phần khẳng định tài
năng, vị trí và những đóng góp của nhà văn trong nền văn học dân tộc.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung
chínhcủa luận văn được triển khai thành 3 chương:
Chương 1. Quan niệm về nhân vật văn học và thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn
Chương 2. Kiểu nhân vật ữong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn
Chương 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Mạnh Tuấn


10

NÔIDUNG
Chương 1. QUAN NIỆM VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ THẾ GIỚI

NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MẠNH TUẤN
1.1 Quan niệm về nhân vật văn học
1.1.1 Khái niêm nhân vât văn hoc


ã



Hiểu theo nghĩa rộng, “nhân vật” là khái niệm không chỉ dùng trong văn
chưomg mà còn ở nhiều lĩnh vực khác.
Trong tiếng Hi Lạp cổ, “nhân vật” (persona) lúc đầu mang ý nghĩa chỉ
cái mặt nạ của diễn viên trên sân khấu. Theo thời gian, chúng ta đã sử dụng
thuật ngữ này với tàn số nhiều hơn, thường xuyên hơn để chỉ đối tượng mà
văn học miêu tả và thể hiện trong tác phẩm.
Theo bộ Từ điển Tiếng Việt của viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ
biên thì nhân vật là khái niệm được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, nhân vật là đối tượng (thường là con người) được miêu tả, thể
hiện trong tác phẩm văn học.
Thứ hai, nhân vật là người có một vai trò nhất định trong xã hội, đòi
sống nghệ thuật lẫn đời sống sinh hoạt hàng ngày... Nhưng trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ đề cập tói khái niệm nhân vật theo
nghĩa thứ nhất mà bộ Từ điển tiếng Việt định nghĩa, tức là nhân vật trong tác
phẩm văn học.
Vậy, nhân vật văn học là gì?
Theo Từ điển văn học, khái niệm nhân vật văn học được định nghĩa như
sau: “Nhân vật là yếu tổ cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, là tiêu điểm để
bộc lộ chủ đề, tư tưởng và đến lượt mình nó lại được các yểu tố có tính chất
hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật do đó là nơi tập trung
các giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm văn học” [23, ừ 86]. Theo định



11

nghĩa ừên, chúng ta thấy rằng nhân yật là yếu tố rất quan trọng trong một tác
phẩm văn học. Nó vừa là yếu tố của nội dung, vừa là yếu tố thuộc hình thức
nghệ thuật.
Tiếp đó, trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (nhóm tác giả Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) đã định nghĩa: “Nhân vật văn
học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn
học có thể có tên riêng (Tẩm, Cám, Chị Dậu, Anh Pha) cũng có thể không có
tên riêng. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ,
không chỉ một con người cụ thể nào cả mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó
trong tác phẩm... [12, tr 235]. Như vậy, nhân vật văn học là một đơn vị đày
tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật ừong đời sống.
Trong giáo trình Lý luận văn học do Phương Lựu chủ biên cũng đã nêu
ra cách hiểu về nhân vật văn học: “Nói đến nhân vật văn học là nói đến con
người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó là
những nhân vật có tên như Tẩm, Cám, Thạch Sanh... Đó là những nhân vật
không tên như thằng bán tơ, một mụ nào đó trong Truyện Kiều của Nguyễn
Du... Đó là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại, bao
gồm cả quái vật lẫn thần thánh, ma quỷ, những con vật mang nội dung, ý
nghĩa con người.... Nhân vật văn học là một hình tượng nghệ thuật ước lệ, có
những dấu hiệu để ta nhận biết” [21, ữ 277 - 278].
Còn trong cuốn Lý luận văn học do GS Hà Minh Đức chủ biên, các tác
giả lại cho rằng: “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính
ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ một chi tiết, biểu hiện đầy đủ của
con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về
tiểu sử, nghề nghiệp, tinh cách... và cần chú ý thêm một điều: thực ra khái
niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng lớn hơn nhiều,

đó không chỉ là những con người, những con người có tên và không tên, được


12

khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có
thể là sự vật, loài vật khác ít nhiều manh bóng dáng, tỉnh cách con người...
Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể mà chỉ là một
hiện tượng về con người hoặc liên quan tới con người, được thể hiện nổi bật
trong tác phẩm” [ 10, tr 126].
Trên đây là một số cách hiểu khác nhau về khái niệm nhân vật văn học.
Nhưng dù có hiểu theo cách nào thì các định nghĩa ấy đều gặp nhau ở những
nội hàm không thể thiếu của khái niệm này. Thứ nhất, nhân vật phải là đối
tượng mà văn học miêu tả và thể hiện bằng phương tiện văn học. Thứ hai, nó
có thể là con người hoặc động vật, con vật, hiện tượng mang linh hồn con
người, đó là những hình ảnh ẩn dụ về con người. Thứ ba, nhân vật là đối
tượng mang tính ước lệ và có tính cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó
được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Do đó, nghiên cứu
về tác phẩm văn chương cần phải tiếp cận từ góc độ nhân vật để có thể chỉ ra
cái mới trong ngòi bút nhà văn.
1.1.2 Các tiêu chí phân loại nhân vật văn học
Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng. Các nhân vật được
xây dựng thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những sáng tạo độc đáo,
không lặp lại của các nhà văn tài năng. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung, tư
tưởng, kết cấu,... có thể thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành các loại
nhân vật không giống nhau. Đổ nắm bắt được thế giới nhân vật đa dạng, phong
phú ấy, chúng ta có thể tiến hành phân loại chúng ở nhiều góc độ khác nhau.
1.1.2.1 Dựa vào vị trí, vai trò của nhân vật trong kết cẩu tác phẩm văn học
người ta chia nhân vật thành: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò then chốt trong truyện. Đó là

những con người liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để
tác giả triển khai đề tài cơ bản của tác phẩm. Ví dụ: nhân vật Thúy kiều, Kim


13

Trọng, Từ Hải,... trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhân vật vợ nhặt trong
tác phẩm cùng tên của Kim Lân,...
Nhân vật phụ là nhân vật mang các tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính
chất phụ trợ, bổ sung nhưng không thể coi nhẹ. Nhân vật phụ có nhiệm vụ soi
sáng cho nhân vật trung tâm, vấn đề trung tâm của tác phẩm, góp phần thể
hiện sự đa dạng, sinh động trong bức tranh của đòi sống hiện thực. Ví dụ:
nhân vật Thúy Vân, Vương Quan, Mã Giám Sinh,... trong Truyện Kiều.
Nhân vật trung tâm là loại nhân vật quy tụ các mối mâu thuẫn của tác
phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm có ý nghĩa xuyên suốt từ đầu đến cuối.
Ví dụ: nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, nhân vật
Giăng-van-giăng trong Những người khốn khổ của Victo Huygo,...
1.1.2.2 Xét về phương diện tư tưởng, về quan hệ thuận - nghịch đổi với lí
tưởng, có thể chia nhân vật thành: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) là nhân vật thể hiện những giá trị
tinh thần, những phẩm chất đẹp đẽ, những hành vi cao cả của con người được
nhà văn miêu tả, khẳng định, đề cao trong tác phẩm theo một quan điểm, một tư
tưởng xã hội thẩm mĩ nhất định. Ví dụ: nhân vật Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt
Nga trong truyện Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu,...
Nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực) là nhân vật mang tính cách xấu
xa, trái với đạo lí và lí tưởng của con người, được nhà văn miêu tả với thái độ
chế giễu, lên án, phủ định. Ví dụ: Mẹ con dì ghẻ trong truyện Tấm Cám,...
1.1.2.3 Dựa theo hình thức cẩu trúc nhân vật, người ta chia nhân vật văn học
thành các dạng thức sau:
Nhân vật chức năng (mặt nạ) là loại nhân vật chủ yếu xuất hiện trong

văn học cổ trung đại (nhất là ở truyện cổ tích), được giao nhiệm vụ thực hiện
một chức năng cố định nào đó trong tác phẩm và trong phản ánh đòi sống. Ví
dụ: nhân vật bà Tiên, ông Bụt trong truyện cổ tích thường thực hiện chức
năng là lực lượng phù trợ cho cái thiện,...


14

Nhân vật loại hình là nhân vật có thể đứng ra làm đại diện cho một loại
người nhất định trong đời sống, do chỗ nó thể hiện được những nét đặc trưng,
ổn định và bất biến ở phẩm chất xã hội, đạo đức, tính cách của một loại người
nào đó trong xã hội. Ví dụ: nhân vật Acpagong - kẻ hà tiện, nhân vật Tactuyp
- kẻ đạo đức giả,...
Nhân vật tính cách là loại nhân vật được khắc họa, ngắm nhìn trên nhiều
bình diện, đưa tới cho độc giả cảm tưởng “thực”, mang sức hấp dẫn của chính
cuộc sống. Nhân vật tính cách thường đa diện, chứa đầy mâu thuẫn, nó luôn
vận động và đôi khi làm bất ngờ cho cả người sáng tạo ra nó. Ví dụ: nhân vật
Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, Anna Karenina của Tônxtôi,...
Nhân vật tâm lí là một hình thái cụ thể của nhân vật tính cách. Với loại
nhân vật này, tâm lực nhà văn dồn vào việc tái hiện “hiện thực tâm lí”, vào
những hành động bên trong chứ không phải hành động bên ngoài của nhân vật.
Nhân vật tư tưởng là loại nhân vật có nhiều điểm tương đồng với nhân vật
chức năng và có hạt nhân cấu trúc là một tư tưởng, một ý thức. Ví dụ: nhân
vật Tôn Ngộ Không, Đường Tăng, Trư Bát Giới, Sa Tăng trong Tây Du Kí
của Ngô Thừa Ân,...
1.1.2.4 Căn cứ vào thể loại văn học có thể phân chia nhân vật thành: Nhân vật
tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch.
1.1.2.5 Căn cứ vào phưcmg pháp sáng tác có nhân vật cổ điển, nhân vật lãng
mạn và nhân vật hiện thực.
Sự phân loại nhân vật trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Mỗi loại nhân vật

đều có sức hấp dẫn riêng của nó. Vậy nên, không thể đem tiêu chí của nhân
vật này để đánh giá khiên cưỡng nhân vật kia và ngược lại cũng vậy.
1.1.3 Chức năng của nhân vật văn học
Trong tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai tròlà tâm điểm giúp nhà văn
để thể hiện đời sống. Nhân vật không chỉ là “tiêu điểm để bộc lộ chủ đề” mà
còn là nơi “tập trung giá trị nghệ thuật tư tưởng của tác phẩm ”.


15

Nhà nghiên cứu G. N. Poselov đã nhấn mạnh nhân yật là phương tiện
có tính thứ nhất trong hình thức tác phẩm. Nó quyết định phàn lớn vừa cốt
truyện, vừa lựa chọn chi tiết, vừa ngôn ngữ, vừa kết cấu. Nhân vật là yếu tố
vừa thuộc về nội dung, vừa thuộc về hình thức của tác phẩm. Nó là yếu tố chi
phối mạnh mẽ tới sự thành công hay thất bại của tác phẩm nghệ thuật. Do đó,
nhân vật có vai trò vô cùng quan trọng trong tác phẩm văn học.
Đầu tiên, nhân vật là phương tiện không thể thiếu để nhà văn khái quát hiện
thực đời sống. Hiện thực đòi sống được tái hiện thông qua thế giói nghệ thuật
của người nghệ sĩ. Nhân vật là điều kiện đảm bảo cho việc miêu tả thế giới ấy
có chiều sâu và có tính hình tượng. Khi nhân vật xuất hiện, cái gọi là “hiện
thực đời sống” không còn tồn tại như một khái niệm khô khan mà trở nên rõ
ràng, có đủ “ba chiều” để mời gọi bạn đọc tưởng tượng, khám phá và suy
ngẫm. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính,
người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền vói
Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc nhưng bất hạnh trong xã hội cũ.
Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu đôi lứa và ước mơ vươn tới hạnh
phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự do,
công lí... Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá trình
lưu manh hóa của một bộ phận nông dân trong xã hội thực dân nửa phong
kiến. Hay đằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh

giữa cái thiện - cái ác, điều tốt - điều xấu, cuộc sống giàu - nghèo và những
ước mơ tốt đẹp của con người,...
Tiếp theo, nhân vật là phương tiện khái quát các tính cách, số phận con người.
Do tính cách là một hiện tượng lịch sử nên chức năng khái quát tính cách của
nhân vật cũng mang tính lịch sử. Ví dụ trong thòi cổ đại, nhân vật văn học của
thần thoại, truyền thuyết thường khái quát năng lực và sức mạnh của con
người: Nữ Oa đội đá vá trời, Sơn Tinh dời núi đắp đê chiến đấu chống Thuỷ


16

Tinh,... Trong xã hội có phân chia giai cấp, nhân vật văn học lại khái quát các
tính cách đối kháng về mặt phẩm chất. Nhân vật trong văn học dân gian nói
chung, do đặc điểm truyền miệng nên thường mang tính cách cô đọng, đom
giản mặc dù có giá trị cao và bền vững. Còn nhân vật trong vãn học viết thường
có khả năng khái quát các tính cách nhiều mặt, đầy đặn, chi tiết hom.
Không chỉ vậy, nhân vật là người dẫn dắt ta vào thế giới đời sống. Nhân vật
văn học có “chức năng tương tự chức năng của một chiếc chìa khoá, giúp
nhà văn mở cánh cửa bước vào hiện thực rộng lớn, tiếp cận những đề tài,
chủ đề mới m ẻ” [30, tr 78].Nhân vật giúpngười viết nhận ra bản chất của
đời sống và giúp người đọc hiểu được những quy luật của đời sống ấy. Nói
khác đi, nó là công cụ, là chìa khóa để mở rộng các mảng đề tài mới mẻ, rộng
lớn và sâu sắc hom. Ví dụ, nhân vật Xuân Tóc Đỏ chính là chiếc chìa khóa
giúp nhà văn Vũ Trọng Phụng phản ánh thật sinh động xã hội đang âu hóa vói
bao trò lố lăng, kệch cỡm cùng với bản chất của con người “vô nghĩa lí” ừong
xã hội “chó đểu”. Và cũng qua nhân vật Xuân Tóc Đỏ, người đọc có cái cười
hả hê nhưng đầy chua xót về hiện thực đòi sống nước ta lúc bấy giờ.
Ngoài ra, nhân vật còn là một hiện tượng thẩm mĩ. Vì vậy, không thể quên một
chức năng quan trọng của nó là thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan niệm nghệ
thuật của nhà văn về thế giới và con người. Nhân vật văn học được sáng tạo, hư

cấu để khái quát và biểu hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn đối với cuộc sống.
Ca ngợi nhân vật là ca ngợi đời, lên án nhân vật là lên án đời, xót xa cho nhân
vật là xót xa cho đòi. Do vậy, tìm hiểu nhân vật là khám phá cách hiểu về cuộc
đời của tác giả đối với con người. Trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao,
chúng ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn đối với người
nông dân nghèo đói, bất hạnh nhưng đầy tự trọng như lão Hạc.
Cuối cùng, nhân vật đóng vai trò quyết định tạo nên mối liên kết giữa
các sự kiện trong tác phẩm - cái vẫn được gọi là cốt truyện. Một phàn lớn nhờ


17

yậy mà kết cấu tác phẩm đạt đến sự thống nhất, hoàn chỉnh, chặt chẽ và có
nhiều tiềm năng trong việc biểu đạt các phương tiện ngôn từ, để rồi tự chúng
trở thành những phương diện nghệ thuật độc lập, có thể được nghiên cứu
riêng như một đối tượng thẩm mĩ chuyên biệt.
Tựu chung lại, nhân vật có một vai ttò hết sức quan trọng trong tác
phẩm của một nhà văn. Nó là yếu tố không thể thiếu đối với một tác phẩm
văn chương. Hiểu được đúng đắn chức năng của nhân vật văn học, người viết
có thêm cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài này.
1.1.4 Nhân vật truyện ngắn
Như chúng ta đã biết, truyện ngắn ra đời vào khoảng thế kỉ XIX ở
phương Tây. Nhưng ở Việt Nam thì phải đến thế kỉ XX thể loại này mới hình
thành rồi phát triển.
Truyện ngắn là hình thức tự sự cỡ nhỏ. Nó ngắn bởi khuôn khổ nhưng
lại rất gần vói tiểu thuyết vì nó cùng là hình thức tự sự tái hiện cuộc sống
đương thời. Nội dung truyện ngắn rất đa dạng nhưng có một đặc điểm chung
là “ngắn”. Truyện có thể kể về cả cuộc đời hay một đoạn đời của nhân vật
nhưng điều quan trọng không phải là ở hệ thống sự kiện mà là ở cái nhìn đối
với cuộc đòi.

Nhà văn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét
bản chất trong quan hệ nhân sinh hay ừong đòi sống tâm hồn con người. Nó
thường ít sự kiện phức tạp, ít nhân vật. cố t truyện của truyện ngắn thường nổi
bật, hấp dẫn. Kết cấu trong truyện ngắn thường là một sự tương phản, liên
tưởng. Bút pháp trần thuật thường là chấm phá, hành văn có nhiều ẩn ý.
Giọng điệu của nó cũng hết sức tự do, linh hoạt.
Trong đó, nhân vật truyện ngắn có một vị trí, vai trò hết sức quan trọng.
Nó là tâm điểm của sự sáng tạo, sự lí giải cuộc sống của mỗi nhà văn. Nhân
vật truyện ngắn có những đặc điểm riêng biệt, khác hẳn so với nhân vật của


18

các loại hình văn học khác và ngay cả trong cùng loại hình tự sự, nó cũng có
những điểm độc đáo riêng.
So với nhân vật trữ tình và kịch, nhân vật truyện ngắn mang đầy đủ đặc
điểm của loại hình nhân vật tự sự.
Thứ nhất, nhân vật thường bắt nguồn từ con người bình thường, con
người hằng ngày với tất cả tính tự nhiên nhiều vẻ của nó.
Thứ hai, nhân vật truyện ngắn gắn bó toàn diện hơn cả với thời đại của
mình đang sống.
Thứ ba, mỗi nhân vật thường mang trong mình sắc thái thẩm mĩ đa dạng.
Trong nhân vật vừa có nét đáng say mê, có nét đáng cười, có nét đáng tự hào,
có nét bi ai hay căm phẫn.
Thứ tư, cuộc sống, số phận nhân vật được triển khai theo chiều rộng của
không gian và chiều dài của thời gian.
Thứ năm, nhân vật truyện ngắn có khả năng đem lại tính đa dạng nhiều
vẻ cho số phận.
So với nhân vật tiểu thuyết trong cùng loại hình tự sự, nhân vật truyện
ngắn cũng có nhiều khác biệt:

Trong tiểu thuyết, nếu nhân vật được xây dựng trọn vẹn cả quá trình, gần
như là cả cuộc đời thì nhân vật truyện ngắn thường được xây dựng trong lát
cắt cuộc đòi hoặc trong một tình huống, hoàn cảnh cụ thể.
Xét về mặt số lượng, nhân vật trong tiểu thuyết thường nhiều hơn so với
truyện ngắn (có thể lên tới hàng trăm, hàng nghìn nhân vật). Còn trong truyện
ngắn nhân vật rất ít, có khi chỉ có một hoặc số lượng có thể đếm được trên
đầu ngón tay.
Vói tiểu thuyết, đòi sống tâm lí nhân vật mang tính quá trình còn đời
sống tâm lí của nhân vật trong truyện ngắn lại mang tính hiện tượng.
Trong tiểu thuyết, tính cách con người được thể hiện trong cả quá trình. Ngược
lại, tính cách của nhân vật truyện ngắn chỉ được thể hiện một phần mà thôi.


19

Cuối cùng, nếu nhân vật tiểu thuyết cho chúng ta cảm giác như bắt gặp
nhiều hơn trong cuộc sống thì nhân vật truyện ngắn là những hiện tượng hiếm
có, ít gặp hơn.
Như vậy, qua việc so sánh trên, chúng ta thấy được nhân vật trong truyện
ngắn có những đặc trưng riêng làm nên sức hấp dẫn riêng của thể loại. Nhân
vật truyện ngắn là những con người đời thường và bao giờ cũng được đặt vào
những tình huống gay cấn. Từ tình huống ấy làm nổi bật nên tính cách, số
phận và chiều sâu tâm lí của nhân vật.
Nhân vật truyện ngắn thể hiện những thăng trầm của thời đại, được khám
phá đa dạng, nhiều chiều. Qua nhân vật, người đọc thấy được một cuộc sống
muôn hình vạn trạng đang diễn ra xung quanh mình và thấy được thân phận
con người ừong đó như thế nào.
1.1.5 Vài nét về nhân vật trong truyện ngắn hiện đại
Như chúng ta đã biết, lịch sử văn học nhìn theo góc độ nào đó là lịch sử
của những quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người. Trong suốt chiều

dài lịch sử ấy, sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người kéo theo sự
thay đổi rõ rệt trong cách lựa chọn và xây dựng nhân vật. Do vậy, nhân vật
trong văn xuôi hiện đại nói chung và trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói
riêng đã có những đột phá lớn so với nhân vật trong văn học Việt Nam trước
năm 1975. Sự thay đổi đó đã tạo nên bước ngoặt quan trọng trong tư duy nghệ
thuật về con người trong tác phẩm văn chương.
Nếu nhân vật ừong văn học Việt Nam trước 1975 (đặc biệt là giai đoạn
1945 - 1975) được khai thác trong tư cách công dân đơn phiến, được nhìn
nhận, đánh giá theo quan điểm chính trị thì nhân vật trong truyện ngắn hiện
đại được khai thác toàn diện hơn. Đó là những con người đa trị, lưỡng cực,
con người cá nhân với những số phận riêng trong mối quan hệ đa chiều của
đời sống xã hội. Nhà văn nhận thức họ trong nhu càu tự ý thức, có nhiều biểu


20

hiện đa dạng, có sự hòa hợp giữa con người xã hội - con người tự nhiên - con
người tâm linh. Đó là những con người sống trong sự đối lập giữa ánh sáng và
bóng tối, giữa cao cả và thấp hèn, giữa khát vọng cao cả và cả dục vọng tàm
thường. Nguyễn Minh Châu đã nhìn rõ vấn đề ấy trong truyện ngắn Bức
tranh- đây được coi là tác phẩm đánh dấu sự thay đổi quan niệm nghệ thuật
về con người của ông: “Trong con người tôi đang sổng lẫn lộn người tốt kẻ
xẩu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ”. Hay Nguyễn Khải đã lí
giải sự giao tranh giữa cái thiện và cái ác trong con người như sau: “Bên cạnh
Chúa có Quỷ, bên cạnh Phật có Ma. Ma quỷ cũng dự phần bất tử để làm mặt
đối lập, để thế giới này tiếp tục vận động và tồn tại ’’(Thòi gian của ngưòi).
Nếu nhân vật trong văn học Việt Nam trước 1975 có số phận luôn đi
theo đường thẳng, đơn giản một chiều, thường có mở đầu và kết thúc rõ ràng
thì nhân vật trong truyện ngắn hiện đại có số phận phức tạp, tâm trạng bị phân
mảnh. Đó là những khoảnh khắc, những dòng ý thức tuôn chảy lộn xộn, triền

miên đầy dằn vặt, day dứt. Đây chính là điểm làm nên sức hấp dẫn của truyện
ngắn hiện đại bỏi sự khám phá con người từ chiều sâu bên trong, đôi khi
người đọc bị cuốn luôn vào thế giói tâm trạng đầy giăng mắc của nhân vật.
Nếu nhân vật trong văn học Việt Nam trước 1975 thường là những nhân
vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình thì nhân vật trong truyện ngắn hiện đại
không có số phận hay tính cách điển hình. Họ chỉ là những con người bình
thường, vô danh trong cuộc sống. Thậm chí đó còn là những con người tàm
thường, dị biệt, đầy kì ảo. Lúc này, con người được đặt ra khỏi bầu không khí
“vô trùng” vốn có, vừa đi vừa vấp vấp ngã trước cuộc đời phức tạp, đày biến
động. Con người phải đối diện vói chính mình, làm chủ số phận của mình và
sống với tư cách là một cá nhân riêng lẻ, không nhân danh ai, không dựa vào ai.
Nếu nhân vật ữong văn học Việt Nam trước 1975 có mối quan hệ lỏng
lẻo, xoay quanh một tiêu điểm nhất định thì nhân vật trong truyện ngắn hiện


21

đại được đặt trong mối quan hệ phức tạp. Đó là những con người đang trong
quá trình hoàn chỉnh nhân cách, được thể hiện rõ ở tất cả các mối quan hệ xã
hội, quan hệ ứng xử và đòi sống riêng của nó. Ma Văn Kháng nhận xét:
“Cuộc đời thật là ẩn mật, giống như hình ảnh một dòng sông chảy ngầm
không sao hiểu nổi ngọn nguồn tung tích. Các mối liên hệ, sự giao cảm, chi
phổi và ràng buộc rất bí ẩn và tù m ù” (Chọn chồng). Như vậy, nhân vật
được đặt trong các mối quan hệ đa dạng, đan cài, đôi khi chồng chéo lên nhau
để từ đó họ bộc lộ tính cách và sự phản ứng của mình trước cuộc sống không
ngừng biến động.
Nếu nhân vật trong văn học Việt Nam trước 1975 thường mang tính sử
thi, hướng ngoại thì nhân vật trong truyện ngắn hiện đại lại hướng nội, luôn
sống thật với những dằn vặt, suy tư của mình. Chẳng hạn, trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu, nhân vật thường là những con người sám hối, thức tỉnh,

con người nhận đường đầy suy tư, dằn vặt. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp là những con người cô đon với bao cay đắng, nghiệt ngã của số
phận,.... Các diện mạo đa dạng ấy đã tạo cho văn xuôi từ sau 1975 có những
hình tượng nhân vật đa diện, sống động chứ không “khô cứng”, “công thức”
như phần lớn nhân vật trong văn học trước đây. Điều đó đã tạo cho văn xuôi
đương đại một sức hấp dẫn đặc biệt.
Cuối cùng, nếu nhân vật trong văn học Việt Nam trước 1975 chủ yếu được
xây dựng theo khuynh hướng sử thi và bút pháp lãng mạn thì nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong văn học đương đại có nhiều đổi mới, cách tân với những
thử nghiệm táo bạo (sử dụng yếu tố huyền ảo, đặt nhân vật trong cấu trúc
kép,...), thậm chí là mạo hiểm bởi các nhà văn nhận nhận thấy các thủ pháp
truyền thống đã không còn đủ khả năng để biểu hiện cái đa dạng, phức tạp
nhiều chiều của con người trong đời sống hiện đại.
Như vậy, nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại đã thoát khỏi lối
mòn quen thuộc vói những cách tân táo bạo cả về nội dung lẫn nghệ thuật xây


22

dựng, phá võ những quy phạm hình thành ữong hoàn cảnh chiến ữanh kéo
dài, dần dần đạt tới một quan niệm toàn diện, nhiều chiều về con người, mở ra
những tầng sâu mới mẻ và thú vị về đòi sống đầy bí ẩn của chúng ta.
1.2 Thế giói nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Mạnh Tuấn
1.2.1 Quan niệm nghệ thuật về con người
“Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con
người”. Nhận xét trên của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói lên sứ mệnh cao
cả của văn chương là phản ánh một cách sinh động và trung thực về con người.
Đúng vậy, văn học chính là nhân học, là khoa học đặc thù về thế giói
tâm hồn, tư tưởng của con người. Lịch sử văn học, nhìn theo góc độ nào đó là
lịch sử của những quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Quan niệm nghệ thuật là nguyên tắc
cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho
nó khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó [...]. Quan niệm
nghệ thuật thể hiện cái giới hạn tối đa trong cách biểu hiện thế giới và con
người của một hệ thống nghệ thuật thể hiện khả năng, phạm vi, mức độ chiếm
lĩnh đời sổng của nỏ ” [13, tr 273].
Trong cuốn Lí luận phê bình văn học, tác giả Tràn Đình Sử cũng đã
nêu ra cách hiểu: “Quan niệm nghệ thuật là giới hạn thực tế của tư duy nghệ
thuật, nó là thế thống nhất giữa hiện thực được phản ánh và năng lực cắt
nghĩa, lí giải của con người [...] trong nghệ thuật, thế giới được “quan niệm
hỏa ” trên cơ sở thụ cảm cá nhân về một thế giới, ứng với một quan niệm nghệ
thuật là một thế giới nghệ thuật” [27, tr 99 - 100].
Tóm lại, quan niệm nghệ thuật là hệ thống quan điểm chỉ đạo hoạt động
sáng tạo nghệ thuật của ngưòi nghệ sĩ. Nó chính là phông nền tư tưởng để nhà
văn có thể sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật của mình. Thấy được quan niệm
của nhà văn chúng ta có thể soi chiếu vào thực tế sáng tạo và tư tưởng của
người nghệ sĩ đó.


×