Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Các chỉ tiêu và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 105 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trƣờng, doanh ngiệp muốn tồn tại và phát triển thì
phải không ngừng đổi mới, phát triển phù hợp với quy luật và phải thắng
đƣợc trong cạnh tranh. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ-tín dụng cũng không
nằm ngoài quy luật đó, hiện nay sự cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực tài chính
- ngân hàng đã tạo ra cơ hội cho các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam phát
triển và tự khẳng định mình, song nó cũng tạo ra những thách thức lớn mà các
ngân hàng phải đối đầu.Các ngân hang thƣơng mại Việt Nam nói chung,đặc
biệt là các Ngân hàng TMCP,trong đó có Ngân hàng thƣơng mại cổ phần các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh Viêt Nam gặp rất nhiều khó khăn do vốn nhỏ
,cơ sở vật chất nghèo nàn,chƣa có nhiều kinh nghiêm hoạt động trong nền
kinh tế thị trƣờng. Cùng cạnh tranh với các Ngân hàng thƣơng mại khác
(Ngân hang quốc doanh, Ngân hàng nƣớc ngoài và các Ngân hàng thƣơng
mại cộ phần khác) có trình độ và công nghệ ngân hàng cao trong điều kiên
nƣớc ta đang hội nhập đã đặt ra cho Ngân hàng thƣơng mại cổ phần các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh Viêt Nam nhiều khó khăn cần phải khắc
phục.Trong đó, phải làm thế nào vừa mở rộng thị phần vừa nâng cao chất
lƣợng cho vay để trở thành một trong những ngân hàng hàng đầu tại Việt
Nam.Một hƣớng đi mới mà Ngân hàng thƣơng mại cổ phần các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh Viêt Nam đã tìm ra và đang trong những bƣớc đầu của quá
trình thực hiện: Đó chính là chiến lƣợc ngân hàng bán lẻ. Ngân hàng bán lẻ là
ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia
đình và các cá nhân, với quy mô các khoản giao dịch nhỏ, bao gồm tiền gửi
tiết kiệm, tài khoản ATM, cho vay thế chấp, cho vay tiêu dùng cá nhân.
Vì vậy em đã chọn đề tài “Các chỉ tiêu và Giải pháp nâng cao khả năng
cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại”

Nhóm: 3

Trang 1



Ngoài phần mở bài, kết luận chuyên đề được chia làm ba chương
Chƣơng I: Tổng quan về cho vay tiêu dùng và khả năng cạnh
tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thƣơng mại.
Chƣơng II: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng và khả năng
cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng
Chƣơng III: Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong
hoạt động cho vay tiêu dùng

Nhóm: 3

Trang 2


CHƢƠNG I: .TỔNG QUAN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG VÀ KHẢ
NĂNG CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1. 1. 1 Ngân hàng thƣơng mại.
1.1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thƣơng mại đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau ở các
nƣớc trên thế giới. ở một số nƣớc thì khái niệm này dùng để chỉ một tổ chức
tài chính tiền tệ mà hoạt động kinh doanh chủ yếu của nó là nhận tiền gửi từ
các cá nhân hay tổ chức kinh tế sau đóđể cho các cá nhân hay tổ chức khác
vay lại. Phạm vi hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại có thể không đƣợc
phép kinh doanh tổng hợp các dịch vụ khác nhƣđầu tƣ tài chính, cung cấp
dịch vụ cho các nhóm ngành nghề riêng biệt. Trong khi đó ở một số nƣớc
khác thì lại cho rằng ngân hàng thƣơng mại là ngân hàng đƣợc phép kinh
doanh tổng hợp tất cả các dịch vụ ngân hàng.
Theo pháp luật nƣớc Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản

tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ
chức kinh doanh hay cho vay thƣơng mại sẽđƣợc xem là một Ngân hàng
thƣơng mại
Một cách tiếp cận khác của Peter S.Rose cho thấy: Ngân hàng thƣơng
mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế
Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam: Ngân hàng thƣơng mại
là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng với hoạt
động thƣờng xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán
Nhóm: 3

Trang 3


Trên thực tế, các ngân hàng thƣơng mại ở nƣớc ta ngoài việc thực hiện
các hoạt động ghi trong luật nêu trên thì còn phải thực hiện các hoạt động
khác phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội thực hiện theo định hƣớng
xã hội chủ nghĩa.
Nhƣ vậy, ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại thường được hiểu
như một tổ chức tín dụng thực hiện các dịch vụ tổng hợp về kinh doanh tiền tệ
như nhận gửi của khách hàng để cho vay, cung cấp lại vốn đầu tư, các dịch
vụ thanh toán...và chịu sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.
1.1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại:
Để thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thƣơng mại thực
hiện tổng hợp nhiều hoạt động nghiệp vụ, trong đó có thể chia thành 3 hoạt
động nghiệp vụ chính, đó là:
- Hoạt động nghiệp vụ tài sản nợ (Nghiệp vụ tạo vốn).

- Hoạt động nghiệp vụ tài sản có (Cho vay vàđầu tƣ).
- Hoạt động trung gian (Dịch vụ ngân hàng).
a. Hoạt động nghiệp vụ tài sản nợ (Nghiệp vụ tạo vốn):
Đây là một trong hai nghiệp vụ quan trọng nhất của ngân hàng thƣơng
mại, Nghiệp vụ tài sản nợ của ngân hàng thƣơng mại là nghiệp vụ tạo vốn
bằng nhiều hình thức khác nhau để tạo nguồn vốn hoạt động cho ngân hàng.
Các nguồn vốn của ngân hàng thƣơng mại bao gồm:
- Vốn tự có và coi nhƣ tự có: Nguồn vốn này của ngân hàng thƣơng
mại chiếm tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ nguồn vốn hoạt động nhƣng nó lại có
vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thƣơng mại.
Nguồn vốn này chính là cơ sởđể xác định lƣợng vốn đƣợc phép huy động, tỷ
lệđƣợc phép cho vay và khả năng đảm bảo thanh toán của ngân hàng cho
khách hàng. Nguồn vốn này có thểđƣợc cấp từ Nhà nƣớc (Ngân hàng thƣơng
mại quốc doanh) hoặc thu hút từ các cổđông đóng góp (Ngân hàng thƣơng
mại cổ phần). Nguồn vốn này bao gồm vốn pháp định, các quỹ dự trữ, quỹ
phúc lợi, khen thƣởng và lợi nhuận chƣa chia.
Nhóm: 3

Trang 4


- Vốn huy động: Nguồn vốn này đƣợc các ngân hàng thƣơng mại huy
động từ các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội và từ dân cƣ theo các hình thức
sau:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền nằm trong tài khoản vãng lai
hoặc tài khoản thanh toán của khách hàng và có thể rút ra bất kỳ lúc nào. Bộ
phận tiền gửi này bao gồm: tiền gửi thanh toán đƣợc bảo quản trên 3 tài khoản
của ngân hàng là: tài khoản tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tài khoản séc và
tài khoản vãng lai có thể dƣ có (thể hiện tiền gửi của khách hàng) hoặc dƣ nợ
(thể hiện tài khoản ngân hàng cho khách hàng vay). Ƣu điểm của tiền gửi

không kỳ hạn là chi phí huy động thấp nhƣng nhƣợc điểm là tính ổn định
không cao nên các ngân hàng thƣơng mại thƣờng phải thực hiện một mức dự
trữ bắt buộc đểđảm bảo khả năng thanh toán.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có quy định cụ thể về thời hạn rút
tiền của khách hàng. Nó có thể là tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp khi có
các khoản thu và xác định đƣợc thời gian chi trả hoặc các khoản tiền tích luỹ
của doanh nghiệp.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn quan trọng của
ngân hàng. Đặc điểm của loại tiền gửi này là ngƣời gửi tiền đƣợc ngân hàng
giao cho một quyển sổ tiết kiệm, sổ này coi nhƣ giấy chứng nhận có tiền gửi
vào quỹ của ngân hàng.
Hai loại tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có tính chất ổn định
trong thời gian dài nên rất đƣợc các ngân hàng thƣơng mại chú trọng và có
biện pháp kích thích bằng việc tạo ra các sản phẩm huy động với thời hạn và
mức lãi suất huy động khác nhau với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất
huy động càng cao.
- Vốn vay: Ngân hàng có thể huy động vốn vay bằng cách vay ngắn,
trung hoặc dài hạn từ ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác hoặc nhận quỹ
uỷ thác đầu tƣ của các tổ chức tài trợ (chính phủ hay quốc tế) để cho vay ƣu
đãi đối với một sốđối tƣợng đƣợc lựa chọn.
Nhóm: 3

Trang 5


- Vốn huy động khác: Ngân hàng có thể huy động vốn bằng cách phát
hành các loại chứng khoán (kỳ phiếu, trái phiếu...) để huy động vốn từ dân cƣ
hay tổ chức, công ty nào đó...
b. Hoạt động nghiệp vụ tài sản có:
Hoạt động nghiệp vụ tài sản có là hoạt động nghiệp vụ sử dụng nguồn

vốn của ngân hàng thƣơng mại vào các hoạt động kinh doanh chủ yếu sau:
- Hoạt động cho vay: Là việc ngân hàng thƣơng mại cho khách hàng
vay một số tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định và khi hết hạn
vay, ngƣời vay phải hoàn trả ngân hàng một khoản tiền bao gồm cả gốc và lãi.
Nghiệp vụ cho vay là hoạt động nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các
ngân hàng thƣơng mại và cũng là hoạt động nghiệp vụ có thể thúc đẩy hay
kìm hãm các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Nghiệp vụ cho vay có thểđƣợc phân loại theo các tiêu thức khác nhau
nhƣ:
+ Theo thời gian: gồm có cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn.
+ Theo đối tƣợng vay: cho vay nông nghiệp, công nghiệp, công ích, cá
nhân.
- Hoạt động đầu tƣ: bao gồm:
+ Đầu tƣ chứng khoán.
+ Đầu tƣ liên doanh, liên kết.
c.Hoạt động trung gian (Dịch vụ ngân hàng):
Trong hoạt động ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng đƣợc coi là các hoạt
động nghiệp vụ bên thứ ba bên cạnh các hoạt động nghiệp vụ có và các hoạt
động nghiệp vụ nợ. Thông thƣờng ngân hàng cung cấp các dịch vụ trung gian
nhƣ:
+ Hoạt động bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết trả thay cho khách
hàng trong trƣờng hợp khách hàng không có khả năng thanh toán hoặc không
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với bên yêu cầu bảo lãnh.
+ Thanh toán...
Nhóm: 3

Trang 6


+ Kinh doanh ngoại hối, vàng bạc đá quý...

+ Nhận uỷ thác, ký gửi...
+ Hoạt động tƣ vấn đầu tƣ.
+ Hoạt động đại lý kinh doanh chứng khoán...
Các hoạt động của ngân hàng thƣơng mại có quan hệ bổ sung, hỗ trợ
cho nhau. Trong đó hoạt động nghiệp vụ nợ là cơ sởđể thực hiện hoạt động
nghiệp vụ có. Hoạt động nghiệp vụ có làm tăng khả năng sinh lời của ngân
hàng thƣơng mại, góp phần mở rộng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng do
đƣợc tăng vốn dự trữ, tăng khả năng huy động vốn. Trên cơ sở hoạt động
nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng thƣơng mại có thể thực hiện đƣợc các hoạt
động nghiệp vụ trung gian. Nếu thực hiện tốt hoạt động nghiệp vụ trung gian
thì ngân hàng thƣơng mại cóđiều kiện tăng nguồn vốn vì hoạt động nghiệp vụ
trung gian vừa gần hoạt động nghiệp vụ có lại vừa gần hoạt động nghiệp vụ
nợ.
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI
1.2.1. Khái quát về cho vay tiêu dùng.
Hoạt động cho vay tiêu dùng đã có một lịch sử phát triển lâu dài, nó
xuất hiện từ thời phong kiến, tại nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, nó chỉ
thực sự có những bƣớc tiến đáng kể và mạnh mẽ trong khoảng thời gian gần
đây.
Vào những năm 80 của thế kỷ 20, hệ thống ngân hàng thƣơng mại của
Mỹ phải tiến hành cải cách trƣớc sự cạnh tranh gay gắt ảnh hƣởng đến việc
thực hiện các nghiệp vụ của các NHTM. Trong thực tế, sự cạnh tranh mạnh
mẽ đã tạo ra những thay đổi to lớn trong lĩnh vực công nghệ, luật pháp..., và
chính sự thay đổi đó đã tạo ra sự thay đổi về các dịch vụ mà ngân hàng cung
ứng, đồng thời vai trò của NHTM trong hệ thống tài chính cũng không còn
duy trì đƣợc nhƣ trƣớc, từ đó đã dẫn đến sự thay đổi cơ cấu trong các NHTM.
Môi trƣờng cạnh tranh thay đổi một cách nhanh chóng và mạnh mẽ khiến các
Nhóm: 3


Trang 7


ngân hàng thƣơng mại nếu không tiến hành đổi mới thì không thể tham gia
cạnh tranh trong hệ thống tài chính đƣợc.
Các NHTM không chỉ phải cạnh tranh với chính các ngân hàng trong
cùng hệ thống, mà bên cạnh đó nó còn phải đối đầu với các tổ chức tài chính
nhƣ: Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, Công ty thuê mua v.v... đã ra đời
và đang cùng tham gia chia sẻ thị phần thị trƣờng với nó. Cuộc cạnh tranh
giữa các tổ chức tài chính càng diễn ra mạnh mẽ khi vào những năm 1970,
các nhà môi giới đã tạo lập nên “thị trƣờng tiền tệ bán lẻ”. Do đó, đến đầu
những năm 1980, trƣớc đòi hỏi của các ngân hàng về một “lĩnh vực tham gia
ở mức độ cao hơn”, Quốc hội Mỹ đã cho phép các ngân hàng cung ứng “tài
khoản thị trƣờng tiền tệ” và dịch vụ môi giới.
Cũng trong giai đoạn này, sự tiến bộ vƣợt bậc của khoa học kỹ thuật đã
tạo ra nhiều phƣơng tiện máy móc hiện đại nhƣ: máy tính nối mạng, máy rút
tiền tự động v.v..., đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh không chỉ giữa
các ngân hàng mà còn với các tổ chức tài chính khác. Cùng với các tiến bộ
đó, hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM đã có sự thay đổi. Nếu nhƣ trƣớc
đây, các ngân hàng chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động cho vay thƣơng mại,
thì đến giai đoạn này họ đã mở rộng lĩnh vực hoạt động bằng việc triển khai
hoạt động cho vay tiêu dùng, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng vào những
năm 1980.
Một yếu tố khách quan thúc đẩy hoạt động tín dụng tiêu dùng phát triển
mạnh đó là xuất phát từ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Thông
qua mối quan hệ này, ngân hàng thấy đƣợc nhu cầu tín dụng theo hình thức
này từ cả phía ngƣời sản xuất lẫn ngƣời tiêu dùng. Các nhà sản xuất cần có sự
hỗ trợ để gia tăng tiêu thụ hàng hoá, còn ngƣời tiêu dùng cần tìm nguồn tài trợ
cho các nhu cầu mà hiện tại sự tích luỹ của họ chƣa đáp ứng đƣợc.
Ngày nay, lĩnh vực cho vay tiêu dùng đang phát triển mạnh mẽ. Nhiều

công ty chuyên môn hoá đã tìm kiếm nhiều dạng dịch vụ khác nhau và hiện
đang mở rộng dần ra, phù hợp với việc cung cấp đa dạng các loại hình dịch
Nhóm: 3

Trang 8


vụ. Lĩnh vực này cũng không còn chỉ do các ngân hàng và công ty tài chính
thực hiện nữa mà các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, ngân hàng tiết
kiệm bƣu điện...vv cùng tham gia cung cấp dịch vụ này.
Tại Việt Nam, hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM đã phát triển
vào những năm 1993 – 1994, trong thời gian đầu này tập trung nhiều vào cho
vay trả góp, các sản phẩm cung ứng còn rất đơn điệu. Tuy nhiên, do chƣa có
hành lang pháp lý rõ ràng nên hoạt động đƣợc một thời gian các ngân hàng tỏ
ra rất lúng túng trong việc cấp tín dụng theo hình thức này.
Hiện nay, khi mà một số văn bản pháp luật hƣớng dẫn đã ra đời thì lĩnh
vực cho vay tiêu dùng ở nƣớc ta lại đang trong xu thế rộ lên, nó đang đƣợc
xem là thị trƣờng tiềm năng lớn và có nhiều điều kiện phát triển mạnh cho các
NHTM tại Việt Nam.
Vậy thế nào là cho vay tiêu dùng?
Có ngƣời thì cho rằng: cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ cho nhu
cầu chi tiêu (mua sắm phƣơng tiện, đồ dùng, sửa chữa nhà cửa, chi cho học
hành, y tế, du lịch...) của cá nhân hay hộ gia đình.
Tuy nhiên, một khái niệm mang tính đầy đủ về cho vay tiêu dùng tại
NHTM là: Cho vay tiêu dùng nghiệp vụ trong đó ngân hàng là người cho vay
, người đi vay là các cá nhân , hộ gia đình ,trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc
và lãi trong một khoảng thời gian xác định nhằm giúp ngượi tiêu dung sử
dụng hàng hoá,dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả ,tạo điều kiện cho họ
được hưởng mức sống cao hơn
1.2.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng.

Quy mô khoản vay nhỏ nhƣng số lƣợng các khoản vay rất lớn.
Do mục đích vay tiêu dùng nên quy mô các khoản vay không lớn. Vì
nhu cầu của dân cƣ với các loại hàng hoá xa xỉ là không cao hoặc đã có tích
luỹ trƣớc đối với các loại tài sản có giá trị lớn. Song, nhu cầu vay tiêu dùng là
khá phổ biến do đối tƣợng của loại hình cho vay này là mọi cá nhân trong xã

Nhóm: 3

Trang 9


hội từ những ngƣời có thu nhập cao đến những ngƣời có thu nhập trung bình
và thấp với nhiều nhu cầu phong phú và đa dạng.
Nguồn trả nợ: khách hàng trích nguồn thu nhập từ lƣơng, thu nhập từ
hoạt động kinh doanh của mình (không phải là từ kết quả sử dụng những
khoản vay đó).
Mục đích vay: Nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia
đình không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Nhu cầu đó có thể xuất
phát từ việc: mua nhà, sửa chữa nhà, xây dựng, mua sắm phƣơng tiện, đồ
dùng, hay các nhu cầu du lịch, học hành hoặc giải trí...
Về rủi ro: Các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao vì bên cạnh sự
ảnh hƣởng của các yếu tố khách quan nhƣ môi trƣờng kinh tế, văn hóa, xã hội
nó còn phải chịu tác động của những nhân tố chủ quan xuất phát từ bản thân
khách hàng.
Trong cuộc sống, chúng ta không thể lƣờng trƣớc đƣợc hết hậu quả do
những rủi ro khách quan nhƣ suy thoái kinh tế, mất mùa, thiên tai… Đặc biệt,
hoạt động cho vay tiêu dùng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, nhất là khi nền
kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Khi đó, ngƣời tiêu dùng sẽ không thấy tin
tƣởng vào tƣơng lai và cùng với những lo lắng về nguy cơ thất nghiệp, họ sẽ
hạn chế việc vay mƣợn từ ngân hàng.

Ngoài ra, cho vay tiêu dùng còn chịu một số rủi ro chủ quan nhƣ tình
trạng sức khoẻ, khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình…Điều đó tạo nên
rủi ro lớn cho ngân hàng, hơn nữa thông tin tài chính của đối tƣợng này rất
khó đầy đủ và chính xác hoàn toàn. Mặt khác yếu tố đạo đức của cá nhân
ngƣời tiêu dùng cũng là nhân tố tác động trực tiếp vào việc trả nợ cho ngân
hàng, hay số lƣợng các khoản vay tiêu dùng là rất lớn trong khi đó số lƣợng
CBTD ngân hàng lại có hạn cũng sẽ tạo nên rủi ro cho ngân hàng.
Chi phí mỗi khoản cho vay tiêu dùng là khá lớn.
Do thông tin về nhân thânD, lai lịch và tình hình tài chính của khách
hàng thƣờng không đầy đủ và khó thu thập, ngân hàng phải bỏ nhiều chi phí
Nhóm: 3

Trang 10


cho công tác thẩm định và xét duyệt cho vay. Hơn nữa phần lớn các khoản
vay với số lƣợng lớn và giá trị nhỏ nên ngân hàng phải chịu một khoản chi phí
đáng kể để quản lý hồ sơ khách hàng. Chính vì thế, cho vay tiêu dùng trở
thành khoản mục có chi phí lớn nhất trong các khoản mục tín dụng ngân
hàng.
Lợi nhuận từ cho vay tiêu dùng cao.
Do rủi ro cao và chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ của cho vay tiêu
dùng lớn nên ngân hàng thƣờng đặt lãi suất rất cao đối với các khoản cho vay
tiêu dùng. Bên cạnh đó, số lƣợng các khoản cho vay tiêu dùng là khá nhiều,
khiến cho tổng quy mô cho vay tiêu dùng là rất lớn, cùng với tiền lãi thu đƣợc
từ mỗi khoản vay làm cho tổng lợi nhuận thu đƣợc từ hoạt động cho vay tiêu
dùng là đáng kể.
1.2.3. Phân loại cho vay tiêu dùng
Có nhiều cách phân chia cho vay tiêu dùng thành các loại khác nhau,
tuỳ theo tiêu thức chúng ta lựa chọn mà cho vay tiêu dùng đƣợc phân chia

thành:
Căn cứ vào mục đích vay.
Cho vay tiêu dùng bất động sản. Là khoản tín dụng đƣợc cấp nhằm tài
trợ cho nhu cầu mua, xây dựng, cải tạo nhà cho khách hàng (cá nhân hay hộ
gia đình). Đặc điểm của những món vay này là quy mô thƣờng lớn, thời gian
dài. Việc đánh giá giá trị tài sản tài trợ có vai trò vô cùng quan trọng đối với
ngân hàng. Nếu nhƣ trong cho vay tiêu dùng thông thƣờng thì thu nhập tƣơng
lai của ngƣời vay là yếu tố quan trọng để ngân hàng quyết định có cho vay
hay không thì trong cho vay nhà ở, giá trị và tình hình biến động giá của tài
sản đƣợc tài trợ là yếu tố mà ngân hàng rất quan tâm. Bởi vì khoản tín dụng
tài trợ cho loại tài sản này có giá trị lớn, nên sự biến động theo hƣớng không
có lợi của nó sẽ dẫn tới những thiệt hại rất lớn cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng thông thường.

Nhóm: 3

Trang 11


Đây là những khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống nhƣ
mua sắm phƣơng tiện§, đồ dùng, du lịch, học hành, y tế hoặc giải trí ... Đặc
điểm của những khoản tín dụng này thƣờng có quy mô nhỏ, thời gian tài trợ
ngắn. Do đó mà mức độ rủi ro đối với ngân hàng là thấp hơn những khoản
cho vay tiêu dùng bất động sản. Đối với loại cho vay này, yếu tố quyết định
cho vay hay không là khả năng trả nợ của ngƣời vay, sau đó mới xem xét đến
giá trị tài sản đảm bảo.
Căn cứ vào phƣơng thức hoàn trả.
Theo tiêu thức này thì cho vay tiêu dùng đƣợc phân thành:
Cho vay tiêu dùng trả góp:
Theo hình thức tài trợ này, thì ngƣời đi vay trả nợ cho ngân hàng (gồm

cả gốc và lãi) theo nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định do ngân hàng quy
định (tháng, quý...). Hình thức này áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn
hoặc với những khách hàng mà thu nhập định kỳ của họ không đủ để thanh
toán hết một lần số nợ vay. Đối với loại cho vay này ngân hàng cần chú ý đến
những vấn đề cơ bản sau:
- Loại tài sản được tài trợ: thiện chí trả nợ của ngƣời vay sẽ tốt hơn khi
tài sản hình thành từ tiền vay thỏa mãn nhu cầu lâu bền của họ trong tƣơng
lai. Với mỗi ngân hàng, họ rất quan tâm đến việc lựa chọn tài sản để tài trợ và
thƣờng họ chỉ muốn tài trợ cho những tài sản có thời gian sử dụng dài, có giá
trị lớn; với những tài sản này, ngƣời vay có thể hƣởng tiện ích của nó trong
một khoảng thời gian dài.
- Số tiền phải trả trước: với hình thức này, ngân hàng sẽ yêu cầu ngƣời
đi vay phải có vốn tự có trên tổng phƣơng án xin vay, phần còn lại ngân hàng
sẽ cho vay, thƣờng chỉ cho vay từ 45% - 65% tổng giá trị tài sản tùy theo các
yếu tố nhƣ: loại tài sản, thị trƣờng tiêu thụ tài sản sau khi đã sử dụng, thực lực
tài chính, trình độ và nhân thân, lai lịch của ngƣời vay. Quy định này của
ngân hàng nhằm tránh trƣờng hợp khách hàng dùng tài sản hình thành từ vốn

Nhóm: 3

Trang 12


vay làm tài sản thế chấp, khi phải phát mại tài sản không gây nhiều rủi ro cho
ngân hàng.
Điều khoản thanh toán.
Số tiền thanh toán mỗi kì hạn phải phù hợp với khả năng về thu nhập
sau khi đã trừ đi các khoản chi tiêu khác.
Giá trị tài sản không đƣợc thấp hơn số tiền cho vay chƣa đƣợc thu hồi.
Thời hạn cho vay không nên quá dài nhằm tránh cho việc tài sản tài trợ

bị giảm giá trị theo thời gian đi kèm với rủi ro tín dụng tăng lên.
Số tiền mà khách hàng phải thanh toán mỗi kì hạn trả nợ có thể đƣợc
tính bằng các phƣơng pháp nhƣ sau:
Phương pháp lãi đơn: theo đó, vốn gốc ngƣời đi vay phải trả từng kì
hạn trả nợ đƣợc tính đều nhau, bằng cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kì
hạn thanh toán hoặc có thể đƣợc thực hiện theo quý hay theo năm tài chính.
Phương pháp lãi gộp: đây là phƣơng pháp thƣờng đƣợc áp dụng trong
cho vay tiêu dùng trả góp. Theo phƣơng pháp này, trƣớc hết lãi đƣợc tính
bằng cách lấy vốn gốc nhân với lãi suất và thời hạn vay, sau đó cộng gộp với
vốn gốc rồi chia cho số kì hạn phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán ở
mỗi kì hạn trả nợ.
Vấn đề phân bổ lãi vay theo thời gian.
Khi sử dụng phƣơng pháp lãi gộp để tính lãi, các ngân hàng thƣờng tiến
hành phân bổ phần lãi cho vay đã đƣợc tính. Việc phân bổ có thể đƣợc thực
hiện theo định kì gắn liền với các kì hạn thanh toán hoặc có thể đƣợc thực
hiện theo quý hoặc theo năm tài chính.
Vấn đề trả nợ trước hạn
Khi ngƣời đi vay trả nợ trƣớc hạn xảy ra trƣờng hợp: nếu tiền trả góp
theo phƣơng pháp lãi đơn thì vấn đề rất đơn giản, ngƣời đi vay chỉ phải thanh
toán toàn bộ gốc còn thiếu và lãi vay của kì hạn hiện tại cho ngân hàng. Tuy
nhiên nếu tiền lãi đƣợc tính bằng phƣơng pháp lãi gộp thì vấn đề sẽ phức tạp
hơn vì theo phƣơng pháp này, lãi đƣợc giả định rằng tiền vay sẽ đƣợc khách
Nhóm: 3

Trang 13


hàng sử dụng cho đến lúc kết thúc hợp đồng, nếu khách hàng trả nợ trƣớc hạn
thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời hạn nợ ban đầu và nhƣ vậy số tiền lãi
phải trả cũng có sự thay đổi. Khi đó, ngƣời ta sẽ sử dụng phƣơng pháp phân

bổ lãi cho vay theo thời gian để tính số lãi thực tế phải thu, dựa trên thời hạn
nợ thực tế.
Cho vay tiêu dùng trả một lần.
Đây là hình thức tài trợ mà theo đó số tiền vay của khách hàng sẽ đƣợc
thanh toán một lần khi hợp đồng tín dụng đến hạn. Đặc điểm của các khoản
tín dụng này thƣờng có quy mô nhỏ, thời hạn cho vay ngắn. Ngân hàng áp
dụng hình thức này bởi đây là biện pháp sẽ giúp ngân hàng không mất nhiều
thời gian nhƣ khi phải tiến hành thu nợ làm nhiều kỳ. Trong thực tế, khoản
cho vay tiêu dùng cấp theo hình thức này là rất ít.
Căn cứ vào phƣơng thức cho vay giữa ngân hàng và khách hàng vay
vốn.
Theo đó cho vay tiêu dùng đƣợc phân thành:
Cho vay tiêu dùng trực tiếp:
Đây là hình thức trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc với khách hàng
của mình, việc thu nợ cũng đƣợc tiến hành trực tiếp bởi chính ngân hàng. Có
thể hình dung qua các bƣớc sau:
(1). Ngân hàng và ngƣời tiêu dùng ký hợp đồng tín dụng với nhau.
(2). Ngƣời tiêu dùng trả trƣớc nhà cung cấp một phần số tiền mua hàng hoá
của mình.
(3). Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho nhà cung cấp.
(4). Nhà cung cấp giao hàng hoá cho ngƣời tiêu dùng.
(5). Ngƣời tiêu dùng thanh toán khoản nợ cho ngân hàng.
Ƣu điểm của hình thức tài trợ này là: rất linh hoạt vì có sự đàm phán
trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng, quyết định cho vay hay không hoàn
toàn do ngân hàng quyết định, ngoài ra ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình
độ kiến thức kinh nghiệm của CBTD. Hơn nữa, khi khách hàng quan hệ trực
Nhóm: 3

Trang 14



tiếp với ngân hàng, có nhiều khả năng họ sẽ sử dụng các dịch vụ khác của
ngân hàng nhƣ mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ chuyển tiền....và nhƣ
vậy quyền lợi của cả hai phía ngân hàng và khách hàng đều đƣợc thỏa mãn
trên cơ sở thỏa thuận trực tiếp của cả hai bên.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp:
Đây là hình thức ngân hàng không trực tiếp ký hợp đồng với ngƣời tiêu
dùng, mà theo hình thức này ngân hàng sẽ ký kết hợp đồng với chính nhà
cung cấp, thực ra là mua những khoản nợ, để trên cơ sở đó nhà cung cấp sẽ
bán chịu hàng hoá cho ngƣời tiêu dùng. Hợp đồng ký kết giữa ngân hàng và
nhà cung cấp quy định rõ điều kiện bán chịu nhƣ: đối tƣợng khách hàng đƣợc
bán chịu, loại hàng đƣợc bán chịu, số tiền đƣợc bán chịu...v.v. Thông qua
những điều kiện đó mà nhà cung cấp sẽ thoả thuận với khách hàng của mình
về việc bán chịu hàng hoá.Có thể hình dung qua các bƣớc sau:
(1). Ngân hàng và nhà cung cấp ký hợp đồng mua bán nợ.
(2). Nhà cung cấp và ngƣời tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng
hoá.
(3). Nhà cung cấp giao hàng hoá cho ngƣời tiêu dùng.
(4). Nhà cung cấp bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng để
đƣợc thanh toán.
(5). Ngân hàng thanh toán cho nhà cung cấp.
(6). Ngƣời tiêu dùng thanh toán khoản nợ cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp thƣờng đƣợc thực hiện thông qua các
phƣơng thức sau:
Tài trợ truy đòi toàn bộ: theo phƣơng thức này, khi bán hàng cho ngân
hàng các khoản nợ mà ngƣời tiêu dùng đã mua chịu, công ty bán lẻ cam kết
thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn, ngƣời tiêu
dùng không thanh toán cho ngân hàng.
Tài trợ truy đòi hạn chế: theo phƣơng thức này, chịu trách nhiệm của
Công ty bán lẻ đối với các khoản nợ ngƣời tiêu dùng mua chịu, không thanh

Nhóm: 3

Trang 15


toán chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào các điều
khoản đã đƣợc thỏa thuận giữa ngân hàng với công ty bán lẻ.
Tài trợ miễn truy đòi: theo phƣơng thức này, sau khi bán các khoản nợ
cho ngân hàng, công ty bán lẻ không còn trách nhiệm trong việc chúng có
đƣợc hoàn trả hay không. Phƣơng thức này chứa đựng rủi ro cao cho ngân
hàng nên chi phí của khoản vay thƣờng đƣợc ngân hàng tính cao hơn so với
các phƣơng thức nói trên và các khoản nợ đƣợc mua cũng đƣợc kén chọn rất
kỹ. Ngoài ra, chỉ những công ty bán lẻ rất đƣợc ngân hàng tin cậy mới đƣợc
áp dụng phƣơng thức này.
Tài trợ có mua lại: khi thực hiện cho vay tiêu dùng theo phƣơng thức
miễn truy đòi hoặc truy đòi hạn chế, nếu rủi ro xảy ra, ngƣời tiêu dùng không
trả đƣợc nợ thì ngân hàng sẽ thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong trƣờng hợp
này, nếu có thỏa thuận trƣớc thì ngân hàng có thể bán trở lại cho công ty bán
lẻ phần nợ mình chƣa đƣợc thanh toán.
Ƣu điểm của cho vay tiêu dùng gián tiếp
Theo hình thức này, ngân hàng sẽ có điều kiện tiếp xúc đƣợc với một
lƣợng khách hàng khá đông đảo, khắc phục đƣợc tâm lý e ngại của họ khi tìm
đến với ngân hàng. Điều đó, giúp ngân hàng tiết kiệm đƣợc chi phí trong việc
cấp tín dụng vì ngân hàng chỉ phải ký hợp đồng với chính nhà cung cấp mà
thôi. Việc cấp tín dụng kiểu này cũng giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro. Bởi,
khi mà ngân hàng có quan hệ tốt với nhà cung cấp hoặc hợp đồng ký với nhà
cung cấp có những điều kiện ràng buộc (đƣợc truy đòi), thì khi ngƣời tiêu
dùng không thanh toán cho ngân hàng, ngân hàng có quyền truy đòi nhà cung
cấp về khoản nợ trên (có đƣợc nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng). Mặt
khác, khi đã có hợp đồng ràng buộc thì nhà cung cấp cũng phải cân nhắc

trƣớc quyết định có bán chịu hàng hoá cho ngƣời tiêu dùng hay không (gián
tiếp giúp ngân hàng thẩm định khách hàng).
Nhƣợc điểm của cho vay tiêu dùng gián tiếp

Nhóm: 3

Trang 16


Bên cạnh những ƣu điểm trên thì hình thức này cũng bộc lộ những
nhƣợc điểm sau:
Đó là, ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng đã đƣợc nhà cung
cấp bán chịu hàng hoá, do đó mà không thể nắm đƣợc tình hình thực tế của
khách hàng mà ngân hàng tài trợ, ngân hàng cũng phải đối mặt với tình trạng
nhà cung cấp chỉ vì muốn bán đƣợc hàng mà đã không xem xét kỹ lƣỡng về
khách hàng khi thẩm định. Mặt khác, ngân hàng còn phải chịu rủi ro khi
ngƣời tiêu dùng không thanh toán khoản vay cho ngân hàng, trong khi hợp
đồng giữa ngân hàng và nhà cung cấp lại không có điều khoản đƣợc truy đòi
mặc dù đây chỉ là hãn hữu. Bởi, chỉ những nhà cung cấp thật sự tin cậy thì
ngân hàng mới ký hợp đồng kiểu này, và những khoản nợ đƣợc mua theo điều
kiện này cũng đƣợc lựa chọn rất kỹ càng.
Sự khác nhau giữa cho vay tiêu dùng trực tiếp và cho vay tiêu dùng
gián tiếp:
-Nếu ngân hàng quan hệ tốt với các công ty bán lẻ thì cho vay tiêu dùng
gián tiếp sẽ mang lại độ an toàn cao hơn cho ngân hàng. Rủi ro trong hoạt
động cho vay này sẽ đƣợc san sẻ giữa ngân hàng với các công ty bán lẻ.Còn
trong cho vay tiêu dùng trực tiếp mọi rủi ro sẽ do ngân hàng tự gánh chịu.
-Tuy nhiên trong hoạt động cho vay tiêu dùng trực tiếp, các quyết định
của ngân hàng trong việc có cho vay hay không đạt độ chuẩn mực cao hơn
nhiều lần so với những quyết định của Nhà cung cấp; bởi, những nhân viên

tín dụng họ đƣợc đào tạo vững về chuyên môn nghiệp vụ, trong khi đối với
Nhà cung cấp thì những nhân viên của họ lại mạnh về khía cạnh bán hàng mà
không mạnh về khía cạnh thẩm định tín dụng. Mặt khác, trong một số tình
huống nhân viên bán lẻ thƣờng chỉ chú trọng vào việc bán cho đƣợc nhiều
hàng hóa nên đôi khi những quyết định của họ là vội vàng dẫn đến nhiều
khoản tín dụng đƣợc cấp không chính đáng. Bên cạnh đó, việc tiếp xúc trực
tiếp với khách hàng cũng tạo điều kiện cho ngân hàng có thể xử lý linh hoạt
đƣợc ngay những tình huống phức tạp nhƣ: một vài điều kiện của khách hàng
Nhóm: 3

Trang 17


không đúng theo mẫu quy định trƣớc, khách hàng bổ sung yêu cầu (về hạn
mức vayv, thời hạn vay...), khách hàng yêu cầu về phƣơng thức hoàn trả...
Trong khi, với phƣơng thức gián tiếp thì Nhà cung cấp không thể đáp ứng
đƣợc điều này, tức là với họ mọi quy định trong hợp đồng phải nhất nhất tuân
theo.
1.2.4. Quy trình cho vay tiêu dùng
Quá trình cho vay tiêu dùng của ngân hàng thƣơng mại gồm các bƣớc
sau đây: nhận hồ sơ tín dụng, thẩm định tín dụng, xét duyệt và quyết định cho
vay, hoàn tất các thủ tục pháp lý trƣớc khi giải ngân, kiểm tra sau khi giải
ngân và phát hiện nhu cầu mới của khách hàng.
Bước 1: Nhận hồ sơ tín dụng: cán bộ tín dụng hƣớng dẫn khách hàng
lập hồ sơ vay đầy đủ và đúng quy định của bản hƣớng dẫn thực hiện quy chế
cho vay tiêu dùng.
Bước 2: Thẩm định cho vay tiêu dùng: đây là khâu quan trọng nhất
trong quy trình cho vay tiêu dùng, quyết định chất lƣợng cho vay, nó bao gồm
các nội dung sau:
+ Thẩm định nhân thân người cho vay vốn và người bảo lãnh (nếu có):

cán bộ tín dụng phải đảm bảo khách hàng vay vốn có đầy đủ năng lực pháp
luật và năng lực hành vi dân sự, đủ tƣ cách pháp lý vay vốn ngân hàng đồng
thời đảm bảo khách hàng vay vốn có ý thức rõ ràng về trách nhiệm phải hoàn
trả đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ.
+ Thẩm định mục đích vay tiền: thông thƣờng những đặc điểm cơ bản
của những ngƣời đi vay đƣợc bộc lộ qua mục đích của việc vay tiền. Cán bộ
tín dụng sẽ hỏi xem khách hàng sử dụng tiền vay vào mục đích gì? Liệu mục
đích đó có phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng hay không? Có
bằng chứng nào cho thấy khách hàng đang thực hiện hoạt động đảo nợ hay
không, việc đảo nợ theo kiểu vay tiền từ ngƣời nay để trả cho ngƣời kia bị hầu
hết các ngân hàng phản đối.
+ Thẩm định về tình hình tài chính và khả năng thanh toán.
Nhóm: 3

Trang 18


- Xác định mức thu nhập: với các cán bộ tín dụng (CBTD) mức thu
nhập và sự ổn định trong thu nhập của khách hàng là những thông tin quan
trọng. Những khách hàng có mức lƣơng cơ bản và mức lƣơng còn lai sau khi
nộp thuế cao sẽ đƣợc đánh giá cao. CBTD cũng đồng thời tiến hành kiểm tra
ngƣời chủ cơ quan nơi các khách hàng làm việc để đánh giá chính xác về mức
thu nhập.
- Xác định số dƣ các tài khoản tiền gửi: một tiêu thức gián tiếp về tổng
thu nhập và sự ổn định thu nhập của khách hàng là số dƣ tiền gửi trung bình
hàng ngày mà khách hàng duy trì. CBTD phải kiểm tra con số này thông qua
các ngân hàng có liên quan.
- Xác định sự ổn định về việc làm và nơi cƣ trú: CBTD rất quan tâm tới
khoảng thời gian làm việc. Hầu hết các ngân hàng đều không muốn cho vay
đối với những ngƣời mới chỉ làm việc tại những nơi làm việc hiện tại một vài

tháng, nhất là cho vay các khoản tiền lớn; thời gian sống tại nơi cƣ trú hiện tại
cũng rất đƣợc quan tâm vì nếu khoảng thời gian một ngƣời sống ở một nơi
càng lâu thì có thể tin rằng cuộc sống của ngƣời đó rất ổn định còn với một
ngƣời thƣờng xuyên thay đổi chỗ ở sẽ là một yếu tố bất lợi đối với ngân hàng
khi quyết định cho vay.
- Xác định năng lực hoàn trả: đó là việc đánh giá khả năng trong tƣơng
lai ngƣời vay có các nguồn tài chính để trả hay không. Năng lực này đƣợc
đánh giá qua nhiều tiêu thức khác nhau (có thể dùng phƣơng pháp cho điểm
với từng tiêu thức) đó là: tuổi đời nghề nghiệp, sức khoẻ, thu nhập và sự ổn
định của thu nhập cũng nhƣ khả năng tháo vát của ngƣời vay.
+ Thẩm định tài sản đảm bảo: đối với tài sản đảm bảo là bất động sản,
cần chú ý đến tính pháp lý và giá trị của bất động sản. Giá trị bất động sản
phụ thuộc vào các yếu tố nhƣ: quy mô và chất lƣợng bất động sản, mức cung
cầu của bất động sản ở địa phƣơng trong trƣờng hợp phải phát mại tài sản của
ngƣời đi vay cũng là một yếu tố đƣợc xem xét khi đánh giá tài sản thế chấp

Nhóm: 3

Trang 19


không đƣợc duy trì tốt ngân hàng có thể không lấy đƣợc toàn bộ số tiền đã
cho vay bằng cách thanh lý tài sản
Sau toàn bộ bƣớc trên, cán bộ tín dụng lập tờ trình trong đó ghi tổng
quát về tình hình của khách hàng: nhận thức, mục đích vay, số tiền vay, khả
năng trả nợ và tài sản đảm bảo. Cán bộ tín dụng đƣa ra những đánh giá về
khách hàng và ý kiến có cho vay hay không đối với khách hàng. Nếu cho vay
thì ghi kèm số tiền, thời hạn, lãi suất và điều kiện kèm theo.
Bước 3: Xét duyệt và quyết định cho vay: khi nhận đƣợc tờ trình kèm
theo hồ sơ vay vốn liên quan, trƣởng phòng tín dụng xem xét và yêu cầu

CBTD giải thích bổ sung và chỉnh sửa.
Khâu quyết định cho vay do ban tín dụng thực hiện và chịu trách nhiệm
về quyết định cho vay hay không cho vay.
Bước 4: Hoàn tất các thủ tục pháp lý trƣớc khi giải ngân. CBTD và các
bộ phận pháp lý trƣớc khi giải ngân nhƣ: ký hợp đồng đảm bảo tiền vay, ký
hợp đồng tín dụng và hoàn thành các điều kiện khác theo quy định của Hội
đồng tín dụng sau đó tiến hành giải ngân cho khách hàng.
Bước 5: Kiểm tra sau khi giải ngân: quá trình này đƣợc tiến hành bằng
cách định kỳ 3 tháng hoặc 6 tháng hay đột xuất tuỳ vào biểu hiện từ phía
khách vay.
Việc theo dõi này đem lại cho ngân hàng các thông số cần thiết nhằm
xử lý kịp thời với từng tình huống khi không quá muộn. CBTD cần theo dõi
các mặt:
+ Sự ổn định về tài chính của ngƣời vay.
+ Mục đích cho vay có đƣợc chấp nhận không.
+ Kiểm tra tài sản đảm bảo.
+ Kiểm tra tiến độ trả nợ.
+ Phát hiện nhu cầu mới của khách hàng để phục vụ

Nhóm: 3

Trang 20


1.2.5. Vai trò của cho vay tiêu dùng
Đối với Ngân hàng thƣơng mại.
Hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thƣơng mại là nhận tiền gửi (huy
động vốn) và sử dụng khoản tiền (sử dụng vốn) đó trong kinh doanh nhằm thu
lợi nhuận, ngân hàng nhận tiền gửi từ nhiều nguồn khác nhau (cá nhân, tổ
chức...vv), theo nhiều hình thức khác nhau. Việc sử dụng cũng theo nhiều

hình thức khác nhau: tín dụng, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán, mua trái
phiếu...vv. Tuy vậy, trên tổng thể thì hoạt động tín dụng của ngân hàng
thƣơng mại là hoạt động chiếm thị phần cao nhất, mang lại cho ngân hàng
nhiều lợi nhuận nhất. Cùng với quá trình phát triển kinh tế thì lĩnh vực tài trợ
của ngân hàng thƣơng mại cũng có nhiều thay đổi, nhằm giúp cho các ngân
hàng có thể thích ứng đƣợc trƣớc những biến động của thực tế.
Lúc đầu, các ngân hàng thƣơng mại cũng không mấy quan tâm đến thị
trƣờng cho vay tiêu dùng, bởi đây là thị trƣờng mà các khoản tài trợ có quy
mô nhỏ, chi phí tài trợ là lớn, rủi ro cũng cao. Tuy nhiên, khi mà cuộc cạnh
tranh để giành thị phần thị trƣờng trở lên khốc liệt, các ngân hàng thƣơng mại
không chỉ phải cạnh tranh với chính các ngân hàng trong hệ thống, mà còn
phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi ngân hàng đã khiến thị phần trên
một số thị trƣờng của các ngân hàng bị thu hẹp, trong khi thị trƣờng cho vay
tiêu dùng đang có xu thế lên cao. Do vậy, các ngân hàng đã phải hƣớng mục
tiêu của mình vào lĩnh vực này, và cho vay tiêu dùng đã dần trở thành một
loại hình sản phẩm phổ biến trong các ngân hàng thƣơng mại, một loại sản
phẩm mang lại thu nhập tƣơng đối cao trong tổng doanh thu của các ngân
hàng.
Mặc dù các khoản tài trợ theo hình thức cho vay tiêu dùng là nhỏ,
nhƣng với số lƣợng các khoản này lại rất lớn (đối tƣợng có nhu cầu vay tiêu
dùng bao gồm tất cả các thành phần trong xã hội), vì thế tổng quy mô tài trợ
là rất lớn. Bên cạnh đó, lãi suất của các khoản tài trợ theo hình thức này là rất
cao (bởi ngƣời nhận tài trợ họ chỉ quan tâm đến thoả mãn nhu cầu trƣớc mắt
Nhóm: 3

Trang 21


mà họ đƣợc hƣởng, họ không mấy quan tâm đến lãi suất phải trả) nên đã
mang lại cho ngân hàng một tỷ suất lợi nhuận tƣơng đối lớn trong tổng lợi

nhuận của ngân hàng. Đặc biệt, với ngân hàng có quy mô nhỏ, uy tín chƣa
cao...vv, khó có thể cạnh tranh đƣợc với các ngân hàng có quy mô lớn, uy tín
cao trong việc giành những khách hàng lớn (thƣờng là các tổ chức mà nhu cầu
vay vốn đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh), hoặc có những khi nhờ
những mối quan hệ tốt có thể giành đƣợc khách hàng, nhƣng ngân hàng lại
không thể đáp ứng đƣợc quy mô khoản vay của họ thì thị trƣờng cho vay tiêu
dùng là vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng này.
Đối với ngƣời tiêu dùng.
Cho vay tiêu dùng có tác dụng đặc biệt với những ngƣời có thu nhập
thấp và trung bình. Thông qua nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, họ sẽ đƣợc
hƣởng các dịch vụ, tiện ích trƣớc khi có đủ khả năng về tài chính nhƣ mua
sắm các hàng hoá thiết yếu có giá trị cao nhƣ nhà cửa, xe hơi… hay trong
trƣờng hợp chi tiêu cấp bách nhƣ nhu cầu về y tế.
Có thể nói rằng bất cứ một ngƣời nào đều mong muốn đƣợc thoả mãn
những nhu cầu của riêng mình bắt đầu từ những hàng hoá tất yếu rồi đến
những hàng hoá xa xỉ hơn. Tuy nhiên thực tế là một ngƣời trẻ lại chƣa có đủ
khả năng chi trả cho những nhu cầu của mình do đó họ cần thời gian tích luỹ
tiền, ngƣời tiêu dùng sẽ khéo léo phối hợp giữa thoả mãn ở hiện tại với khẳ
năng thanh toán ở hiện tại và tƣơng lai. Có thể nói ngƣời tiêu dùng là ngƣời
đƣợc hƣởng trực tiếp và nhiều nhất lợi ích mà hình thức cho vay này mang lại
trong điều kiện họ không lạm dụng chi tiêu vào những việc không chính đáng
vì khi đó sẽ làm giảm khả năng tiết kiệm và chi tiêu trong tƣơng lai.
Đối với nền kinh tế -xã hội.
Sự sung túc của một nền kinh tế đƣợc thể hiện rõ qua mức cầu về hàng
hoá tiêu dùng của dân cƣ. Mức cầu đó chính là số lƣợng và mức độ của các
nhu cầu có khả năng thanh toán. Việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng
của các NHTM sẽ làm tăng đáng kể những nhu cầu có khả năng thanh toán đó
Nhóm: 3

Trang 22



hay nói cách khác đây chính là một giải pháp hữu hiệu để kích cầu và qua đó
làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn.
Khi sức mua của ngƣời tiêu dùng tăng lên thị trƣờng hàng hoá tiêu dùng cũng
theo đó mà trở nên sôi động hơn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao
khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nƣớc, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, Nhà nƣớc cũng sẽ đạt đƣợc các mục tiêu kinh tế – xã hội khác
nhƣ giải quyết công ăn việc làm cho ngƣời lao động, tăng thu nhập, giảm bớt
các tệ nạn xã hội, cải thiện và nâng cao chất lƣợng cuộc sống cho ngƣời dân.
1.3. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.3.1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh trong hoạt động
kinh doanh ngân hàng
1.3.1.1. Tính tất yếu và khái niệm cạnh tranh trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng
Trƣớc hết, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về sự cạnh tranh nói chung trong
nền kinh tế.Trong nền kinh tế thị trƣờng, cạnh tranh là quy luật hoạt động tự
nhiên, không lệ thuộc vào nhận thức hoặc sự lựa chọn chủ quan của con
ngƣời. Khái niệm cạnh tranh từ rất lâu đã đƣợc các học giả kinh tế của các
trƣờng phái kinh tế khác nhau quan tâm. Trƣớc hết, sự cạnh tranh thuần tuý
có thể được định nghĩa như là một tình huống trong đó có quá nhiều kẻ mua
và người bán đến nỗi một người có thể tham gia hoặc tách rời thị trường đó
mà không để lại ảnh hưởng cụ thể nào.
Trong chủ nghĩa Mác- Lênin, Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh
về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người
tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và tiêu dùng hàng hoá để thu được nhiều lợi ích nhất cho
mình.


Nhóm: 3

Trang 23


Từ khái niệm trên có thể thấy cạnh tranh là một phần tất yếu của nền
kinh tế thị trƣờng và cạnh tranh có trong mọi ngành, mọi lĩnh vực kinh tế .
Đối với hoạt động của NHTM nói chung sự cạnh tranh gay gắt đã bắt đầu trên
thế giới từ những năm 70 của thế kỉ XX do những yếu tố cơ bản sau :
- Công nghệ ngân hàng có khuynh hƣớng quốc tế hoá .
- Các thị trƣờng vốn mới mở đã làm biến đổi hệ thống trung gian
truyền thống
- Công nghiệp ngân hàng tại nhiều nƣớc đã bắt đầu đa dạng hoá các
dịch vụ .
- Ngành công nghiệp ngân hàng đã tìm mọi cách phát triển các tổ chức
phi ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trong lĩnh vực chuyên
biệt .
Xuất phát từ khái niệm về cạnh tranh có thể kết luận : Cạnh tranh trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng là chủ thể ngân hàng với nghệ thuật sử dụng
tổng hợp các phương thức, yếu tố nhằm dành được phần thắng trên thị
trường với lợi nhuận cao nhất, nâng cao vai trò và vị thế của mình trên thị
trường .
Hay đơn giản hơn, cạnh tranh là sự đối đầu giữa các NHTM, đó là
những nỗ lực mà mỗi ngân hàng đang phục vụ một thị trƣờng nào đó cố gắng
tìm kiếm lợi nhuận và nắm bắt một thị phần lớn hơn về khách hàng .
1.3.1.2 Khái niệm về khả năng cạnh tranh của ngân hàng
Mục tiêu của kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận và an toàn trong kinh
doanh nên cạnh tranh chính là một trong các chìa khoá của mỗi doanh nghiệp
để đạt đƣợc tham vọng thƣơng trƣờng. Kinh tế thị trƣờng càng phát triển cạnh
tranh càng quyết liệt và sâu rộng. Cạnh tranh chính là yếu tố nội tại của quá

trình kinh doanh và tiếp xúc với cạnh tranh là điều không tránh khỏi. Do vậy,
điều cần thiết cho mỗi doanh nghiệp là phải có một năng lực cạnh tranh.
Có nhiều quan điểm khác nhau về khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Có quan điểm gắn sức cạnh tranh với ƣu thế của sản phẩm mà doanh
Nhóm: 3

Trang 24


nghiệp đƣa ra thị trƣờn, có quan điểm gắn sức cạnh tranh của doanh nghiệp
với hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, theo tác giả Lê Đăng Doanh – Viện
nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ƣơng thì khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp có thể hiểu là khả năng duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần trên
thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiêp.
Theo một định nghĩa khác, khả năng cạnh tranh là khả năng của doanh
nghiệp nhằm đáp ứng và chống lại các đối thủ trong cung cấp sản phẩm, dịch
vụ một cách lâu dài và có lợi nhuận.
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với những đặc điểm,
chức năng khác nhiều so với các tổ chức kinh tế nói chung vì vậy năng lực
cạnh tranh của ngân hàng có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau:Khả năng cạnh
tranh của một NHTM là khả năng tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế
so sánh để giành thắng lợi trong quá trình cạnh tranh với NHTM khác.
Từ khái niệm trên có thể rút ra đôi điều về khả năng cạnh tranh của
NHTM, đó là :
- Sức cạnh tranh là một yếu tố năng động, luôn đƣợc đặt trong sự phát
triển liên tục của nền kinh tế thị trƣờng nên không thể đánh giá trên một chỉ
tiêu duy nhất mà phải đánh giá thông qua một hệ thống chỉ tiêu tổng hợp.
- Các lợi thế so sánh (hiện có và đƣợc tạo ra) chỉ là những yếu tố tiềm
năng, điều quan trọng là các lợi thế này phải đƣợc sử dụng một cách hợp lý,
có hiệu quả đồng thời phải luôn đầu tƣ nhằm duy trì và tăng cƣờng thêm năng

lực một cách bền vững. Có nhƣ vậy sức cạnh tranh mới đƣợc công nhận.
- Cạnh tranh là một hoạt động có chủ đích, do vậy năng lực cạnh tranh
thƣờng gắn liền với kết quả hoạt động cạnh tranh, tức mức độ đạt đƣợc các
mục tiêu cạnh tranh đã đề ra và mục tiêu cuối cùng của các loại hoạt động
cạnh tranh không phải là sự thất bại trong kinh doanh của các NHTM khác
mà là sự di chuyển khách hàng từ NHTM khác về ngân hàng mình.
Tóm lại,Khả năng cạnh tranh của các NHTM là chỉ tiêu tổng hợp phản
ánh khả năng tự duy trì lâu dài một cách có ý chí trên thị trường, trên cơ sở
Nhóm: 3

Trang 25


×