Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Những năm qua, kinh tế thế giới đã có nhiều chuyển biến, khu vực kinh
tế Châu Á Thái Bình Dương nổi lên như một khu vực năng động và giàu tiềm
năng. Nằm trong khu vực, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc và
đã có sự chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Có
thể nói, trong gần 15 năm trở lại đây, nước ta có nền kinh tế đang phát triển
với tốc độ cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong 7 năm qua, GDP đạt bình
quân 7,8 %/năm. Trong năm 2007 GDP đã đạt 8,48%/năm, cao nhất trong
vòng 10 năm qua. Tình hình chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng nhanh và
bền vững cùng với những thuận lợi khi gia nhập vào tổ chức Thương mai
quốc tế đã thúc đẩy hoạt động đầu tư, xây dựng, kinh doanh, buôn bán… phát
triển, tạo tiền đề cho việc tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống
của các tầng lớp nhân dân. Đời sống người dân ngày càng được cải thiện
mạnh mẽ.
Riêng năm 2007, chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế từng bước được
nâng lên thể hiện trên các chỉ số tăng trưởng cao, duy trì tốc độ ổn định trên
mọi lĩnh vực kinh tế. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng dịch vụ và giảm tỷ trọng khu vực nông
nghiệp (khu vực nông nghiệp chiếm 20%; công nghiệp và xây dựng chiếm
41,5%, dịch vụ 38,5%).
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 ước đạt 574 nghìn tỷ đồng, tăng
17,1% so với năm 2006; trong đó, khu vực ngoài quốc doanh tăng 20,9%, khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2% và khu vực doanh nghiệp nhà nước
tăng 10,3%.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, thu nhập bình quân đầu người ở Việt
Nam năm 2007 đạt 835 USD. Một sự tăng trưởng vượt bậc và dự kiến sẽ tăng
lên 960 USD vào năm 2008 và đạt khoảng 1.100 USD vào năm 2009. Người
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dân được tiêu dùng những mặt hàng chất lượng dần dần đáp ứng đầy đủ nhu
cầu của cuộc sống. Mặc dù thu nhập bình quân đầu người đã tăng cao, song
để mua được những hàng hoá có giá trị lớn như nhà cửa hay ôtô hay những đồ
dùng xa xỉ khác thì thì vẫn là một khó khăn lớn.
Một trong những giải pháp có thể sử dụng nhằm giải quyết vấn đề này
đó là sự ra đời của các ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại sẽ
cho các cá nhân và tổ chức vay vốn bằng việc cấp cho họ một khoản tiền theo
nhu cầu, và sau một thời gian nhất định khách hàng sẽ phải hoàn trả đầy đủ số
tiền vay đấy cộng thêm một khoản tiền khác được gọi là chi phí sử dụng vốn
vay .
Xuất phát từ thực trạng về nhu cầu vay trả góp trong nền kinh tế, và
qua mục tiêu phát triển của mỗi ngân hàng, qua quá trình học tập, tìm hiểu và
quan sát tình hình thực tế trong thời gian thực tập tại ngân hàng thương mại
cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank), em đã
quyết định chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay trả góp tại
ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt
Nam” để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề tốt nghiệp được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay trả góp tại ngân hàng thương
mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trả góp tại
ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Việt Nam
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ
GÓP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.1. Những hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức trung gian tài chính
quan trọng nhất của bất kỳ nền kinh tế nào, là định chế điều tiết dòng tiền từ
những nơi chưa có nhu cầu sử dụng tiền đến những nơi có nhu cầu sử dụng, là
tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong mọi nền kinh tế.
Ngân hàng là kênh huy động vốn chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá
nhân, hộ gia đình và các thành phần trong nền kinh tế. Việc hoạt động tốt và
cung cấp các dịch vụ đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế sẽ biến ngân hàng
là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất. .
Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại bao gồm:
1.1.1.1. Hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng và hoạt động chủ yếu của ngân hàng
thương mại. Tuy nhiên, việc xác định một định nghĩa rõ ràng về hoạt động
cho vay là rất khó. Để xác định nội dung của thuật ngữ này ta sẽ tùy thuộc
vào góc độ nghiên cứu.
Khi xem xét cho vay như là một phương thức tài trợ cho hoạt động tín
dụng, thì “cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian
nhất định theo thoả thuận, với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi” (theo điều 3
quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước).
Hoạt động cho vay luôn có hai mặt một mặt mang lại thu nhập chính cho
ngân hàng và mặt khác chứa đựng rủi ro cho ngân hàng. Việc cho vay theo
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đúng quy trình và quy đinh hợp lý sẽ mang lại cho ngân hàng lợi nhuận sau
khi đã trừ đi các chi phí. Ngược lại, sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản
và tính chất an toàn của hệ thống ngân hàng. Do vậy, đòi hỏi các ngân hàng
thương mại phải xây dựng, thực hiện các chính sách tín dụng đúng đắn và
không ngừng đa dạng hoá các loại hình cho vay.
1.1.1.2. Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động cơ sở cũng như là tiền đề của hoạt động cho
vay. Bất kỳ một ngân hàng nào muốn cho vay được đều phải đi huy động vốn.
Huy động vốn vừa sinh lợi cho các cá nhân tổ chức gửi tiền cũng vừa tạo
nguồn vốn cho chính ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Ngân hàng có các dịch vụ nhận tiền gửi, tiết kiệm để bảo quản hộ
người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Các ngân hàng thường đưa ra
những mức lãi suất huy động khá hấp dẫn và các chương trình khuyến mãi để
tìm và thu hút được các khoản tiền gửi, các ngân hàng thương mại cũng
thường đưa ra những mức lãi suất huy động hấp dẫn như là phần thưởng cho
khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và ngân
hàng sẽ sử dụng tạm thời để kinh doanh. Sau khi có được các khoản tiền gửi,
ngân hàng sẽ gián tiếp thu “phí” thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng
tiền gửi đó.
1.1.1.3. Các hoạt động khác
Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi
mua, bán ngoại tệ. Tức là, một ngân hàng sẽ đứng ra để mua và bán một loại
tiền này chẳng hạn USD, EURO… để lấy một loại tiền khác như VND, Yên
Nhật… và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán
ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao
dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên
môn cao.
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng
không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ.
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt mà
chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng (còn gọi là séc), khách hàng mang
giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không
dùng tiền mặt ( an toàn, nhanh chóng , chính xác, tiết kiệm chi phí ) đã rút
ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho doanh nhân. Khi ngân
hàng mở chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở rộng phạm vi, càng
tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh
nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ.
Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do
ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín
trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo
lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho
khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang thiết bị, phát hành chứng
khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…Đây là hoạt động mà ngân hàng
cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ
như cam kết. Bảo lãnh thường có ba bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo
lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo
lãnh; khách hàng của ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo
lãnh là bên thứ ba.
Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp
và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với
nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng
trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một
công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào
các chứng khoán sinh lợi, tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền
mặt để thanh toán.
Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các vật có giá khác cho
khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ
biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất
cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như
tiền, dùng để thanh toán khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng
phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay
cho kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy
giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó chính là hình thức đầu tiên của giấy bạc
ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải
trả phí bảo quản.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn,
nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê thay vì bán các thiết bị. Cuối
hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua( do vậy còn gọi là hợp đồng thuê
mua ). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa
chọn thuê các thiết bị máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong
đó ngân hàng mua thiết bị máy móc cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê
thường khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy,
cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay, và được xếp
vào tín dụng trung và dài hạn.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường
là cấp bách, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho
Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi
lấy các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân hàng Trung ương
thành lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có
được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép
hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép
thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện ở mức độ nào đó các
chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua
trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà
ngân hàng huy động được hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các
doanh nghiệp của Chính phủ.
Cung cấp các hoạt động môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do khiến
các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho
khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà
không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường
hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới
chứng khoán.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, đại lý
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều
đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay
gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
Do điều kiện khó khăn, ngân hàng cũng không thể thiết lập chi nhánh hoặc
văn phòng ở khắp mọi nơi. Các ngân hàng, thường là ngân hàng lớn đã cung cấp
dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như phát hành hộ, thanh toán hộ
các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.1.2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay là hoạt động mang tính truyền thống của ngân hàng
thương mại. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu về vốn ngày
càng gia tăng và dẫn tới hoạt động cho vay ngày càng phát triển và đóng góp
quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay, hoạt động cho vay được phân theo nhiều loại khác nhau tuỳ
theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là
một số cách phân loại.
1.1.2.1. Căn cứ vào kỳ hạn cho vay
Cho vay ngắn hạn
Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục đích của loại cho vay
này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
Cho vay trung hạn
Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của loại cho vay
này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
Cho vay dài hạn
Cho vay dài hạn có thời hạn từ 5năm trở lên. Mục đích của loại vay này
là nhằm vào tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
1.1.2.2. Căn cứ vào tính chất bảo đảm của khoản vay
Cho vay có tài sản bảo đảm
Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như cầm cố, thế chấp hoặc
phải có bảo lãnh của bên thứ ba. Việc cho vay có bảo đảm nhằm hạn chế rủi
ro cho ngân hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán khi đến hạn. Ngân
hàng có thể phát mại tài sản nếu khách hàng không có khả năng chi trả khi đã
áp dụng các biện pháp cần thiết. Giá trị của tài sản bảo đảm thông thường cao
hơn giá trị của khoản vay nhằm đề phòng sự mất mát, hao hụt, trượt giá… và
chi phí quản lý.
Cho vay không có tài sản bảo đảm
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng đi vay mà
không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba. Cho vay
không có tài sản bảo đảm thông thường dành cho các khách hàng có uy tín
cao, khách hàng truyền thống, tình hình tài chính lành mạnh, thường xuyên có
lãi… Tuy nhiên, đây là hình thức cho vay mang nhiều rủi ro đối với các ngân
hàng. Ngân hàng cần thẩm định kỹ khách hàng trước khi quyết định cho vay.
1.1.2.3. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
Cho vay tiêu dùng
Là loại hình cho vay để tài trợ cho việc tiêu dùng nhằm giúp người tiêu
dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo
điều kiện cho người vay được hưởng mức sống cao hơn. Thông thường quy
mô của những khoản vay này nhỏ, rủi ro cao nên lãi suất của cho vay tiêu
dùng thường cao. Tuy nhiên cho vay tiêu dùng là hình thức đem lại lợi nhuận
cao cho ngân hàng. Đối tượng được vay là các cá nhân và hộ gia đình vay để
phục vụ cho mục đích mua nhà, mua ô tô, du học, du lịch…
Cho vay kinh doanh
Là loại hình cho vay của tổ chức tín dụng đối với các dự án đầu tư,
phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các cá nhân, tổ chức như: cho
vay công nghiệp, cho vay thương mại, cho vay nông nghiệp. Các khoản vay
này thường được sử dụng vào việc mua sắm máy móc thiết bị, tài trợ cho vốn
lưu động… Lãi suất của chúng thường thấp hơn trong hệ thống lãi suất và đối
tượng khách hàng chủ yếu của loại hình cho vay này là các doanh nghiệp.
1.1.2.4. Căn cứ vào phương thức cho vay
Cho vay từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các
khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên. Không có điều kiện để được
cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu,
chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng.
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng
vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác
định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu
đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức tín dụng
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế
hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Ngân hàng và khách hàng ký kết một hợp đồng tín dụng trong đó quy định giá
trị tối đa mà khách hàng được vay trong một thời gian cố định. Trong kỳ
khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt
quá hạn mức tín dụng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách
hàng vay mýợn thýờng xuyên, vốn vay tham gia thýờng xuyên vào quá trình
sản xuất kinh doanh.
Cho vay hợp vốn
Là hình thức mà một nhóm các tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với
một dự án vay vốn của khách hàng. Trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu
mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác cùng thực hiện cấp tín
dụng. Các tổ chức tín dụng phải ký kết với nhau về việc hợp vốn trên và
khách hàng vay vốn có thể không biết được điều đó. Hiện nay, hình thức này
tương đối phát triển, nguyên nhân là do nhiều khách hàng có nhu cầu vay vốn
lớn nhưng các ngân hàng bị giới hạn bởi “luật các tổ chức tín dụng” quy định
mỗi ngân hàng không được cho vay đối với mỗi khách hàng vượt quá 15%
vốn điều lệ.
Cho vay theo dự án đầu tư
Là việc ngân hàng cho khách hàng vay để thực hiện dự án đầu tư, phát
triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Ngân hàng sẽ giải ngân theo từng hạng mục mà dự án đang thực hiện khi
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khách hàng cung cấp đủ các tài liệu, chứng từ ngân hàng yêu cầu cho lần giải
ngân đó.
Cho vay luân chuyển
Là loại hình cho vay này dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Khi mua
hàng hóa doanh nghiệp có thể thiếu vốn, khi đó ngân hàng có thể cho vay để
mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay luân chuyển rất
thuận tiện cho các khách hàng, thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho
nhiều lần vay. Loại hình cho vay này thường được áp dụng đối với các doanh
nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày,
có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay thấu chi
Là nghiệp vụ cho vay, trong đó ngân hàng cho phép người vay được chi
vượt số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong
khoảng thời gian xác định. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng
không phù hợp về thời gian và quy mô. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng
đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
1.1.2.5. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Cho vay tuần hoàn
Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng vay và
trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng bằng cách sử
dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản
vãng lai.
Cho vay trả góp
Là hình thức cho vay mà theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc
làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Lúc đó việc hoàn trả
không phải là một lần duy nhất như trong trường hợp khoản cho vay trả một
lần. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với khoản vay trung và dài
hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc tài sản lâu bền. Số tiền và thời gian hoàn
trả được tính sao cho phù hợp với khả năng hoàn trả của khách hàng. Trong
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cho vay trả góp đối tượng cho vay thông thường là người có thu nhập ổn định,
phù hợp với mỗi lần họ hoàn trả cho ngân hàng.
Cho vay phi trả góp (cho vay trả một lần)
Là những khoản cho vay mà trong hợp đồng tín dụng thoả thuận khách
hàng sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền gốc một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng,
lãi trả hàng tháng.
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.2.1. Khái niệm cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Là
một loại hình cho vay tương đối phổ biến hiện nay tại các ngân hàng thương
mại. Cho vay trả góp thường áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài
trợ cho tài sản cố định hoặc hàng hóa lâu bền. Ngân hàng thường cho vay trả
góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ
thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua
trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay.
Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong
khung lãi suất cho vay của ngân hàng. Cho vay trả góp bao gồm cả hoạt động
cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt
động cho vay kinh doanh cần tiền quay vòng vốn trong sản xuất nên thường
áp dụng cách vay theo món, trả gốc một lần vào cuối kỳ khi kết thúc chu kỳ
sản xuất và thu được lợi nhuận. Do vậy, cho vay trả góp được áp dụng chủ
yếu cho các món vay tiêu dùng, đáp ứng các nhu cầu chi tiêu trước mắt vượt
quá khả năng thanh toán hiện tại của khách hàng. Phương thức cho vay trả
góp này thường được áp dụng cho các khoản vay lớn như cho vay mua nhà,
mua ô tô…
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ theo phương
thức trả góp có thể được tính bằng một trong những phương pháp sau đây:
Trả đều: Ngân hàng sẽ thỏa thuận với khách hàng và tính toán một cách
phù hợp rồi thống nhất với khách hàng hàng tháng phải trả cho ngân hàng một
khoản cố định đến hết thời gian vay. Như vậy, khách hàng luôn luôn phải trả
một khoản tiền cố định từ đợt trả đầu tiên cho đến lần cuối cùng. Để làm
được, ngân hàng căn cứ vào mức lãi suất, thời gian cho vay và số tiền cho vay
để đưa ra cụ thể số tiền mà mỗi tháng người vay phải nộp.
Trả không đều: Phương thức thanh toán này bao gồm nhiều hình thức
khác nhau. Ví dụ như thanh toán nợ gốc từng kỳ, trả đều, lãi trả hàng tháng;
nhưng lãi suất thanh toán vào đầu mỗi kỳ; gốc và lãi trả hàng tháng. Lãi ở đây
được tính trên số dư nợ thực tế của khoản vay. Thực chất các hình thức trả
khác nhau này chỉ là thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng sao cho phù
hợp với khả năng trả nợ của người vay.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay trả góp
Đối tượng
Đối tượng cho vay của ngân hàng phải là những cá nhân, tổ chức có đầy
đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Xuất phát từ nhu cầu đi vay
của các chủ thể mà đối tượng của cho vay trả góp tập trung chủ yếu là các cá
nhân, hộ gia đình có thu nhập cao hoặc các hãng kinh doanh có tình hình tài
chính lành mạnh, khả năng trả nợ tốt nhất.
Mục đích
Hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng xuất hiện nhằm mục đích đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của khách hàng khi mà nhu cầu và thu nhập không xuất
hiện cùng một lúc. Nhu cầu chi tiêu đó có thể là mua nhà để ở, mua ô tô phục
vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc doanh nghiệp phục vụ cho nhu cầu đi lại, công
việc, hay đơn giản hơn là mua sắm các đồ dùng gia đình… Mục đích của
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
những khoản vay này thường rất cụ thể và rõ ràng, do đó nó cũng được ngân
hàng đáp ứng nhanh chóng và dễ dàng hơn các khoản vay khác.
Quy mô khoản vay
Quy mô của các món vay trả góp không lớn, thường nhỏ hơn so với các
món vay khác đặc biệt là các món vay phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh.
Nguyên nhân là do các món vay trả góp chủ yếu phục vụ mục đích tiêu dùng,
các sản phẩm mà khách hàng có nhu cầu mua thường có giá trị không lớn
hoặc dù có giá trị lớn thì khách hàng cũng phải có sự chuẩn bị nhất định về
nguồn vốn, còn ngân hàng chỉ có tác động hỗ trợ hoạt động cho họ. Hiện nay,
cho vay trả góp là một hình thức cho vay ưu việt, phổ biến và thường xuyên
khi nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và ổn định, thu nhập của dân cư ngày
càng cao nên số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng ngày càng tăng. Và do
vậy, tổng quy mô của cho vay trả góp là tương đối lớn.
Rủi ro
Mặc dù cho vay trả góp có mục đích cụ thể và rõ ràng song vẫn tiềm ẩn
những rủi ro rất lớn do hoạt động quản lý sau cho vay gặp nhiều khó khăn. Do
không thể kiểm soát hết được sau cho vay. Khách hàng có thể vô tình hay cố
ý không trả lãi, gốc khi đến kỳ trả gốc lãi nếu cán bộ tín dụng lơ là không theo
sát nhắc nhở, dẫn tới tỷ lệ nợ quá hạn sẽ tăng lên. Việc thu hồi nợ trong cho
vay trả góp phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập thường xuyên của khách
hàng như tiền lương… cho nên bất cứ một sự thay đổi nào ảnh hưởng tới
công việc của khách hàng cũng có thể khiến ngân hàng gặp khó khăn trong
việc thu hồi nợ. Do vậy, có thể nói hoạt động cho vay trả góp tiềm ẩn rủi ro
cao.
Lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay trả góp áp dụng tùy từng trường hợp và thời điểm cụ
thể. Lãi suất thường được ấn định ngay từ đầu cho đến hết kỳ hạn vay hoặc
chỉ được điều chỉnh mỗi năm một vài lần dựa trên lãi suất huy động cộng
thêm với một biên độ nhất định tùy thuộc quy định của từng ngân hàng.
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tài sản bảo đảm
Cũng như nhiều hình thức cấp tín dụng khác, cho vay trả góp cũng cần
có tài sản bảo đảm..Thường tài sản đó chính là tài sản hình thành từ vốn vay
của ngân hàng. Tuy nhiên, tài sản đó cũng có thể là tài sản độc lập thuộc sở
hữu của khách hàng hoặc của bên thứ ba. Tài sản này giúp ngân hàng hạn chế
được rủi ro cho mình trong trường hợp có tình huống xấu xảy ra đối với
khoản vay.
Lợi nhuận thu được
Với tính chất của vay trả góp các khoản cho vay trả góp chủ yếu là các
khoản cho vay trung và dài hạn. Bên cạnh đó, do tiềm ẩn tính rủi ro cao nên
mức lãi suất mà khách hàng phải chịu là không nhỏ, đây chính là biện pháp
ngân hàng áp dụng nhằm hạn chế rủi ro. Trong trường hợp khách hàng không
thanh toán gốc và lãi khi đến kỳ thanh toán sẽ phải chịu một mức lãi phạt rất
lớn (150%) so với mức lãi suất trong hợp đồng. Hoạt động này tỏ ra rất hiệu
quả nên mức lợi nhuận mà ngân hàng thu về là rất lớn.
Với những đặc điểm trên, cho vay trả góp đã tỏ ra là hoạt động rất có ưu
thế trong các loại hình cho vay của ngân hàng. Do phù hợp với nền kinh tế,
hiện nay cho vay trả góp đang chiếm tỷ lệ lớn trong doanh số cho vay của
ngân hàng, đặc biệt là trong cho vay tiêu dùng. Tuy lợi nhuận mà các món
cho vay trả góp mang về cho ngân hàng là rất lớn, song nó cũng có chi phí
khá cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do vậy, đòi hỏi cán bộ tín dụng cần quản lý
chặt chẽ và linh hoạt trong suốt quá trình cho vay để tránh những rủi ro đáng tiếc
có thể xảy ra cho ngân hàng.
1.2.3. Vai trò của hoạt động cho vay trả góp
Đối với ngân hàng
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính. Trước khi trở thành
người cho vay, bản thân ngân hàng phải đi vay tiền của các cá nhân và tổ
chức trong xã hội. Song song với nỗ lực huy động vốn đó, các ngân hàng
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thương mại còn cố gắng tối đa trong việc cấp tín dụng cho các cá nhân trong
và ngoài nước nhằm đảm bảo hoạt động cho vay diễn ra nhanh nhất, an toàn
và hiệu quả nhất, bù đắp khoản chi phí huy động vốn và tạo sự chênh lệch thu
chi cho ngân hàng. Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay
thường chiếm tới quá nửa giá trị tổng tài sản, từ 1/4 đến 2/3 nguồn thu của
ngân hàng.
Việc mở rộng hoạt động cho vay trả góp vừa giúp ngân hàng mở rộng
được khách hàng, vừa tận dụng được nguồn vốn huy động, vừa đa dạng hóa
các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Bằng cách đó, ngân hàng có thể nâng
cao sức mạnh trong cạnh tranh, đồng thời tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm,
dịch vụ của mình. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những ngân hàng có
xu hướng thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ, đa dạng hoá dịch vụ cung
ứng.
Hơn thế nữa, hoạt động cho vay trả góp mang lại một khoản lợi nhuận
lớn cho ngân hàng. Cho vay trả góp được đánh giá là hoạt động có mức rủi ro
thực tế thấp hơn so với các nghiệp vụ khác, hơn nữa số món vay trả góp lại
lớn, do đó rủi ro thực tế được chia sẻ bớt. Cùng với đó lãi suất áp dụng đối
với loại hình cho vay này lại tương đối cao, điều này khiến cho hoạt động cho
vay trả góp có tỷ suất lợi nhuận không nhỏ.
Mở rộng hoạt động cho vay trả góp vừa giúp ngân hàng mở rộng được
khách hàng cho vay, tận dụng được nguồn vốn huy động một cách hiệu quả,
vừa đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Từ đó ngân hàng tăng được
sức mạnh trong cạnh tranh, đồng thời tạo ra được những nét đặc trưng hấp
dẫn riêng trong dịch vụ của mình.
Đối với khách hàng
Việc các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay trả góp chắc chắn sẽ
đem lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng. Khách hàng hoàn toàn có thể sử
dụng những sản phẩm dịch vụ như mong muốn của họ mà trên thực tế, có
những nhu cầu ngay lập tức người ta không thể có một khoản tiền lớn để đáp
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Thu nhập từ CVTG
Tổng thu nhập
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ứng. Chúng ta có thể thấy được rất rõ lợi ích của người tiêu dùng trong
phương thức cho vay mua nhà trả góp. Để có thể có đủ tiền mua một ngôi
nhà, một cá nhân có thể sẽ phải lao động và làm việc chăm chỉ trong một thời
gian dài, thậm chí có thể đến khi về già mới có thể tiết kiệm đủ. Đến lúc đó
thì độ thoả dụng đối với sản phẩm đã giảm đi rất nhiều. Do vậy, ngân hàng
với hoạt động cho vay trả góp sẽ giúp khách hàng kết hợp được cả nhu cầu
hiện tại và khả năng thanh toán trong tương lai.
Với hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng, các cá nhân có thể thoả
mãn nhu cầu tiêu dùng của mình trong khi các doanh nghiệp có thêm sự lựa
chọn nguồn tài trợ để phát triển hoạt động kinh doanh. Hơn nữa, việc mở rộng
hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng còn làm cho lượng tiêu thụ sản
phẩm và dịch vụ tăng lên, doanh thu của các ngành, các doanh nghiệp theo đó
cũng tăng lên. Từ đó thúc đẩy việc mở rộng sản xuất, tạo ra sự cạnh tranh
khiến các hãng, các danh nghiệp luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng và
đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ. Và cuối cùng, người hưởng lợi không ai
khác lại chính là khách hàng.
Mặc dù cho vay trả góp giúp khách hàng có thể được hưởng những tiện
ích trước khi tích luỹ đủ tiền, đặc biệt trong những trường hợp cá nhân có các
chi tiêu cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục, y tế. Tuy nhiên, nếu lạm
dụng có thể sẽ làm người đi vay chi tiêu vượt mức cho phép, làm giảm khả
năng tiết kiệm hoặc chi tiêu trong tương lai, gây ảnh hưởng tới cuộc sống của
họ sau này.
Đối với nền kinh tế
Như đã nói ở trên, cho vay trả góp thúc đẩy tiêu dùng, kích thích doanh
nghiệp tăng gia sản xuất thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đối với các ngành kinh tế, việc mở rộng hoạt động cho vay trả góp của
ngân hàng đồng nghĩa với việc kích cầu, tăng sức mua tạo nên sự sôi động
cho thị trường và tạo ra sự thịnh vượng chung cho nền kinh tế. Ngoài ra, việc
mở rộng hoạt động cho vay trả góp giúp thực hiện vai trò quan trọng của các
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Thu nhập từ CVTG
Tổng thu nhập
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
ngân hàng thương mại trong chính sách đổi mới nền kinh tế của đất nước. Khi
một nước có chính sách kích thích nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế thì hệ thống các ngân hàng thương mại sẽ trở thành công cụ chủ yếu trong
việc thực hiện mục tiêu của chiến lược tài chính tiền tệ của ngân hàng Trung
ương và chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
1.2.4. Mở rộng hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng thương mại
1.2.4.1. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng hoạt động cho vay trả góp
Doanh số cho vay trả góp
Đây là một chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy mô cho vay trả góp của ngân
hàng đối với nền kinh tế. Chỉ tiêu này phản ánh chính xác về hoạt động cho
vay trả góp qua các năm. Khi so sánh chỉ tiêu này qua các thời kỳ ta sẽ thấy
được phần nào xu thế của hoạt động cho vay trả góp.
Tỷ trọng dư nợ cho vay trả góp trong tổng dư nợ:
Chỉ tiêu này là một chỉ tiêu tương đối phản ánh quy mô của các món vay
trả góp trong tổng số các món vay được ngân hàng giải ngân. Sự tăng trưởng
của chỉ tiêu này cho thấy sự phát triển của hoạt động cho vay trả góp của ngân
hàng. Trong phân tích thì chỉ tiêu này tương đối hiệu quả.
Dư nợ và tăng trưởng dư nợ cho vay trả góp:
Dư nợ cho vay trả góp là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh khối lượng tiền
ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế theo phương thức trả góp tại một thời
điểm nhất định. Dư nợ cho vay trả góp được tính như sau:
Tăng trưởng dư nợ cho vay trả góp là chỉ tiêu tương đối thể hiện bằng
nhịp độ gia tăng tổng dư nợ cho vay trả góp năm sau so với năm trước. Đây là
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Dư nợ
CVTG
năm nay
Dư nợ
CVTG
năm trước
Doanh số thu nợ
CVTG năm nay
Doanh số
CVTG năm
nay
= + -
Tỷ trọng thu nhập từ
CVTG
=
Thu nhập từ CVTG
Tổng thu nhập
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chỉ tiêu cơ bản và quan trọng nhất làm căn cứ cho việc đánh giá hoạt động
cho vay trả góp. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện hoạt động cho vay trả góp của
ngân hàng càng mở rộng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay trả góp
Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng tín dụng, độ rủi ro trong cho vay trả
góp của ngân hàng. Một ngân hàng thường không tránh khỏi việc gặp phải rủi
ro nợ quá hạn, có thể do tình hình tài chính không lành mạnh của khách hàng
vay dẫn đến việc trả nợ không đầy đủ hoặc không đúng hạn, hay do khách
hàng cố tình không thanh toán khi đến hạn. Do đó, hoạt động cho vay của
ngân hàng được coi là mở rộng và hiệu quả khi có tỷ lệ nợ quá hạn nằm trong
giới hạn cho phép và phải thấp hơn kỳ trước.
Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay trả góp trong tổng thu
nhập
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho vay trả góp.
Tỷ trọng này càng cao chứng tỏ khả năng sinh lời của các khoản cho vay trả
góp càng lớn.
Mức độ đa dạng hoá các hình thức cho vay trả góp
Đây là chỉ tiêu liên quan đến khả năng đáp ứng sản phẩm và thoả mãn
nhu cầu khách hàng của ngân hàng. Ngân hàng chỉ có thể phát triển khi nó
cung cấp cho thị trường một số lượng phong phú và đa dạng các sản phẩm
cho vay trả góp nhằm thoả măn những nhu cầu khác nhau của khách hàng.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà nhu cầu vay trả góp của thị trường ngày
càng trở nên sôi động hơn, việc phát triển thị phần cho vay trả góp của các
ngân hàng cần phải hướng đến những tiêu chí về chất lượng phục vụ khách
hàng như tính tiện ích và thuận tiện khi sử dụng sản phẩm, mức độ thoả mãn
của khách hàng.
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thị phần cho vay trả góp của ngân hàng so với các ngân hàng
khác cùng thị trường
Chỉ tiêu này cho biết mức độ mở rộng về mặt lượng cũng như khả năng
cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường của ngân hàng. Khi so sánh với các ngân
hàng khác đang hoạt động trên cùng thị trường, ngân hàng có thể phân tích
khả năng và tiềm lực của mình cũng như của đối thủ, xác định mức độ mở
rộng và chiếm lĩnh thị trường trong tương lai. Từ đó, ngân hàng sẽ đưa ra
những chính sách và hành động cụ thể để phát triển hơn nữa hoạt động cho
vay trả góp của mình.
1.2.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng hoạt động cho vay trả góp
Các nhân tố khách quan
• Đối thủ cạnh tranh
Việc xuất hiện ngày càng nhiều các ngân hàng thương mại làm cho
miếng bánh ngon bị chia làm nhiều phần. Năng lực của đối thủ cạnh tranh
trong ngành cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay trả góp của
ngân hàng. Các ngân hàng lớn có tiềm lực vốn mạnh, thị trường lớn, và mối
quan hệ lâu đời với khách hàng. Trong một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ
và khốc liệt như hiện nay, trong quá trình phát triển của mình mỗi ngân hàng
đều phải xác định được chỗ đứng của mình trong ngành để có những chiến
lược phát triển đúng đắn.
• Môi trường kinh tế
Nhân tố có tác động rất lớn đến hoạt động cho vay nói chung và hoạt
động cho vay trả góp nói riêng là môi trường kinh tế. Cho vay trả góp phụ
thuộc rất lớn vào mức thu nhập thường xuyên của người dân và sự phát triển
của các doanh nghiệp. Nếu nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, đời sống
dân cư tăng lên, thu nhập của người dân được cải thiện, dẫn đến nhu cầu tiêu
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dùng và hưởng thụ của người dân tăng lên bởi họ có thể yên tâm vào mức thu
nhập trong tương lai. Hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng thương mại
nhờ đó sẽ có cơ hội phát triển mạnh. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy
thoái, mất ổn định, người dân sẽ hạn chế nhu cầu chi tiêu mà chỉ duy trì một
mức sống bình thường, các doanh nghiệp không thể tăng cường hay mở rộng
quy mô hoạt động. Do vậy, môi trường kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ tới
hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng.
• Môi trường văn hoá xã hội
Phong tục tập quán, bản sắc dân tộc đều ảnh hưởng nhất đinh từ hoạt
động cho vay. Trình độ văn hoá cũng như phong tục tập quán, bản sắc
dân tộc cũng đều có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động cho vay trả
góp. Mỗi xã hội đều có những nét đặc thù về văn hoá riêng biệt, nó
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu tiêu dùng và hưởng thụ của
dân cư. Điều đó ảnh hưởng hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tới những nhu
cầu tiêu dùng và hưởng thụ hiện đại hơn của các cá nhân hay doanh
nghiệp. Từ đó cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng.
• Môi trường pháp lý
Tất cả các ngân hàng hoạt động đều chịu sự quản lý vĩ mô bằng các quy
định, văn bản của ngân hàng nhà nước. Môi trường pháp lý có tác động đến tính
quy chuẩn, trật tự giúp hoạt động cho vay của ngân hàng diễn ra thông suốt và
an toàn. Với một môi trường pháp lý ổn định cùng hệ thống các văn bản luật cụ
thể, đầy đủ, rõ ràng và xuyên suốt sẽ tạo điều kiện rất lớn cho sự phát triển của
hoạt động cho vay trả góp của ngân hàng còn nếu những văn bản và quy định
của pháp luật rườm rà, không rõ ràng, thiếu khoa học sẽ tạo ra nhiều khe hở cho
những phần tử xấu trục lợi.
• Các nhân tố thuộc về phía khách hàng
Đạo đức khách hàng là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất phải kể đến
trong những yếu tố thuộc về khách hàng. Nó được đánh giá trên năng lực
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
pháp lý và mức độ tín nhiệm. Năng lực pháp lý gồm năng lực hành vi dân sự
và năng lực pháp luật dân sự. Biểu hiện của nó ở việc khách hàng không vi
phạm các quy định của pháp luật trước trong và sau quá trình xin vay. Độ tín
nhiệm của khách hàng là các yếu tố về tư cách đạo đức, thu nhập, mối quan
hệ vay trả chả khách hàng với các ngân hàng trong các khoản cho vay trước, ý
muốn trả nợ của khách hàng, tài sản đảm bảo … Một ngân hàng không thể có
được tất cả các thông tin hoàn toàn chính xác về khách hàng của mình. Do
vậy, nếu khách hàng không có thiện chí trả nợ hoặc cố ý sử dụng sai mục đích
số tiền vay thì chắc chắn sẽ gây rủi ro không nhỏ cho các ngân hàng trong
việc thu hồi nợ. Ngoài ra, khả năng tài chính và tài sản đảm bảo của khách
hàng cũng là những nhân tố đóng góp đáng kể đến khả năng trả nợ của khách
hàng.
Các nhân tố chủ quan
Nội lực ngân hàng là yếu tố quan trọng đầu tiên cho việc phát triển hoạt
động cho vay trả góp .
• Định hướng chiến lược phát triển của ngân hàng
Chiến lược phát triển là yếu tố không thể thiếu của mỗi ngân hàng, khi
không có định hướng rõ rang trong việc phát triển hoạt động cho vay,không
có các chính sách phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý cho hoạt động này thì
chắc chắn ngân hàng đó không thể hoạt động có hiệu quả như mong muốn.
Chẳng hạn một ngân hàng với định hướng phát triển các dịch vụ ngân hàng
bán buôn, thì sẽ tập trung chủ yếu vào các đối tượng khách hàng là các doanh
nghiệp lớn, các tổng công ty, các tập đoàn và các dự án từ phía chính phủ. Từ
đó, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng tập trung thoả mãn nhu cầu của
các đối tượng này. Khi đó, hoạt động ngân hàng sẽ đem lại hiệu quả cao hơn.
Hoặc những ngân hàng có chiến lược bán lẻ thì khách hàng chính của họ là
những doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng từ đó đưa ra được những chiến lược
thích hợp đáp ứng yêu cầu của họ.
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Chính sách của ngân hàng
Chính sách ngân hàng luôn xuyên suốt quá trình hoạt động của ngân
hàng. Không chỉ hoạt động cho vay trả góp mà tất cả các hoạt động khác của
ngân hàng đều chịu sự chi phối trực tiếp từ những văn bản pháp quy, quy
trình, quy chế… của chính ngân hàng đó. Mỗi ngân hàng đều có một chính
sách tín dụng riêng bao gồm mức cho vay, lãi suất, thời hạn, tài sản đảm
bảo… Một chính sách tín dụng hợp lý của ngân hàng với các phương thức trả
nợ gốc và lãi linh hoạt, mức lãi suất hợp lý, thời hạn cho vay thích hợp, đáp
ứng đa dạng nhu cầu của khách hàng thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều
khách hàng đến vay. Từ đó, ngân hàng sẽ dễ thành công hơn trong mọi hoạt
động của mình. Tuy nhiên, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp
lý, cứng nhắc, không chú ý đến nhu cầu của khách hàng sẽ hạn chế cho vay,
giảm tính cạnh tranh trong hoạt động của ngân hàng.
• Chất lượng hoạt động của nhân viên tín dụng
Thái độ phục vụ khách hàng, trình độ nghiệp vụ và khả năng thẩm định
ban đầu đối với khách hàng là yếu tố phản ánh chất lượng của nhân viên tín
dụng. Khách hàng muốn tiếp xúc với dịch vụ ngân hàng thì đa số là thông qua
cán bộ tín dụng đầu tiên. Do vậy, cán bộ tín dụng chính là đại diện cho hình
ảnh của ngân hàng. Một đội ngũ cán bộ tín dụng nhiệt tình, thật lòng phục vụ
khách hàng với thái độ niềm nở chân tình sẽ chiếm được cảm tình của khách
hàng. Đó cũng là lợi thế cạnh tranh rất lớn của mỗi ngân hàng.
• Các nhân tố khác
Hoạt động tín dụng không thể thiếu cơ sở vật chất. Nó có tác động không
nhỏ đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Mạng lưới chi nhánh và công
nghệ ngân hàng cũng sẽ là một lợi thế của ngân hàng. Trong một môi trường
cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, yếu tố tiện lợi và nhanh chóng được khách
hàng đặc biệt quan tâm.
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bên cạnh đó, một yếu tố cần thiết có ảnh hưởng quyết định đến hoạt
động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay trả góp nói riêng đó là nguồn
vốn. Ngân hàng có nguồn vốn chủ sở hữu càng lớn thì uy tín của ngân hàng
đối với khách hàng càng cao, khả năng huy động vốn càng mạnh, khả năng
mở rộng địa bàn càng dễ dàng. Từ đó, hoạt động ngân hàng ngày càng vững
mạnh và phát triển.
Những nhân tố khách quan và chủ quan như trên có ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay trả góp nói riêng của
ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng thưong mại cần xác định được khả năng
của mình, những thế mạnh, lợi thế riêng cũng như những điểm yếu, hạn chế
còn tồn tại của mình để có những kế hoạch phát triển cụ thể và những bước đi
thích hợp trong từng thời kỳ.
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRẢ GÓP
TẠI NGÂN HÀNG NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM
(VPBANK)
2.1. KHÁI QUÁT VỀ VPBANK
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của VPBank
Lịch sử hình thành
Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh
Việt Nam được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với
thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 9
năm 1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm
1993.
Các chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm: Huy động vốn
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho vay vốn
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả
năng nguồn vốn của ngân hàng; Kinh doanh ngoại hối; chiết khấu thương
phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác; Cung cấp các dịch vụ giao dịch
giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của NHNN
Việt Nam.
Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu cầu
phát triển, theo thời gian VPBank đã nhiều lần tăng vốn điều lệ. Đến tháng
8/2006, vốn điều lệ của VPBank đạt 500 tỷ đồng. Tháng 9/2006, VPBank
nhận được chấp thuận của NHNN cho phép bán 10% vốn cổ phần cho cổ
đông chiến lược nước ngoài là Ngân hàng OCBC - một Ngân hàng lớn nhất
Ngô Thanh Tùng Lớp: TCDN 46A