TRƯỜNG PTCS YÊN THAN
TỔ 1 – NHẠC HỌA
Yên Than, ngày 29 tháng 10 năm 2014
BÁO CÁO LÝ THUYẾT
Chuyên đề “Một số biện pháp để dạy học tốt môn Tiếng Việt lớp 1 – Công
nghệ giáo dục”
I/ Lý do chọn chuyên đề
1. Cơ sở lý luận
Với tư tưởng Cơng nghệ hóa quá trình giáo dục, CGD coi giáo dục là một
quá trình sản xuất đặc biệt. Quá trình dạy học là quá trình làm ra sản phẩm là
khái niệm khoa học. Người học - học sinh - là chủ thể của quá trình, tự làm nên
sản phẩm (khái niệm) do thầy giáo tổ chức hướng dẫn thông qua mối quan hệ
phân công hiệp tác trong “dây chuyền công nghệ”: Thầy thiết kế - Trị thi cơng!
Bản chất của cơng nghệ giáo dục là tổ chức và kiểm sốt q trình dạy
học bằng một Quy trình kỹ thuật được xử lý bằng giải pháp nghiệp vụ hay
nghiệp vụ sư phạm.Trong dạy học, CGD quan tâm đến Cái và Cách. Thay cho
mệnh đề thơng thường là dạy học cái gì và dạy học như thế nào, CGD coi
Cái/Cách là cốt lõi của nghiệp vụ sư phạm hiện đại. Cái vốn là của có sẵn trong
xã hội đương thời. Nghiệp vụ sư phạm chỉ việc chọn lựa, nhặt ra và sắp xếp lại
theo định hướng lý thuyết theo 3 nguyên tắc: Phát triển-Chuẩn mực-Tối thiểu.
Cái là Sản phẩm. Cách là q trình chuyển hóa (chuyển vào trong), được thiết kế
bằng một Quy trình kỹ thuật để làm ra Cái (sản phẩm) ở dạng kiến thức khoa
học. Cách còn được hiểu là Cách dùng Cái như ở dạng kỹ năng vận dụng hoặc
việc lựa chọn, sắp xếp như nói trên.
Bản chất việc dạy Tiếng Việt lớp 1. CGD cho học sinh là dạy cho học
sinh hệ thống khái niệm của một môn khoa học nhằm giúp các em chiếm lĩnh
được tri thức ngữ âm cơ bản và hình thành các kĩ năng Nghe- Nói- Đọc- Viết
tương ứng. Lần đầu tiên học sinh biết tiếng là một khối âm thanh toàn vẹn như
một “khối liền” được tách ra từ lời nói. Tiếp đó, bằng phát âm, các em biết tiếng
giống nhau và tiếng khác nhau hoàn tồn. Sau đó, các em phân biệt các tiếng
khác nhau một phần. Đến đây, tiếng được phân tích thành các bộ phận cấu
thành: phần đầu, phần vần, thanh. Trên cơ sở đó, các em biết đánh vần một tiếng
theo cơ chế hai bước. Học sinh học cách phân tích tiếng tới đơn vị ngữ âm nhỏ
nhất, đó là âm vị (gọi tắt là âm). Qua phát âm, các em phân biệt được phụ âm,
nguyên âm, xuất hiện theo thứ tự của bảng chữ cái TiếngViệt. Khi nắm được
bản chất mỗi âm, các em dùng kí hiệu để ghi lại. Như vậy, con đường chiếm lĩnh
đối tượng của CGD đi từ âm đến chữ.
Môn Tiếng Việt lớp 1.CGD là sự chắt lọc thành tựu từ 3 lĩnh vực khoa
học (triết học, ngữ âm học, tâm lí học). CGD xác định đối tượng lĩnh hội trong
môn Tiếng Việt lớp 1.CGD là Cấu tạo ngữ âm của tiếng Việt. Để chiếm lĩnh
đối tượng một cách hiệu quả, CGD đã đặt đối tượng trong một môi trường thuần
khiết- chân không về nghĩa. CGD đã xuất phát từ Âm (Âm thanh, âm vị) để đi
đến chữ (kí mã), rồi từ chữ quay về âm ( giải mã). CGD đã chắt lọc những vấn
1
đề cơ bản nhất nhằm mang đến cho trẻ em không chỉ những kiến thức và kĩ năng
cần thiết mà còn giúp trẻ lần đầu tiên đến trường được làm việc một cách khoa
học, phát triển khả năng tối ưu của mỗi cá thể, phát triển năng lực làm việc trí
óc, năng lực sử dụng tiếng Việt hiện đại một cách có văn hóa thơng qua các hoạt
động kích thích khả năng tư duy và khái quát hóa .
Đối tượng của môn Tiếng Việt lớp 1.CGD được chiếm lĩnh theo con đường từ
trừu tượng đến cụ thể, từ đơn giản đến phức tạp.
2. Cơ sở thực tiễn
Năm học 2014 -2015 có gần 400.000 học sinh lớp 1 ở 42 tỉnh thành theo
học chương trình Tiếng Việt 1 – Cơng nghệ giáo dục ( TV1 – CGD) so với năm
học 2011-2012, 16 tỉnh đã đăng kí với số lượng 38.593 HS
Vì sao con số lại tăng lên đáng kể như vậy? Bởi tính ưu việt nổi trội của
mơn tiếng việt –CGD lớp 1.
Rất nhiều HS được học chương trình TV1.CGD, các em không chỉ đọc
thông viết thạo, nắm chắc kiến thức ngữ âm, nắm chắc Luật chính tả mà các em
cịn được hướng dẫn kỹ các quy định nên các em có nề nếp học tập tốt ngay từ
đầu năm và được duy trì trong suốt năm học. Vì vậy các em rất thích đến trường
bởi ở đó các em cảm nhận được việc Đi học là hạnh phúc và Mỗi ngày đến
trường náo nức một ngày vui.
GV đã có một tay nghề vững vàng sau khi dạy môn Tiếng Việt 1 theo
phương pháp CGD. Với phương pháp dạy học theo hướng tích cực nên tiến trình
giờ dạy diễn ra nhẹ nhàng, giúp học sinh tham gia hoạt động học tập một cách tự
giác, chủ động, sáng tạo. Từ đó, bước đầu hình thành cho học sinh kĩ năng tự
học. Học sinh tự làm ra sản phẩm giáo dục nên rất hứng thú, khả năng tư duy
của học sinh được phát huy, học sinh nắm chắc cấu tạo ngữ âm của tiếng nên
đều đọc được và đọc tốt, nắm chắc các quy tắc chính tả, học đến đâu chắc đến
đó; khơng bị nhầm lẫn viết sai chính tả, học sinh có kĩ năng nghe để viết chính
tả tốt. Đa số các em nghe và hiểu được hiệu lệnh, hiểu được lời nói của giáo
viên. Nhiều em trả lời rành mạch, nói đủ câu rõ ràng. Học sinh đọc nhanh, đọc
đều, đảm bảo tốc độ đọc theo yêu cầu. Kết quả học tập của học sinh ổn định,
vững chắc, học sinh học đâu biết đấy, học đâu chắc đấy. Với phương pháp này,
đòi hỏi giáo viên liên tục phải tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chun mơn,
thường xun tìm tịi, tham khảo các mẫu giảng. Từ đó, tự thiết kế bài giảng của
mình sao cho linh hoạt, phù hợp với trình độ tiếp nhận của học sinh.
II/ Thời gian – Đối tượng nghiên cứu
- Thời gian: Năm học 2014 – 2015
- Đối tượng: Học sinh khối 1, trường PTCS Yên Than
III/ Nội dung chuyên đề
1. Thực trạng:
Dưới sự chỉ đạo của BGH, chuyên môn nhà trường, năm học 2014-2015
trường PTCS Yên Than có 6/6 lớp 1 đã triển khai và thực hiện dạy chương trình
Tiếng Việt 1- Cơng nghệ giáo dục.
Cho đến thời điểm này chúng tôi đã dạy qua 2 bài Tiếng và Âm, và bắt
đầu chuyển sang dạy bài vần. Trong q trình giảng dạy chúng tơi có một số
thuận lợi và khó khăn vướng mắc như sau:
2
a. Thuận lợi
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ Phòng Giáo Dục, Ban giám hiệu
nhà trường, Hội cha mẹ học sinh đều nhiệt tình hưởng ứng.
- Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm dạy lớp 1 trẻ, có năng lực chun mơn,
nhiệt tình, say mê với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao, ham học hỏi.
- có 5/6 đ/c đã được tập huấn kĩ chương trình Tiếng Việt 1- Công nghệ
giáo dục cấp tỉnh.
- Hàng tuần chuyên môn chỉ đạo giáo viên khối 1 họp để trao đổi thống
nhất về phương pháp, chia sẻ cách thức tổ chức nề nếp lớp học.
b. Khó khăn
* Về phía giáo viên:
- Một số giáo viên phát âm còn ngọng
- Trong quá trình dạy đơi khi cịn sử dụng lẫn với phương pháp truyền
thống
- Chưa linh hoạt tổ chức các trò chơi gây hứng thú, giảm bớt căng thẳng
cho học sinh.
- Đồ dùng dạy học còn thiếu như: Bộ chữ viết mẫu
- Có 1 giáo viên chưa được tập huấn cấp tỉnh do mới chuyển từ đơn vị
trường khơng đăng kí dạy học tiếng việt – CGD lớp 1.
* Về phía học sinh:
- Một số học dân tộc tại điểm trường Khe Và, Nà Lộc, Khe Muối còn
chưa mạnh dạn trong giao tiếp, chưa hòa đồng trong các hoạt động của lớp
- Nhận thức của học sinh trong một lớp không đồng đều, còn một vài em
tiếp thu chậm, nghe viết kém, hay nhầm lẫn dẫn đến làm cho những em khá giỏi
có cơ hội nói chuyện và làm việc riêng gây mất trật tự đặc biệt ở lớp 1 – Khu
chính.
- Cách đọc âm /q/, /gi/, /c/ có sự khác nhau so với dạy nhận biết chữ ở
mầm non.
- Phát âm lẫn lộn giữa các âm: l - n, ch- tr, s - x, , d- b,... r/d/gi; học sinh
dân tộc bị ngọng: Dấu thanh sắc và ngã cho nên khi viết các em hay viết sai
chính tả.
- Học sinh khơng nhớ cách đọc chữ in hoa
- Học sinh hay quên những chữ như: ch, nh, tr, th, gh, ng, ngh, ph.
- Một số học sinh còn đánh vần theo phương pháp cũ:
- Khi dạy vần. Học sinh dễ nhầm lẫn ghép một số ngun âm trịn mơi với
những ngun âm khơng trịn mơi.
Ví dụ: , oi, oơ mà chỉ có thể ghép là uê, uy, uơ
Hoặc các em hay đánh vần nhầm khi tìm tiếng mới: Ví dụ boa ->ba; Nhoa
-> nha
2. Nguyên nhân
- Giáo viên phát âm ngọng có thể là do tiếng địa phương, hoặc đơi khi do
thói quen không chú ý đến phát âm.
3
- Học sinh đánh vần theo phương pháp cũ là do một số phụ huynh dạy con
em đánh vần ở nhà hoặc do giáo viên đôi khi thấy học sinh gặp khó khăn khi
viết nên đánh vần theo phương pháp cũ giúp học sinh nhận biết được con chữ
đứng trước tiếng.
- Giáo viên đa phần mới được tiếp cận với học sinh lớp 1 nên cịn nhiều
bỡ ngỡ chưa có kinh nghiệm rèn học sinh, chưa hiểu tâm lí các em. Chỉ chú
trọng vào tiết dạy của mình cho hết bài học.
- Do quy trình 4 việc tương đối dài nên giáo viên thường kéo dài thời
lượng của mỗi tiết học làm cho học sinh mệt mỏi không tập trung chú ý.
- Do ở mẫu giáo các em được học một số âm k đọc là ca, q đọc là cu
nhưng khi vào lớp 1 những chữ đó lại được đọc là âm cờ nhưng theo luật chính
tả được viết bằng con chữ k, q cho nên học sinh rất dễ phát âm nhầm.
- Do giáo viên đôi khi phát âm không chuẩn, không rõ làm cho học sinh
dễ phát âm nhầm lẫn l - n, ch- tr, s - x, , d- b,... r/d/gi;
- Học sinh không nhớ cách đọc chữ in hoa do các em chỉ được giới thiệu
qua ở phần đọc sách giáo khoa trong việc 3 nên gặp khó khăn khi đọc.
- Do ở mẫu giáo học sinh chỉ được học 29 chữ cái, không được học những
âm có 2 con chữ ghép lại cho nên học sinh hay quên những chữ như: ch, nh, tr,
th, gh, ng, ngh, ph.
- Học sinh dễ phát âm nhầm oa ->a do các em quen với cách phát âm theo
mẫu ba nên bước đầu chưa quen. Ngồi ra có em do bị ngọng không phát âm
được.
3. Giải pháp thực hiện:
3.1. Trước khi lên lớp, giáo viên dành nhiều thời gian nghiên cứu bài học
để chủ động về kiến thức, phương pháp, khơng bị đảo quy trình. Tự chú ý rèn
nói, rèn đọc cho thật chuẩn.
3.2. Tự làm đồ dùng phục vụ cho các bài học
Ví dụ: Trong tổ đã thống nhất sử dụng phần mềm viết chữ để làm cho mỗi
giáo viên 1 bộ chữ viết thường tuy nhiên nhiều lúc mẫu chữ không giống với
mẫu chữ trong vở tập viết của các em như âm r, p, ph. Vì vậy chúng tơi sẽ viết
chữ chuẩn ra bảng phụ để giới thiệu với học sinh.
3.3. Giao nhiệm vụ thích hợp cho từng đối tượng học sinh để tập trung
vào dạy phân hóa đối tượng:
Ví dụ: Khi dạy bài vần /oe/
- Ở việc 2: Khi cho học sinh viết vở em tập viết: G yêu cầu các em viết 1
dòng vần oe, 1 dịng chữ hoe, 1 dịng đỏ chóe. Trong khi viết bài giáo viên quan
sát thấy học sinh khá giỏi viết xong bài thì thưởng cho các em đó viết thêm phần
ngơi sao hoặc phần viết ở nhà. Giáo viên sẽ có thời gian kèm, giúp đỡ những em
còn chậm.
- Ở việc 3: Đọc SGK. G yêu cầu đọc nhóm 4 bài “Bé khoe”. Lúc học sinh
khá giỏi có cơ hội để giúp đỡ những học sinh cịn yếu phần đọc trong nhóm của
mình. Giáo viên cũng có điều kiện để quan sát, giúp đỡ những H còn chậm.
3.4. Đối với những âm khó nhớ, học sinh dễ quên thì giáo viên nhắc lại
từng con chữ, nhắc lại luật chính tả để các em nhớ lại và viết cho đúng.
Ví dụ: Trong bài vần /oe/
4
- Khi dạy viết chính tả có chữ khoe, q, thế...có một số H hay bị quên
chữ ghi âm kh, q, th thì G sẽ gọi H khá giỏi nhắc lại âm kh gồm con chữ /k/ với
con chữ /h ghép lại, âm /th/ gồm con chữ /t/ với con chữ /h/ ghép lại để các em
nhớ lại và viết cho đúng. Ngoài ra G cũng yêu cầu H nêu lại luật chính tả về âm
đệm “âm /c/ đứng trước âm đệm được viết bằng con chữ /q/, âm đệm viết bằng
con chữ /u/”. Hay luật chính tả về dấu thanh “Dấu thanh đặt ở âm chính ”
- Khi đọc từ lịe nhịe, choe chóe. H thường hay qn âm /nh/, âm/ch/ nên
khơng đọc được hai từ đó thì giáo viên đưa ra một số sự vật, con vật quen thuộc
gần gũi với học sinh như quả nho, con chó để học sinh đánh vần tiếng nho, chó
từ đó các em sẽ nhớ lại những âm đó.
- Ngồi ra hàng ngày 15 phút truy bài đầu giờ, giáo viên ghi những chữ
khó lên gocsn bảng và cử học sinh khá giỏi cho các bạn đọc lại nhiều lần
- Sau khi G đọc mẫu bài “Bé khoe” thì giới thiệu B, KH, E là chữ in hoa
và gọi học sinh nhắc lại nhiều lần cho thuộc sau đó mới yêu cầu các em đọc bài.
3.5. Sử dụng linh hoạt phương pháp dạy học:
- Phương pháp luyện tập theo mẫu: Giáo viên phát âm chuẩn, rõ ràng,
thật chậm từ 2 - 3 lần, sau đó cho học sinh phát âm sai phát âm lại.
- Phương pháp quan sát và phân tích cách phát âm: Giáo viên quan sát
phát hiện học sinh phát âm sai; nói rõ nguyên nhân phát âm sai bằng cách chỉ ra
cách sử dụng các bộ phận phát âm khơng đúng của các em. Sau đó, giáo viên mơ
tả cách phát âm, như: Nêu rõ vị trí đặt lưỡi, vị trí của lưỡi với răng, độ mở của
mơi...
Ví dụ: Tóe loe, choe chóe, ngóe H dễ phát âm sai ở loe, chóe, ngóe thành
le, ché, noe, ngé. G cần gọi những em phát âm sai phát âm lại chú ý cong lưỡi ở
âm tiếng loe, phân tích lại vần oe, ngóe nhớ uốn trịn mơi.
3.6. Giáo viên thường xun trao đổi với phụ huynh tuyệt đối không dạy
con em ở nhà đánh vần theo phương pháp cũ và có thể tổ chức tập huấn hướng
dẫn phụ huynh nắm được cơ chế đánh vần theo hai bước, quy trình đọc sách
giáo khoa, mẫu chữ....
3.7. Để hoàn thành mỗi bài học ban đầu chúng tôi đã giãn thời lượng vào
các tiết thực hành và bồi dưỡng tiếng việt, kéo dài thời gian vào tiết cuối mỗi
ngày. Bên cạnh đó ở điểm trường Khe Và do học một buổi/ ngày giáo viên đã tự
nguyện dạy thêm một số buổi chiều để hoàn thành bài và nâng cao chất lượng.
Tuy nhiên thời gian sau này khi học sinh đã quen dần với phương pháp mới thì
chúng tơi u cầu giáo viên dạy phải đẩy nhanh thời lượng của mỗi tiết cho đảm
bảo đủ 40 phút. Không kéo dài quá lâu làm cho học sinh mệt mỏi.
3.8. Giáo viên phải linh hoạt tổ chức một số trò chơi khởi động vào đầu
tiết, giữa tiết hoặc cuối tiết, thay đổi hình thức chơi để các em quên đi sự mệt
mỏi, thu hút sự chú ý và sự tập trung tốt nhất.
4. Bài học kinh nghiệm
Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt - CGD cần làm tốt các
việc sau:
- BGH nhà trường tiếp tục quan tâm chỉ đạo việc dạy và học chương trình
tiếng Việt 1 – CNDG và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các giáo viên dạy lớp 1
được tham gia đầy đủ, các lớp bồi dưỡng, tập huấn do Phòng Giáo dục và Đào
5
tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Tăng cường dự giờ, góp ý, tư vấn để kịp
thời giải đáp vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình.
- Mỗi tuần giáo viên khối 1 tiếp tục tổ chức họp lại để trao đổi, rút kinh
nghiệm và góp ý cho nhau về phương pháp, quy trình dạy.
- Bản thân giáo viên tiếp tục bám sát chặt chẽ phương pháp giảng dạy, thực
hiện đúng quy trình; đồng thời phát hiện, đóng góp những ý kiến để khắc phục
hạn chế, phát huy tối đa hiệu quả trong việc dạy và học.
- Giáo viên tiếp tục phát huy sự nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao,
biết vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học; biết kích
thích lịng say mê học tập của các em, đồng thời lưu ý đến điều kiện thực tế ở
mỗi lớp, mỗi trường.
5. Kết luận:
Từ khi áp dụng dạy môn Tiếng Việt – CGD lớp 1. Mặc dù gặp phải rất
nhiều khó khăn nhưng chúng tơi đã tìm ra một số giải pháp hữu hiệu và áp dụng
nó vào trong mỗi tiết học. Chính vì vậy chúng tơi đã đạt được một số kết quả
như sau:
- Giáo viên đã nắm chắc và chủ động thực hiện các bài học theo đúng quy
trình 4 việc. Nắm vững kỹ thuật dạy học theo hướng tích cực “Lấy học sinh làm
trung tâm” tiến trình giờ dạy nhẹ nhàng, dễ thực hiện, giáo viên không cần nói
nhiều, chỉ sử dụng kí hiệu.
- Học sinh đã biết thực hiện thành thạo theo những kí hiệu được quy ước,
Đọc và sử dụng những động tác bằng tay rất vui nhộn. Khơng khí lớp học khá
sơi nổi, phù hợp với lứa tuổi. Các em rất hào hứng ở phần tìm các tiếng mới,
thêm dấu thanh để tạo ra tiếng mới.
Cuối cùng tơi xin phép được trích dẫn ngun văn câu nói của Giáo sư Hồ
Ngọc Đại “Thầy giáo không chỉ đơn thuần là người truyền thụ kiến thức mà
đồng thời phải có vai trị như một nhà tâm lí. Thầy cơ đừng bao giờ chê và so
sánh học sinh, hãy thương yêu và tôn trọng các em, các em đến trường phải cảm
nhận được niềm hạnh phúc, sự yên vui. Trẻ em hạnh phúc thì sẽ làm cho cả gia
đình hạnh phúc từ đó mới có một xã hội yên bình...Thầy giáo lớp 1 là những
người dạy trẻ tính kỉ luật chặt chẽ, quy củ trong tư duy bắt đầu từ những con chữ
đầu tiên phải viết như thế nào...”
Trên đây là một số ý kiến chia sẻ của giáo viên trường chúng tôi về “dạy
học Tiếng Việt lớp 1 – Công nghệ giáo dục”. Xin cảm ơn các đồng chí đã chú ý
lắng nghe.
NGƯỜI VIẾT BÁO CÁO
Phạm Thị Mai Loan
6
Chuyên đề 2
“Rèn kĩ năng sử dụng đồ dùng trong mơn Tốn”
I/ Lý do chọn chun đề
1. Cơ sở lý luận
Đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học: Bao giờ cũng đi từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng. Do vậy, thiết bị và đồ đùng dạy học trở thành một
điều kiện khơng thể thiếu và có vai trị hết sức quan trọng. Thơng qua những
thiết bị và đồ đùng dạy học này, giáo viên và học sinh biết sử dụng hợp lý, đúng
quy trình, phù hợp với từng đơn vị kiến thức, nội dung bài học, mơn học thì thiết
bị và đồ đùng dạy học sẽ là nguồn phương tiện cung cấp kiến thức cho học sinh,
là con đường kết hợp chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, xây dựng cho
học sinh biết quan sát một cách có tổ chức, có kế hoạch, biết tư duy một cách
độc lập, linh hoạt, sáng tạo, biết tưởng tượng một cách đúng hướng và phong
phú.
Ở mỗi tiết dạy, các phương pháp dạy học chỉ được thực hiện nhờ có sự hỗ
trợ của các thiết bị và đồ đùng dạy học nhất định, với những hình thức dạy học
nhất định, phối kết hợp những thủ pháp hết sức phong phú đa dạng. Thiết bị và
đồ dùng dạy học tự làm đóng vai trị cung cấp nguồn thơng tin học tập, tạo ra
nhiều khả năng để giáo viên trình bày nội dung bài học một cách sâu sắc và
thuận lợi trong tất cả các mơn học, trong đó có mơn Tốn. Một trong những yếu
tố để đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là đổi mới thiết bị và đồ dùng dạy
học theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa. Việc khai thác sử dụng thiết bị và đồ
dùng dạy học trong giảng dạy chương trình sách giáo khoa Toán mới ở lớp 2 là
hết sức cần thiết đối với các trường Tiểu học. Đặc biệt là đối với người giáo viên
trực tiếp đứng lớp giảng dạy mơn Tốn lớp 2.
2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn cho thấy: Việc sử dụng thiết bị và đồ dùng dạy học trong giảng
dạy đã là một trong truyền thống từ trước đến nay và đem lại hiệu quả cao cho
giáo dục. Đặc biệt trong việc đổi mới giáo dục phổ thơng thì sử dụng thiết bị và
đồ đùng dạy học là một yêu cầu bức thiết. Vì sử dụng thiết bị và đồ dùng dạy
học chính là tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên đa dạng hóa các hình thức tổ
chức dạy học và hoạt động theo hướng tích cực hóa, cá thể hóa người học trong
hoạt động học tập, rèn luyện phát huy hết tài năng của mỗi giáo viên và tiềm
năng của mỗi học sinh.
Thực tế ở các nhà trường và bản thân tôi nhận thấy: Trong một tiết học
toán, các em học sinh được trực tiếp nhìn – nghe – nói và làm cùng thiết bị và đồ
dùng dạy học tôi thấy khả năng tiếp thu bài của các em có hiệu quả cao hơn.
Như vậy, ở các tiết dạy, người giáo viên thực hiện nghiêm túc việc sử dụng đồ
dùng dạy học, có sự tìm tịi, sáng tạo thì sẽ đem lại kết quả cao.
II/ Thời gian – Đối tượng nghiên cứu
- Thời gian: Năm học 2014 – 2015
- Đối tượng: Học sinh, trường PTCS Yên Than
III/ Nội dung chuyên đề
7
1. Thực trạng:
Trong q trình giảng dạy chúng tơi có một số thuận lợi và khó khăn
vướng mắc như sau:
a.Thuận lợi
- Tập huấn về làm và sử dụng đồ dùng dạy học ở các cấp huyện, trường.
- Trường đã có 01 bộ máy chiếu đa năng và 01 bộ máy vi tính phục vụ
trình chiếu.
- Gv và học sinh đều được trang cấp thiết bị và đồ dùng cần thiết cho mơn
học.
- Ngồi ra nhà trường khuyến khích viên giáo viên tự làm đồ dùng, thi sử
dụng đồ dùng cấp trường, cấp huyện.
- Chương trình tốn hiện nay có cấu trúc đồng tâm, lơgic, thuật ngữ Tốn
học chính xác, rõ ràng, phù hợp với tư duy trẻ. Vì vậy học sinh dễ tiếp thu kiến
thức mới và áp dụng để làm bài tập.
- Trong các kỳ sinh hoạt chuyên môn của tổ, các đồng chí giáo viên trong
tổ cũng đã họp để trao đổi thống nhất về phương pháp, chia sẻ cách thức sử
dụng thiết bị và đồ dùng dạy học sao cho phợp lý.
b. Khó khăn
* Về phía giáo viên:
Do thiết bị và đồ dùng được trang cấp đã lâu, trong quá trình sử dung bị
mất mát và thất lạc đi nhiều. Chính vì thế cho đến nay bộ đồ dùng dạy học mơn
tốn của GV và học sinh khơng cịn đầy đủ như trước. Hơn nữa, khả năng khai
thác, sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy học nhất là đồ dùng dạy học tự làm trong
giảng dạy chương trình sách giáo khoa mới đối với các giáo viên dạy lớp 2 cịn
nhiều hạn chế.
Có một số giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học chưa đúng lúc, đúng chỗ,
đúng mức độ của nội dung bài học, nhiều khi còn lạm dụng. Một số giáo viên đã
biết sử dụng đồ dùng dạy học thì lại chưa khai thác triệt để các đồ dùng đó.
* Về phía học sinh:
- Đồ dùng thiếu, 2, 3 em phải sử dụng chung một bộ đồ dùng dẫn đến hiệu
quả học tập chưa cao.
- Do điều kiện kinh tế của đa số HS cịn khó khăn nên việc mua sắm đồ
dùng học tập cho các em chưa đầy đủ.( bộ đồ dùng học toán)
- Một số học sinh dân tộc tại điểm trường Khe Và, Nà Lộc, Khe Muối còn
chưa mạnh dạn trong giao tiếp, chưa hòa đồng trong các hoạt động của lớp.
- Nhận thức của học sinh trong một lớp không đồng đều, còn một vài em
tiếp thu chậm, chưa thuộc bảng cộng, trừ. Các em học sinh cịn hiếu động,
khơng chú ý vào bài.
2. Nguyên nhân
- Do nội dung dạy Tốn mang tính trừu tượng.
- Do sự nhận thức của học sinh không đồng đều
- Việc khai thác và sử dụng đồ dùng dạy học tốn có nhiều giáo viên chưa
đồng bộ, do chưa đổi mới phương pháp dạy học một cách triệt để, chưa coi
8
trọng hoạt động học tập của học sinh là trung tâm của quá trình dạy học cho nên
các trang thiết bị ít khi phát huy tác dụng.
- Có nơi giáo viên tổ chức cho học sinh sử dụng các thiết bị dạy học toán
thường chỉ hướng dẫn lập lại theo mẫu hoặc làm theo hiệu lệnh của giáo viên để
minh hoạ cho bài học sách giáo khoa, hầu như ít khi học sinh sử dụng các thiết
bị dạy học toán để chiếm lĩnh tri thức mới.
3. Một số biện pháp rèn kĩ năng sử dụng đồ dùng trong mơn Tốn lớp 2:
3.1. Chuẩn bị đồ dùng đầy đủ cho 1 tiết học
- Trước mỗi giờ dạy, giáo viên phải chuẩn bị cho tiết học đó. Đồ dùng
chuẩn bị cho tiết học phải được ghi trong giáo án, ghi rõ đồ dùng cho giáo viên
và học sinh.
* Ví dụ: Bài Phép nhân
+ Chuẩn bị: - GV: 5 thẻ 2 chấm tròn, các số và dấu =, x, bảng gài, bảng
phụ, các hình minh họa, một số món q nhỏ.
- HS: 5 thẻ 2 chấm tròn, các số và dấu =, x, bảng gài.
3.2. Nghiên cứu , tìm hiểu và sử dụng thành thạo đồ dùng đó
Với mỗi loại đồ dùng dạy học đã chọn, trước khi lên lớp người giáo viên
phải có sự chuẩn bị chu đáo cụ thể là: nghiên cứu, tìm hiểu xem đồ dùng đó có
thể sử dụng để dạy những bài nào và cách sử dụng như thế nào để khai thác
kiến thức của bài học một cách hiệu quả nhất.
3.3. Đồ dùng trực quan phù hợp với từng giai đoạn học tập của học sinh
Ở giai đoạn đầu năm lớp 2 đồ dùng ở mức độ đơn giản, cụ thể hơn.
*Ví dụ: Khi dạy các bài về Bảng cộng, Bảng trừ, Hình chữ nhật, hình tứ
giác, ...). Đồ dùng là que tính, bó que tính, hình chữ nhật, hình tứ giác, ...)
Nhưng sang đến bài: Mét, Ki-lô-mét ở cuối học kỳ II, đồ dùng được sử dụng ở
mức độ trừu tượng, khái quát hơn ( như thước mét, hình ảnh về quãng đường…)
3.4. Sử dụng đúng lúc, đúng mức độ các đồ dùng học tốn
Khi hình thành các bảng trừ, giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng đồ
dùng học tập để tìm ra kết quả các phép trừ (dạy bài mới). Nhưng khi đã thuộc
lòng bảng trừ thì cố gắng khơng dùng que tính, đốt ngón tay để làm tính mà nói
ngay, viết ngay kết quả phép tính. Chỉ khi nào qn cơng thức tính thì mới sử
dụng que tính, đốt ngón tay để hỗ trợ cho trí nhớ ( trong q trình luyện tập thực
hành).
3.5. Chuyển dần, chuyển kịp thời các phương tiện trực quan từ dạng cụ
thể sang dạng trừu tượng hơn.
Ngay ở giai đoạn phải sử dụng các đồ vật cụ thể (vật thực, vật tượng
trưng) cũng phải chuyển dần từ vật "cụ thể" sang vật "ít cụ thể" hơn.
1
2
* Ví dụ khi dạy bài: Một phần hai( ) ban đầu HS được cụ thể bằng các
1
2
hình vng, hình tam giác,… chia đơi và tơ màu phân biệt ( ), thì đồng thời
ngay sau đấy GV có thể minh họa bằng những đồ dùng “ít cụ thể hơn”. Như là:
hình ảnh một số con vật, một số bông hoa, … được chia đôi.
3.6. Thay đổi phương pháp sử dụng đồ dùng một cách linh hoạt tránh
nhàm chán.
9
3.7. Rèn kỹ năng sử dụng đồ dùng cho học sinh
Điều quan trọng nhất là sử dụng đồ dùng dạy học: Giáo viên tổ chức,
hướng dẫn cho học sinh hoạt động trên bộ đồ dùng của từng cá nhân. Từ các
hoạt động có định hướng đó, học sinh tự mình phát hiện, tìm tịi được các kiến
thức mới của mơn Toán.
Chẳng hạn, trong bài: Bảng nhân 2, GV hướng dẫn HS sử dụng các thẻ 2
chấm trịn dựa vào đó HS tự nêu kết quả của 2 nhân với một số.
Ngoài ra khi sử dụng bộ đồ dùng giáo viên rèn cho học sinh ý thức giữ
gìn, sắp xếp bộ đồ dùng nhanh nhẹn và ngăn nắp, làm theo hiệu lệnh và ký hiệu
(giáo viên ghi ĐD thì học sinh lấy đồ dùng, giáo viên xố thì học sinh phải cất
ngay đồ dùng).
3.8. Tìm thêm những đồ dùng phụ trợ để tiết học thêm sinh động hoặc
chọn các trò chơi để củng cố kiến thức khắc sâu bài.
1
2
1
3
Ví dụ : Khi dạy các bài : Một phần hai( ), Một phần ba ( ),Một phần
1
1
), Một phần năm( ), ngoài việc sử dụng đồ dùng là các hình được chia
4
5
1 1 1 1
, , , , mà bộ đò dùng trang cấp, thì GV có thể sử dụng các mẫu vật( quả
2 3 4 5
bốn(
cam , cái bánh được chia làm hai phần bằng nhau để dạy bài Một phần hai) hoặc
là các hình vẽ, tranh ảnh về
1 1 1 1
, , ,
2 3 4 5
Ngoài ra, sau mỗi bài giáo viên có thể tổ chức cho học sinh trị chơi củng
cố (bằng bộ đồ dùng toán của học sinh).
- Lập phép tính (học sinh sử dụng các số và dấu lập phép tính theo yêu
cầu của giáo viên).
- Cài kết quả (giáo viên nêu phép tính, học sinh thi gài nhanh kết quả bằng
bảng gài, số và các dấu trong bộ đồ dùng ).
3.9. Ứng dụng công nghệ thông tin:
Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực giáo dục đã hỗ
trợ tích cực trong dạy học mơn Tốn. Cụ thể trong thiết kế các tiết dạy giáo án
điện tử, giáo viên đã sữ dụng các hình ảnh sinh động, gần gũi với các em... đã
đem đến sự hứng thú, tích cực khám phá, lĩnh hội kiến thức mới cho học sinh.
Như khi dạy bài
Ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong dạy học Tốn đã đem lại hiệu quả
đáng kể trong các tiết dạy. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý xác định đó chỉ là
phương tiện hỗ trợ dạy học, tuỳ theo từng bài dạy để sử dụng sao cho linh hoạt
hợp lý, tránh lạm dụng quá mức cần thiết nếu không sẽ mang lại hiệu quả giáo
dục không như mong muốn.
4. Bài học kinh nghiệm:
Để rèn kĩ năng sử dụng đồ dùng trong môn Toán lớp 2 cần làm tốt các
việc sau:
- BGH nhà trường tiếp tục quan tâm chỉ đạo việc tự làm và sử dụng đồ
dùng dạy học và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các giáo viên được tham gia
đầy đủ, các lớp bồi dưỡng, tập huấn về đồ dùng dạy học do Phòng Giáo dục và
10
Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Tăng cường dự giờ, góp ý, tư vấn để
kịp thời giải đáp vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình.
- BGH tiếp tục tham mưu với cấp trên trang cấp bổ sung trang thiết bị và
đồ dùng dạy học mơn Tốn lớp 2 cho GV và HS được đầy đủ hơn.
- Mỗi tuần giáo viên khối 2 tiếp tục tổ chức họp lại để trao đổi, rút kinh
nghiệm và góp ý cho nhau về phương pháp, cách sử dụng đồ dùng dạy học phù
hợp với từng bài dạy.
- Bản thân giáo viên tiếp tục tìm tịi phát huy tối đa hiệu quả trong việc sử
dụng đồ dùng dạy và học. Tìm và khắc phục những hạn chế trong mỗi bộ đồ
dùng đó.
- Giáo viên biết kích thích lịng say mê học tập của các em, đồng thời lưu
ý đến điều kiện thực tế ở mỗi lớp, mỗi điểm trường.
5. Kết luận:
Từ khi rèn kĩ năng sử dụng đồ dùng trong mơn Tốn lớp 2 được áp dụng.
Mặc dù gặp phải rất nhiều điều phải băn khoăn, trăn trở nhưng chúng tơi đã tìm
ra một số giải pháp hữu hiệu và áp dụng các đồ dùng dạy học vào trong mỗi tiết
dạy. Chính vì vậy chúng tơi đã đạt được một số kết quả như sau:
- Giáo viên đã nắm chắc và chủ động sử dụng đồ dùng một cách bài bản.
Làm cho tiến trình giờ dạy nhẹ nhàng, dễ thực hiện và kiến thức khơng cịn trừu
tượng đối với học sinh.
- Học sinh đã biết thực hiện thành thạo thao tác trên những đồ dùng cô
giáo chuẩn bị. Không khí lớp học khá sơi nổi, phù hợp với lứa tuổi. Các em rất
hào hứng, hứng thú với các hoạt động của mơn Tốn, chủ động chiếm lĩnh kiến
thức một cách dễ dàng.
Trên đây là một số ý kiến chia sẻ của giáo viên tổ 2 -3 chúng tôi về “Rèn
kĩ năng sử dụng đồ dùng trong mơn Tốn lớp 2”. Xin cảm ơn các đồng chí đã
chú ý lắng nghe.
NGƯỜI VIẾT BÁO CÁO
Nguyễn Thị Minh
11
Thứ ba ngày 6 tháng 1 năm 2015
Toán
TIẾT 92: PHÉP NHÂN
Những kiến thức đã biết có liên quan Những kiến thức cần cung cấp
- Biết cách tính tổng của nhiều số hạng - Nhận biết tổng của nhiều số hạng
( Toán 2-Tr 91 )
bằng nhau.
- Biết chuyển tổng của nhiều số hạng
bằng nhau thành phép nhân.
- Biết đọc, viết kí hiệu của phép nhân.
- Biết cách tính kết quả của phép nhân
dựa vào phép cộng.
I. Mục tiêu
1. KT: - Bước đầu biết nhận biết phép nhân trong mối quan hệ với một tổng các
số hạng bằng nhau
2. KN : - Biết đọc viết , cách tính kết quả của phép nhân
3. TĐ: - HS u thích mơn học.
II. Chuẩn bị:
1. Đồ dùng Gv: - Tranh ảnh minh họa, các tấm bìa 2 chấm trịn, bảng phụ
Hs: - VBT, các tấm bìa 2 chấm trịn
III. Các hoạt động dạy học:
1. Hoạt động 1: Khởi động ( 5 phút)
- Kết quả mong đợi: HS biết thực hiện tính tổng của nhiều số hạng.
- Phương pháp - kĩ thuật dạy học: thực hành
- Đồ dùng/thiết bị dạy học: bảng con.
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
*Khởi động:
Tính
- 2 HS lên bảng thực hiện, lớp làm
7+ 3 + 9 =
bảng con.
6+4+5+5=
- Nhận xét bài của bạn
5+5+ 5+5+5=
- Nhận xét – đánh giá.
* Giới thiệu bài:
Từ phép tính: 5 + 5 + 5 + 5 + 5 = 25
- Em có nhận xét gì về các số hạng của - HS nêu: các số hạng đều bằng nhau.
phép tính trên?
- GV giới thiệu: từ phép tính trên hơm - HS nghe
nay cơ sẽ hướng dẫn các em chuyển về
một phép tính mới có cách viết ngắn
gọn hơn, đó là Phép nhân.
- GV ghi bài: Phép nhân.
2. Hoạt động 2: Hướng dẫn HS nhận biết về phép nhân (10 phút)
- Bước đầu biết nhận biết phép nhân trong mối quan hệ với một tổng các số
hạng bằng nhau.
12
- Quan sát, đàm thoại, luyện tập.
- Bảng phụ, các tấm bìa 2 chấm trịn
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
* Hướng dẫn HS nhận biết về phép
nhân
- GV lấy 1tấm bìa có hai chấm trịn
H: Tấm bìa có mấy chấm tròn?
- 2 chấm tròn
- GV yêu cầu HS lấy ra 5 tấm bìa có 2
- HS lấy trong bộ đồ dùng 5 tấm bìa
chấm trịn.
có 2 chấm trịn.
H: Em đã lấy ra được mấy tấm bìa 2
- Em lấy được 5 tấm bìa có 2 chấm
chấm trịn?
trịn.
- GV lấy 5 tấm bìa như thế
- GV hỏi: 2 được lấy mấy lần?
- 2 được lấy 5 lần.
H: Có tất cả bao nhiêu chấm tròn?
- 10 chấm tròn
H: Các em làm như thế nào?
ta có : 2 + 2 + 2 + 2 + 2 = 10
H: Tổng trên gồm mấy số hạng , mỗi số - tổng trên gồm 5 số hạng , mỗi số
hạng là mấy ?
hạng là 5
- GV chuyển thành phép nhân:
2 x 5 = 10
- GV giới thiệu cách đọc
- HS đọc: Hai nhân năm bằng mười
- GV giới thiệu dấu nhân: x
- Dấu x là dấu nhân
- HS thực hành đọc và viết phép nhân:
- Gv viết 3 + 3 + 3 = , 4 + 4 = , 5 + 5 = 3 + 3 + 3 = 9 -> 3 x 3 = 9
- Yêu cầu HS nêu kết quả và chuyển về 4 + 4 = 8 -> 4 x 2 = 8
phép nhân.
5 + 5 = 10 -> 2 x 5 = 10
* Phép cộng như thế nào thì được - Phép cộng có các số hạng bằng
chuyển thành phép nhân?
nhau.
- GV: chỉ những phép cộng có các số
hạng bằng nhau thì mới được chuyển
thành phép nhân.
3. Hoạt động 3: Luyện tập (20 phút)
- Biết đọc viết , cách tính kết quả của phép nhân.
- Quan sát, đàm thoại, thảo luận nhóm, luyện tập
- Tranh ảnh minh họa, bảng phụ
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
* Luyện tập
Bài 1. - HS nêu yêu cầu
Bài 1. Chuyển tổng các số hạng bằng
- HS quan sát tranh bài tập 1
nhau thành phép nhân theo mẫu.
- GV phân tích mẫu
a)
4 được lấy 2 lần
H: 4 quả cam được lấy mấy lần?
Mẫu : 4 + 4 = 8
H: 4 được lấy 2 bằng bao nhiêu?
4x2=8
H: Chuyển được thành phép nhân như
thế nào?
- HS làm các phần còn lại tương tự:
b) 5 được lấy 3 lần
13
- HS sử dụng bảng gài cá nhân để gài
5 + 5 + 5 = 15
phép tính ra bảng gài
5 x 3 = 15
- Chữa bài:
c) 3 được lấy 4 lần
+ Nhận xét đúng sai
3 + 3 + 3 + 3 = 12
+ Giải thích cách làm bài
3 x 4 = 12
+ Dưới lớp đọc bài làm
– GV kiểm tra xác suất
Bài 2. - HS nêu yêu cầu
Bài 2. Viết phép nhân( theo mẫu )
- Gv phân tích mẫu:
a) 4 + 4 + 4 + 4 + 4 = 20
H: Trong tổng có mấy số hạng ?
Mẫu : 4 x 5 = 20
H: 4 được lấy mấy lần?
b) 9 + 9 + 9 = 27
H: Chuyển thành phép nhân như thế
9 x 3 = 27
nào?
c) 10 + 10 + 10 + 10 + 10 = 50
- HS làm các phần cịn lại theo nhóm
10 x 5 = 50
- GV mời các nhóm trình bày bài làm
- HS nhận xét
- GV nhận xét, chữa bài:
- Ta lấy số hạng nhân với số lần
H: Muốn chuyển tổng các số bằng nhau
thành phép nhân ta làm như thế nào?
4. Hoạt động 4: HĐ nối tiếp( 5 phút)
- HS biết tổng các số hạng bằng nhau thì mới chuyển thành phép nhân.
- Hỏi đáp
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Trò chơi: Hái hoa nhận quà
HS tham gia chơi:
- GV phổ biến nội dung quy tắc chơi:
+ HS được lựa chọn bơng hoa mình
2+2+2=6
5 + 5 = 10
thích, ẩn sau những bơng hoa là tổng các 2 x 3 = 6
5 x 2 = 10
số hạng bằng nhau, HS phải nêu được kết
quả và chuyển về phép nhân tương ứng
6 + 6 = 12
4 + 4 + 4 = 12
+ HS nào thực hiện đúng yêu cầu thì
6 x 2 =12
4 x 3 = 12
nhận được 1 phần quà
H: Những tổng như thế nào mới chuyển
thành phép nhân được?
- GV NX giờ học
IV. Tự rút kinh nghiệm:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
14