SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
PHẦN ÂM MÔN TIÊNG VIỆT LỚP 1 - CÔNG NGHỆ GIÁO
DỤC”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1/ Lý do chọn đề tài:
Theo đánh giá của Bộ GD-ĐT, việc học tiếng Việt lớp 1 Công nghệ
giáo dục không chỉ giúp HS nắm chắc tri thức cơ bản về tiếng Việt và
hình thành đồng thời các kĩ năng nghe - nói - đọc - viết một cách vững
chắc mà HS luôn được tham gia các hoạt động học tập một cách chủ
động, tự tin; thông qua việc làm, các thao tác học, các em tự tìm ra và
chiếm lĩnh tri thức, được phát huy khả năng tư duy và năng lực tối ưu
của mình. Đồng thời quá trình dạy học theo phương pháp Công nghệ
giáo dục không chỉ giúp GV nâng cao trình độ và năng lực nghiệp vụ sư
phạm mà cách tổ chức dạy học theo quy trình công nghệ giúp GV đổi
mới phương pháp một cách triệt để. Một điểm khác với phương pháp
dạy trước đây, khi áp dụng phương pháp dạy học Tiếng Việt lớp 1CGD, Giáo viên không phải cầm tay học sinh tập viết, mà mỗi học sinh
tự tư duy bài giảng. Quy trình dạy của giáo viên sẽ được tiến hành theo
bốn bước đó là: nhận diện ngữ âm, tập viết, đọc và luật chính tả.
Chương trình đã phát huy được khả năng tư duy của học sinh, giúp học
sinh nắm chắc được cấu tạo ngữ âm của tiếng nên đều đọc được và đọc
tốt. Qua thời gian nghỉ hè học sinh không quên chữ. Học sinh có thể
nắm chắc luật chính tả và kĩ năng nghe để viết chính tả tốt. Từ những lí
do trên nên tôi viết sáng kiến về “Phương pháp dạy học phần âm môn
Tiếng Việt lớp 1- CGD ”.
a) Cơ sở lý luận:
Những quan điểm giáo dục: Trong nhà trường, trẻ em là nhân vật
trung tâm, thầy giáo là nhân vật quyết định", "Nhà trường là nơi
trẻ em đang sống cuộc sống thực của chính mình", "Thầy thiết kế
- trò thi công"...
Vậy Công nghệ giáo dục là gì? Công nghệ giáo dục không phải
là Công nghệ thông tin trong Giáo dục, và cũng không phải chỉ là
phương pháp Giáo dục. Công nghệ thông tin được sử dụng như các
phương tiện trong Giáo dục và Công nghệ giáo dục tận dụng tối đa
những phương tiện này.
Công nghệ giáo dục là quá trình tổ chức và kiểm soát quá
trình Giáo dục sao cho ra được sản phẩm tất yếu, theo đúng ý đồ
thiết kế của nhà Giáo dục. Công nghệ giáo dục là thiết kế được
những việc làm Giáo dục để học sinh tự mình làm ra sản phẩm học
tập cho chính mình.
Tiết học vẫn có giáo viên, nhưng không phải để giảng bài, mà để
hướng dẫn các em cách tự học. Điều này vừa giúp trẻ hình thành
phương pháp tự học, vừa tạo cho trẻ được trải nghiệm thêm kỹ năng
làm việc.
Nếu học sinh không làm được thì đó là lỗi của người lớn (của
thầy cô giáo) chứ không phải của các em. Nhà trường cũng yêu cầu
không đem cái chưa đúng của học sinh ra để trừng phạt hay để phân
tích trước cả lớp. Em nào đúng thì khen, em nào chưa đúng thì phải
giúp để em làm đúng được mới thôi.
Trong lớp được phép "ồn" nếu là ồn trong học tập, không nhất
thiết phải im lặng mới là ngoan. Làm xong bài trước, ngọ ngoạy... một
tí được chấp nhận, miễn là không làm ảnh hưởng đến bạn khác.
Cái quan trọng nhất là "Phải dạy trẻ biết suy nghĩ, không phải chỉ
biết nghe lời","Phải làm sao cho trẻ suy nghĩ bằng cái đầu của mình,
không phải của người khác".
Quan hệ thầy - trò trong nhà trường không phải quan hệ bề trên kẻ dưới, mà là thực hiện một sự phân công - hợp tác.
Yêu cầu các em học hết sức, chứ không quá sức, phải thiết kế sao
cho "Giáo viên không giảng giải, học sinh không cần cố gắng", với
nghĩa thầy chỉ là người làm mẫu, hướng dẫn và điều chỉnh, trò cần học
hết sức mình nhưng không phải cố quá sức, không bị căng thẳng,
không bị áp lực, vừa đủ để thấy việc học thích thú, hấp dẫn.
Tiếng Việt là công cụ để học tất cả các môn học và hoạt động GD
khác. Nếu không học được Tiếng Việt, khó có thể học tốt những môn
học khác.
Tiếng Việt công nghệ giáo dục thành công không những cho học
sinh người Kinh mà còn ở cả những vùng chỉ toàn học sinh dân tộc
thiểu số, cha mẹ chỉ nói tiếng thiểu số, không biết tiếng Việt.
Trân trọng trẻ em, hiểu trẻ em để dạy trẻ em, dạy trẻ biết tư duy,
biết yêu thương và biết cách tự phục vụ là đích đầu tiên, dung dị và
nền tảng nhất trong nhân cách con người mà nhà trường đặt ra.
b) Cơ sở thực tiễn:
Trên thực tế qua nhiều năm ở trường tiểu học Phi Liêng nói
chung và ở khối lớp 1 nói riêng. Các em học sinh từ Mầm non lên lớp
1, trong việc học tập cũng như các hoạt động các em còn rụt rè và
thích ứng với môi trường còn chậm so với học sinh các vùng thuận lợi
khác.
Lần đầu các em tiếp xúc với các môn học, đặc biệt là môn Tiếng
việt 1 - CNGD về phần âm học sinh chưa biết chữ cái dẫn đến khó
ghép vần, bên cạnh đó còn có một số học sinh phát âm sai, phân tích
lúng túng, đối với luật chính tả không bắt nắm được, phần viết tốc độ
viết quá chậm. Vì vậy học sinh nhập tâm và ghi nhớ một cách máy
móc. Trong việc học tập của các em còn lúng túng, chưa phát huy hết
năng lực học tập.
Bước đầu học đọc, học viết, học cách phân biệt nguyên âm, phụ
âm, cách dùng mẫu, lập mẫu, luật chính tả, biết làm những nguyên âm
không tròn môi thành nguyên âm tròn môi, biết phân biệt âm đệm và
âm chính, âm chính và âm cuối, vần có đủ âm đệm, âm chính và âm
cuối, biết nguyên âm đôi, luật chính tả về nguyên âm đôi nên các em
còn nhiều bỡ ngỡ và tiếp thu kiến thức thật khó khăn, một số em chỉ
đọc vẹt chưa nắm vững các chữ cái. Với yêu cầu của phần âm, các em
phải đọc đúng âm, phải nắm bắt kiến thức một cách vững vàng, để
biến kiến thức đó thành kĩ năng, kĩ xảo trong phần âm, vần thì các em
mới học tốt được môn tiếng Việt.
Để thực hiện tốt chương trình này thì giáo viên cần phải xác định
rõ mục tiêu chương trình, giúp các em đọc thông, viết thạo, không tái
mù, các em nắm chắc luật chính tả, nắm chắc hệ thống ngữ âm của
Tiếng Việt.
Chính vì thế, vấn đề tôi đặt ra làm sao giúp cho học sinh phát
triển trí tuệ, tình cảm, yêu thích với mục đích giúp các em: mỗi ngày
đến trường là một ngày vui, tập cho các em tính mạnh dạn trong học
tập và khả năng sáng tạo để học tốt phần âm, giúp học sinh lớp 1 nắm
bắt được âm trong môn Tiếng việt 1- CNGD.
2/ Phạm vi đề tài:
- Đối tượng là 59 học sinh khối 1.
B. THỰC TRẠNG
Qua đợt kiểm tra khảo sát chất lượng tháng 10 năm học 2014 2015, về chất lượng của khối 1, cũng như qua quá trình theo dõi học
tập của học sinh, kết quả đạt được như sau:
TSHS
59
HS biết
HS biết
âm
ghép
11 HS
23 HS
HS biết phân tích, đọc trơn
25 HS
1. Đối với giáo viên:
a. Thuận lợi:
100 % Giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn.
Hầu hết giáo viên tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ, cơ bản được dự
giờ và học hỏi kinh nghiệm từ chuyên đề trường bạn, tham gia đầy đủ
các lớp tập huấn do ngành, nhà trường và cấp trên tổ chức.
Giáo viên nhiệt tình trong công tác, tận tụy với học sinh, luôn
tích cực tự học và sáng tạo trong giảng dạy.
Cơ sở vật chất thiết bị, sách giáo viên, SGK đầy đủ, phục vụ cho
công tác giảng dạy, trường lớp khang trang, thoáng mát, sạch sẽ đáp
ứng nhu cầu giảng dạy của giáo viên. Giáo viên không phải soạn bài
môn tiếng việt, tiết kiệm được thời gian để giáo viên nghiên cứu bài
dạy.
Tác phong sư phạm chững chạc, lời nói nhẹ nhàng dễ nghe,
luôn gần gũi giúp đỡ học sinh.
Về chương trình mới dạy ƯDCN – TV1 rất tốt cho việc triển
khai dạy học chương trình này tại đơn vị cụ thể là:
Việc sử dụng ký hiệu thay lời nói của giáo viên đỡ mất thời gian.
Quy trình đọc, đọc phân tích tiếng rất hiệu quả.
Quy trình hướng dẫn tập viết và viết chính tả rất kỹ.
b. Khó khăn:
Do bất đồng ngôn ngữ giữa giáo viên và học sinh.
Là năm đầu tiên áp dụng chương trình SGK mới nên giáo viên
cũng gặp khó khăn trong việc nghiên cứu nội dung bài dạy và việc
truyền đạt kiến thức trên lớp.
Giáo viên chưa chú trọng đến việc dạy học nhằm phát huy tính
tích cực lấy học sinh làm trung tâm ở môn Tiếng Việt 1 - CNGD. Hoạt
động dạy cho học sinh nhớ máy móc là chủ yếu.
Phần lớn giáo viên được phân công phụ trách khối lớp 1 kinh
nghiệm công tác còn ít vốn hiểu biết về văn hóa ở địa phương còn hạn
chế, trong tổ có một số giáo viên năm đầu tiên được phân công giảng
dạy lớp 1.
Khi tổ chức dạy học sinh ở phân môn này còn khô khan, lúng
túng chưa mang lại hiệu quả cao.
Chưa định hướng cách học cho học sinh nên khi tìm hiểu về âm
học sinh chưa có cách học chủ động, tích cực và sáng tạo.
Từ quá trình triển khai cũng thấy rằng có một số hạn chế của tài
liệu TV1- CNGD, theo thiết kế thực hiện, tài liệu có 2 điểm chưa phù
hợp: Thứ nhất, theo hướng dẫn thì trong quá trình tổ chức giảng dạy,
giáo viên không sử đụng đồ dùng dạy học. Điều này làm hạn chế kết
quả nhận thức của học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc. Thứ hai, chưa
có nhiều thời gian cho học sinh rèn kỹ năng nói, đọc nhiều ...
Khó khăn khi dạy luật chính tả: ví dụ như đọc âm c viết âm k
hoặc là yêu cầu học sinh làm tròn môi âm l học sinh đọc chưa theo
yêu cầu.
2. Đối với học sinh:
1. Thuận lợi:
Luôn được sự quan tâm và giúp đỡ của chính quyền địa phương
và các cấp lãnh đạo.
Điều kiện cơ sở vật chất: Có đầy đủ bàn ghế đạt chuẩn, phòng
học sáng sủa, sạch sẽ thoáng mát, ĐDDH, tủ, SGK, vở viết, được cấp
phát và trang bị đầy đủ.
Đa số gia đình các em tập trung ở 3 thôn, điểm thôn nào đều học
tại điểm đó thuận tiện cho việc đi học của các em.
2. Khó khăn:
93,6% HS đều là con em dân tộc thiểu số. Vốn tiếng việt của
các em còn hạn chế.
Bất đồng ngôn ngữ giữa giáo viên và học sinh nên trong quá
trình tiếp thu bài học sinh còn gặp khó khăn.
Các em từ trường Mầm non lên nên chưa thuộc hết bảng chữ cái,
chưa bắt nhịp được môi trường học tập mới. Các em còn rụt rè, chưa
đọc thông viết thạo.
Do đổi mới chương trình môn tiếng việt 1 công nghệ giáo dục
nên các em còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp thu chương trình
mới, các em chưa nắm bắt được ngữ âm và vần chưa định hình phân
tích được đâu là nguyên âm, đâu là phụ âm, không phân biệt được đâu
là âm đệm, đâu là âm chính, đâu là âm cuối, chương trình này còn quá
sức đối với các em là người dân tộc thiểu số, ngoài ra các em không
nắm được luật chính tả nên rất khó khăn trong việc dạy.
Khi học sinh thực hiện vẽ mô hình còn lúng túng chưa biết quy
tắc vẽ, chưa biết đưa âm đệm, âm chính, âm cuối vào mô hình, chưa
xác định rõ đâu là âm chính và đâu là âm cuối, và chưa nắm được vần
vì vấn đề nắm âm chưa chắc, học về luật chính tả các em chưa phân
biệt được luật chính tả về âm đệm, nguyên âm đôi, yêu cầu học sinh
viết bài vào vở thì bài quá dài mà học sinh còn viết quá chậm, Cách
cầm bút học sinh còn run, do đó có phần ảnh hưởng đến quá trình
giảng dạy cũng như học tập của học sinh. Ngay bài đầu tiên, nhiều học
sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết như dạng chính tả, ngoài ra
học sinh không biết chữ khó ghép âm, vần và phát âm sai nhiều dẫn
đến sai lỗi chính tả nhiều, lúc thì chữ, âm, tiếng, vần.
Trong quá trình học, các em còn phải phân biệt được tiếng có âm
đầu, tiếng có âm chính, tiếng có âm đệm, âm chính, tiếng có âm đệm,
âm cuối… Trước đây, học hết 9 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có
thể ghép chữ thành âm, tiếng, từ, học sinh chỉ đọc bài dài 15 tiếng.
Nay hết 9 tuần, học sinh đã phải đọc những bài dài tới 20 tiếng, mặc
dù các em biết tiếng luôn, nhưng chỉ là đọc vẹt theo giáo viên, nên
không viết được chữ. Với những lớp có học sinh yếu, giáo viên rất vất
vả và nguy cơ các em “mù chữ” luôn nếu chẳng may bị ốm phải nghỉ
một vài buổi học. Chưa kể đến việc khi giáo viên giao bài về nhà tập
đọc, học sinh thấy bài quá dài, không có bạn bè đọc cùng cho khí thế
nên “ngại” không muốn đọc, do đó ngày càng yếu, kém.
Đa số gia đình các em hoàn cảnh, cuộc sống còn khó khăn nên
ảnh hưởng đến một phần học tập của các em.
Hầu hết các em chưa có góc học tập ở nhà.
Trước những tồn tại và thực trạng nêu trên, tôi đã mạnh dặn viết
lên skkn của bản thân về “ Phương pháp dạy học phần âm trong môn
Tiếng việt 1 – Công nghệ giáo dục”.
C. CÁC GIẢI PHÁP:
1. Mục tiêu chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD Học xong chương trình
Tiếng Việt lớp 1-CGD học sinh đạt được các mục đích sau:
1. 1. Các em đọc thông, viết thạo, không tái mù.
1.2. Các em nắm chắc luật chính tả.
1.3. Các em nắm chắc hệ thống cấu trúc ngữ âm Tiếng Việt.
2. Đối tượng chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD Đối tượng của môn
Tiếng Việt lớp1- CGD chính là cấu trúc ngữ âm của tiếng Việt bao gồm :
- Tiếng
- Âm và chữ
- Vần
3.Nội dung chương trình chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD ( gồm 4
bài)
3.1. Bài 1: Tiếng
3.2. Bài 2: Âm
3.3. Bài 3: Vần
3.4.Bài 4: Nguyên âm đôi
4. Phương pháp dạy chương trình Tiếng Việt lớp 1- CGD
4.1. Phương pháp mẫu:
-Lập mẫu, sử dụng mẫu.
-Làm mẫu tổ chức học sinh làm theo mẫu đã có.
4.2. Phương pháp làm việc:
- Tổ chức việc học của trẻ em thông qua những việc làm cụ thể và những
thao tác chuẩn xác do các em tự làm lấy.
II.Phần cụ thể - phần âm
1. Mục tiêu phần âm
- HS nắm chắc 38 âm vị của Tiếng Việt cũng như cách viết của các âm vị
này.
- Biết phân biệt nguyên âm, phụ âm qua phát âm dựa vào luồng hơi bị
cản hay luồng hơi đi ra tự do.
- Biết ghép phụ âm đầu với nguyên âm tạo thành tiếng có thanh ngang,
ghép tiếng có thanh ngang với các dấu thanh tạo thành tiếng khác nhau.
- Biết phân tích tiếng thanh ngang thành 2 phần : phần đầu và phần vần,
phân tích tiếng có dấu thanh thành tiếng thanh ngang và dấu thanh (cơ
chế tách đôi).
- Đọc trơn, rõ ràng đoạn văn có độ dài 20 tiếng. Tốc độ đọc tối thiểu là
10 tiếng / phút.
- Nghe viết chính tả được tất cả các tiếng có vần chỉ có âm chính. Viết
đúng kiểu chữ thường cỡ nhỡ. Tốc độ tối thiểu là 3 phút/ một tiếng.
- Nắm chắc cấu tạo của tiếng gồm 3 bộ phận cấu thành: Thanh, âm đầu,
vần (vần chỉ có âm chính).
- Nắm chắc luật chính tả e,ê,i.
2. Quy trình dạy phần âm:
Bài âm gồm hai công đoạn:
a) Công đoạn 1: Lập mẫu ( Mẫu /ba/ - Phân biệt nguyên âm, phụ âm)
Mục đích, yêu cầu : Làm theo đúng Quy trình 4 việc , thực thi chuẩn xác
từng thao tác, làm ra sản phẩn chuẩn xác, xứng đáng là mẫu chuẩn mực
cho tất cả các tiết học của bài.
b) Công đoạn 2: Dùng mẫu( Áp dụng cho tất cả các bài còn lại của phần
âm) ( Quy trình giống quy trình tiết lập mẫu) .
Tuy nhiên cần chú ý :
+ Mục đích của tiết dùng mẫu là:
- Vận dụng quy trình từ tiết lập mẫu.
- Luyện tập với vật liệu khác trên cùng một chất liệu với tiết lập mẫu.
+Yêu cầu giáo viên trong tiết dùng mẫu:
- Nắm chắc quy trình từ tiết lập mẫu.
- Chủ động linh hoạt trong quá trình tổ chức tiết học sao chu phù hợp với
học sinh lớp mình.
* Để giúp học sinh lớp 1 nắm vững được âm trong tiếng việt 1,
trước hết giáo viên cần nắm được:
Giúp học sinh nắm vững được từng âm, giáo viên cần chú ý 2
vấn đề then chốt:
Yêu cầu đối với học sinh là thuộc bảng chữ cái một cách thành
thạo.
Nắm được kĩ năng về các âm trong tiếng việt 1, biết phân biệt
nguyên âm và phụ âm, biết cách lập mẫu và dùng mẫu, phân tích âm,
tiếng, đọc được theo các mức độ to – nhỏ - nhẩm - thầm theo lệnh và
ký hiệu của giáo viên. Biết phân biệt đâu là âm đệm, âm chính và đâu
là âm cuối, học về luật chính tả biết phân biệt được luật chính tả về âm
đệm, nguyên âm đôi.
Tình trạng các em đọc vẹt nhiều, muốn khắc phục những hạn
chế này. Vụ Giáo dục Tiểu học hướng dẫn như sau: giáo viên nên tận
dụng đồ dùng dạy học của chương trình hiện hành, làm thêm đồ dùng
dạy học và chủ động sắp xếp thời gian rèn luyện kỹ năng nói, đọc cho
học sinh.
Để giải quyết được hai vấn đề nêu trên, giáo viên phải nắm vững
vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu dạy âm….. trong môn tiếng việt 1.
Giáo viên phải hiểu rõ khả năng nhận thức cũng như các đặc
điểm của quá trình nhận thức của trẻ em. Bởi vì khả năng nhận thức
của học sinh Tiểu học đang hình thành và phát triển theo từng giai
đoạn có quy luật riêng, người giáo viên tiểu học cần phải hiểu trẻ em
với đầy đủ nghĩa của nó, mới có thể tiến hành dạy phần âm đạt hiệu
quả được.
** Dựa vào thực trạng của giáo viên và học sinh để đưa ra giải
pháp phù hợp với đặc trưng môn TV1- CNGD được thể hiện qua
2 tiết dạy với 4 việc.
Việc 1: Chiếm lĩnh ngữ âm.
1a. T giới thiệu âm mới .
1b. Phân tích tiếng .
1c. Vẽ mô hình .
Việc 2: Viết chữ ghi âm
2a. Giới thiệu chữ in thường.
2b. Giới thiệu chữ viết thường.
2c. Viết tiếng có âm mới học
2d. Hướng dẫn H viết vở “Em tập viết – CNGD lớp 1” .
Việc 3: Đọc.
3a. Đọc chữ trên bảng lớp.
3b. Đọc sách “Tiếng Việt – CNGD lớp 1”
Việc 4: Viết chính tả.
4a. Viết bảng con.
4b. Viết vở chính tả.
*** Giải pháp:
Tác phong lời nói, cử chỉ, điệu bộ của giáo viên cần phải chuẩn
mực, thân thiện.
Quy trình 4 việc cần phải thực hiện theo trình tự.
+ Câu lệnh của giáo viên cần phải dứt khoát, rõ ràng. Học sinh
thực hiện theo đúng yêu cầu của giáo viên hoạt động giữa GV- HS cần
diễn ra nhịp nhàng.
+ Các hoạt động của lớp cần phải thực hiện theo “ký hiệu” trên
bảng hoặc ký hiệu bằng tay của giáo viên. Giáo viên không phải nói
nhiều mà phải ưu tiên các hoạt động cho học sinh.
+ Giáo viên cần phải thuộc các việc cơ bản ở mỗi bài.
+ Cần phải nhẹ nhàng, thân thiện và linh hoạt trong tổ chức các
hoạt động ở từng việc.
+ Quan tâm tới các em học sinh có nhận thức chậm trong lớp.
+ Tiết học buổi 2 giáo viên cần phải xác định được nội dung cần
ôn tập chú ý về các kỹ năng cần củng cố phù hợp với từng đối tượng
học sinh nhằm giúp các em nắm được bài tốt hơn.
+ Dạy đâu chắc đó, học sinh phải nắm được bài, không để học
sinh ngoài lề lớp học.
Cần dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, phân hóa đối tượng
học sinh, cần đạt chuẩn ở mức độ thấp nhất như: học sinh tiếp thu bài
kém….
Dạy học không cần viết tên bài trước, lập xong mô hình mới viết
ở bảng, cần phải tuân thủ dạy theo sách thiết kế, có thể linh hoạt lồng
ghép.
Khen học sinh nhiều, không nên chê bai, nhắc nhở cho học sinh
tiến bộ.
Khi dạy không nên trở về cái cũ, mỗi ngày chỉ thay đổi một
thành phần, khi giao việc giáo viên phải đứng trước lớp – học sinh làm
việc giáo viên xuống lớp kiểm tra khen học sinh.
Dạy lớp 1 dạy tiếng không dạy từ, không nên đưa những gì có
sẵn cho học sinh khi đến lớp.
Ở sách giáo khoa không nên gọi là kênh hình, kênh chữ.
Chương trình này không yêu cầu chấm điểm, mà chỉ nhận xét
đánh giá học sinh, động viên, khen thưởng học sinh.
2. Phân loại đối tượng học sinh:
Chuẩn bị nghiên cứu kỹ phần kế hoạch dạy học là việc làm
không thể thiếu đối với bất cứ giáo viên nào khi đứng lớp, tuy nhiên
giáo viên cần phải nghiên cứu, nắm vững mục tiêu bài dạy, bám sát
vào Phân phối chương trình, lịch báo giảng. Đặt ra các hoạt động hợp
lí thể hiện rõ hoạt động của giáo viên - học sinh, có hoạt động cho đối
tượng học sinh nắm bài tốt và học sinh chưa nắm được bài.
Phân loại đối tượng học sinh theo nhóm và đặt tên nhóm khi tổ
chức trò chơi.
Sắp xếp chỗ ngồi của học sinh trong lớp hợp lí.
Quan tâm khích lệ học sinh thường xuyên, tạo cơ hội để học sinh
được chủ động tích cực thông qua giờ học và thực hành.
3. Giúp học sinh học tốt về âm.
Có thể nói môn Tiếng Việt 1 CNGD là một môn học mới giúp
học sinh nắm bắt được ngữ âm trong Tiếng Việt, trong phần âm là
công cụ hỗ trợ đắc lực và không thể thiếu chiếm tỉ lệ trọng yếu khi học
môn Tiếng Việt. Vậy học sinh cần phải thuộc tất cả các chữ cái bảng
chữ cái, thì các em mới ghép và đọc được âm, vần, tiếng, từ câu, ngoài
ra tạo cơ hội cho học sinh có khẳ năng tư duy sáng tạo trong các tiết
học, lấy học sinh làm trung tâm, các em sẽ là người chủ động trong
các tiết học như đọc trơn, đọc hay, phân tích tốt.
Bài đọc trong sách giáo khoa yêu cầu cần đạt chuẩn trang bên
trái trước mà học sinh cần đạt, còn trang bên phải chỉ dành cho đối
tượng học sinh nắm bài tốt và nhanh hơn, có thể lựa chọn 1 đoạn theo
yêu cầu phù hợp với đối tượng học sinh để cho học sinh đọc không
nhất thiết phải cho học sinh đọc cả bài. Cần bám chuẩn chương trình
cụ thể: cuối học kỳ I bài đọc 20 tiếng, bài viết 1 tiếng/ phút.
Học tốt tâm thế học tốt đó là 2 tuần đầu (tuần 0) cụ thể là rèn nề
nếp, cách học tập, dạy gì, nghe nhận nhiệm vụ ví dụ: nói, nhe, đọc, tư
thế đứng, giáo viên ghi ký hiệu trong quy trình dạy, nhưng giáo viên
thực hiện có hiệu quả, lệnh giáo viên ye6uu cầu học sinh cất bảng,
sách giáo khoa, vở viết như thế nào cho gọn và nhanh, tốt.
Trong chương trình này giáo viên cần dạy kỹ 12 tiết bài tiếng.
Còn dạy bài âm đối với học sinh không cần học qua lớp Mẫu giáo,
trong tập 1 gồm có 9 tuần dạy về phần âm (lưu ý phần âm mẫu 3 là
quan trọng nhất. Ví dụ: có thể học sinh đọc lại cho cô viêt, giáo viên
hỏi luyện cho học sinh viết, giáo viên viết nguyên âm, phụ âm vào bìa
rô ky cho học sinh đọc trước khi vào lớp, ôn hàng ngày, để học sinh
thuộc lòng.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học bám sát yêu cầu bài dạy, hệ thống câu
hỏi phải rõ ý, chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu.
Do vậy khi dạy về phần âm giáo viên phải thực hiện được theo 4
việc thì học sinh sẽ học được cách làm việc theo trí óc, khi thực hiện
được theo 4 việc giáo viên có thể huấn luyện kĩ năng viết cho học sinh
theo 4 mức độ: to, nhỏ, nhẩm, ngậm. Viết được, viết đúng, viết đẹp,
viết nhanh, học đâu chắc đó.
* Lưu ý: đọc phân tích để “kiểm tra” đọc trơn. Đọc trơn để
“thẩm định” đọc phân tích.
Ví dụ:
*Bài Âm /e/ là tiết dùng mẫu
Việc 1: Chiếm lĩnh ngữ âm
Mục đích: HS phát âm tiếng chứa âm mới, nhận ra âm mới là nguyên âm
hay phụ âm, vẽ được mô hình phân tích tiếng có âm mới.
1.1. Giới thiệu âm mới
- GV đưa ra tiếng chứa âm mới /đe/ và yêu cầu HS phát âm lại theo 4
mức độ T- N- N- T.
1.2. Phân tích tiếng
- GV yêu cầu HS phân tích tiếng /đe/ ( kết hợp vỗ tay) để biết phần đầu
là âm /đ/ và phần vần là âm / e/ .
- GV cho HS phát âm lại âm /e/, nhận xét luồng hơi đi ra như thế nào?
- HS nhận xét luồng hơi đi ra tự do nên /e/ là nguyên âm.
- Cho HS nhắc lại: /e/ là nguyên âm theo 4 mức độ T- N- N- T.
1.3. Vẽ mô hình
- GV vẽ và yêu cầu HS vẽ mô hình hai phần tiếng /đe/, đọc /đe/.
- GV yêu cầu HS viết âm /đ/ vào phần đầu của mô hình và nhắc lại /đ/ là
phụ âm.
- HS chỉ tay vào phần vần âm /e/ chưa biết chữ còn bỏ trống đọc /e/ là
nguyên âm.
Việc 2: Học viết chữ ghi âm
Mục đích:
- HS nắm được cấu tạo chữ e in thường và chữ e viết thường.
- HS nắm được quy trình và viết được chữ e viết thường cỡ nhỡ, viết
được các tiếng có âm /e/. 2.1. Giới thiệu cách ghi âm bằng chữ in
thường.
- GV giới thiệu chữ e in thường. ( dùng chữ mẫu hoặc viết mẫu lên
bảng, mô tả cấu tạo chữ e để HS nhận biết khi đọc bài.)
2.2. Hướng dẫn viết chữ e viết thường.
- GV đưa ra chữ mẫu hoặc viết mẫu, hướng dẫn điểm chấm điểm tọa độ
và quy trình viết.
- HS luyện viết vào bảng con chữ e viết thường.
2.3. Viết tiếng có âm vừa học.
- GV yêu cầu HS đưa tiếng /đe/ vào mô hình, thay các phụ âm đầu d, ch,
c, b để tạo tiếng mới mỗi lần thay đều phân tích kết hợp với tay.( HS ghi
vào bảng)
- GV yêu cầu HS thay dấu thanh vào tiếng /đe/ tạo tiếng mới mỗi lần
thay đều phân tích kết hợp với tay. ( HS ghi vào bảng)
* Chú ý:
GV hương dẫn học sinh các nét nối và vị trí đánh dấu thanh của tiếng.
d/Hướng dẫn viết vở Em tập viết.
- GV hướng dẫn cách tô chữ e và khoảng cách giữa các chữ theo điểm
chấm tọa độ trong vở, nét nối giữa các con chữ b,e, khoảng cách giữa các
tiếng trong một từ “ da dẻ”.
- GV kiểm soát quá trình viết của học sinh và chấm bài.
Việc 3: Đọc
Mục đích: HS đọc trôi chảy từ mô hình tiếng đến âm, tiếng từ, câu trong
bài.
a/ Đọc trên bảng
- Phần này giáo viên linh động chọn âm , tiếng luyện tùy vào đối tượng
trong lớp mình.
- Đọc từ dễ đến khó, từ tiếng có thanh ngang đến các tiếng có dấu thanh
(đe,đè, đé, đẻ, đẽ, đẹ), rồi đến ( bè, dẻ , chè).
b/ Đọc trong sách giáo khoa( Đọc từ trên xuống, từ trái sang phải).
* Chú ý: sử dụng nhiều hình thức đọc ( nhóm, cá nhân, cả lớp), các mức
độ đọc ( T- N- N- T)
Việc 4: Viết chính tả:
Mục đích: HS viết đúng chính tả các chữ ghi tiếng chè,be bé, e dè…