Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

“Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng bón đạm đến khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất giống lúa Nhị ưu 838 vụ xuân 2016 tại xã Cán Khê, huyện Như Thanh, Tỉnh Thanh Hóa”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.8 KB, 37 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp vừa qua, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản
thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô
giáo, bạn bè, người thân và các cơ quan đơn vị.
Qua thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học đã giúp tôi không những bổ sung
kinh nghiệm mà còn cho tôi làm quen dần với thực tế sản xuất. Có được thành công
đó, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo, ThS. Lê Hữu Cơ, với
tư cách là người trực tiếp hướng dẫn, thầy đã giành nhiều thời gian quý báu, tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới Ban giám hiệu Trường Đại Học
Hồng Đức, Ban chủ nhiệm Khoa Nông Lâm Ngư Nghiệp, cùng các thầy giáo cô
giáo trong khoa đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu
của mình.
Tuy nhiên do thời gian không có nhiều, với kinh nghiệm và tầm nhìn còn hạn
chế nên báo cáo thực tập không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được
sự góp ý chân thành của giáo viên hướng dẫn và các thầy cô giáo trong khoa, cùng
toàn thể các bạn trong lớp ĐH Nông học Thiệu Hóa - Trường Đại Học Hồng Đức
để tôi khắc phục được những hạn chế của mình, đúc kết thêm kinh nghiệm trong
học tập, cũng như sau này ra trường công tác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hoá, tháng 06 năm 2016
Sinh viên

Lê Viết Hương

2




PHẦN 1
LỜI MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Lúa là cây trồng thân thiết, lâu đời nhất của nhân dân ta và nhiều dân tộc khác
trên thế giới, đặc biệt là các dân tộc ở Châu Á. Lúa gạo là lương thực chính của
người dân Châu Á, giống như bắp của dân Nam Mỹ, hạt kê của dân Châu Phi hoặc
lúa mì của Châu Âu và Bắc Mỹ. Tuy nhiên có thể nói, trên khắp thế giới ở đâu cũng
dùng đến lúa gạo hoặc các sản phẩm từ lúa gạo. Khoảng 40% dân số thế giới lấy lúa
gạo làm nguồn lương thực chính. Trên thế giới có hơn 110 quốc gia có sản xuất và
tiêu thụ gạo với các mức độ khác nhau [13].
Việt Nam là nước có truyền thống canh tác lúa nước từ lâu đời, với diện tích
lúa khá lớn, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nghề trồng lúa của nước
ta có nhiều thay đổi tích cực. Từ một nước thiếu đói lương thực thường xuyên, đến
nay sản lượng lúa gạo của chúng ta không những đáp ứng đủ nhu cầu lương thực ở
trong nước mà còn dư để xuất khẩu. Tuy nhiên, trong điều kiện canh tác hiện nay,
nghề trồng lúa vẫn chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân. Nông
dân vẫn sử dụng nhiều phân bón để tăng năng suất. Nhưng hiệu quả của nó lại
không cao, mặt khác còn làm tăng mức độ sâu bệnh, gây ô nhiễm môi trường...
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, đạm có vai trò rất quan trọng trong việc
phát huy hiệu quả của việc sử dụng phân bón cho cây trồng. Các loại phân khác chỉ
phát huy tác dụng khi có đủ đạm hay bón cân đối đạm theo nhu cầu của cây. Vì vậy
khi xác định các loại phân bón khác cần trên cơ sở lượng đạm bón. Nếu chưa tăng
được lượng phân đạm bón thì chưa lên tăng các loại phân bón khác [18].
Ở Thanh Hóa, nghề trồng lúa vẫn là nghề chính của nông dân. Hiện nay,
trong cơ cấu giống lúa có hai xu hướng chủ yếu. Nông dân trồng cả lúa lai và lúa
chất lượng. Mặt khác, mỗi giống lúa trên mỗi vùng sinh thái yêu cầu từng loại phân
bón khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu lượng đạm bón phù hợp sẽ có ý nghĩa quan
3



trọng trong việc nâng cao hiệu quả phân bón, tăng năng suất, chất lượng và mang
lại hiệu quả kinh tế cho người dân. Với mục đích đó, chúng tôi tiến hành thực hiện
đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng bón đạm đến khả năng sinh
trưởng, phát triển và năng suất giống lúa Nhị ưu 838 vụ xuân 2016 tại xã Cán
Khê, huyện Như Thanh, Tỉnh Thanh Hóa”.
1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
- Xác định được liều lượng bón đạm thích hợp giúp cho cây lúa sinh trưởng,
phát triển tốt và có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, đạt năng suất cao.
1.2.2. Yêu cầu cần đạt
- Xác định được ảnh hưởng của liều lượng bón đạm đến các chỉ tiêu sinh
trưởng của giống Nhị ưu 838.
- Đánh giá được ảnh hưởng của liều lượng bón đạm đến tình hình phát sinh
phát triển bệnh hại và khả năng chống chịu bệnh hại của giống Nhị ưu 838.
- Đánh giá được ảnh hưởng của liều lượng bón đạm khác nhau đến các yếu
tố tạo thành năng suất và năng suất của giống Nhị ưu 838.
- Đánh giá được hiệu quả kinh tế của việc bón phân đạm cho giống Nhị ưu
838.
1.3. Ý nghĩa khoa học – ý nghĩa thực tiễn
1.3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học
Đánh giá và xây dựng cơ sở khoa học cho việc bón đạm trong sản xuất lúa.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần khẳng định và làm rõ thêm lý luận về vai
trò quan trọng của đạm và góp phần hoàn thiện quy trình bón phân cho lúa.
1.3.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ chỉ ra ảnh hưởng của đạm đến sinh trưởng, phát triển
khả năng chống chịu một số loại sâu bệnh hại chính và năng suất của giống Nhị ưu
838, từ đó tạo cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn để hoàn thiện quy trình thâm canh
tăng năng suất của giống Nhị ưu 838 nói riêng và cây lúa nói chung.

4


PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trên thế giới và ở Việt
Nam
Cây lúa có nguồn gốc nhiệt đới, dễ trồng, cho năng suất cao. Hiện nay, trên
thế giới có khoảng trên 100 nước trồng lúa.
Diện tích trồng lúa trên thế giới đã tăng rõ rệt từ năm 1955 đến 1980. Từ năm
2000 trở đi diện tích trồng lúa thế giới có nhiều biến động và có xu hướng giảm
dần, đến năm 2005 còn ở mức 152,9 triệu ha. Diện tích trồng lúa tập trung ở Châu
Á (khoảng 90%). Việt Nam đứng thứ 6 trước Myanmar.
Năng suất bình quân lúa trên thế giới cũng tăng khoảng 1,3 tấn/ha trong vòng
30 năm từ năm 1955 đến năm 1985, đặc biệt là sau cuộc cách mạng xanh của thế
giới vào những năm 1965 - 1970, với sự ra đời của các giống lúa thấp cây, ngắn
ngày, không cảm quang, mà tiêu biểu là các giống lúa IR5, IR8.
Các quốc gia dẫn đầu về sản lượng lúa theo thứ tự là Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Bangladesh, Việt Nam, Thái Lan và Myanmar, tất cả đều nằm ở Châu Á.
Với điều kiện khí hậu nhiệt đới, Việt Nam cũng có thế là cái nôi hình thành
cây lúa nước. Đã từ lâu, cây lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu, có ý nghĩa
đáng kể trong nền kinh tế và xã hội của nước ta. Với địa bàn trài dài trên 15 vĩ độ
Bắc bán cầu, từ Bắc vào Nam đã hình thành những đồng bằng châu thổ trồng lúa
phì nhiêu, không những cung cấp đủ nguồn lương thực cho gần 90 triệu dân mà còn
xuất khẩu đứng thứ hai sau Thái Lan.
2.2. Đặc điểm sinh lý của cây lúa
Đời sống cây lúa bắt đầu từ lúc hạt nảy mầm cho đến khi lúa chín có thể chia
làm ba giai đoạn chính: giai đoạn tăng trưởng (sinh trưởng dinh dưỡng), giai đoạn
sinh sản (sinh dục) và giai đoạn chín.
Giai đoạn tăng trưởng bắt đầu từ khi hạt nảy mầm đến khi cây lúa phân hoá

đòng. Giai đoạn này cây phát triển về thân lá, chiều cao tăng dần và ra nhiều chồi
5


mới. Cây ra lá ngày càng nhiều và kích thước lá ngày càng tăng giúp cây lúa nhận
nhiều ánh sáng mặt trời để quang hợp, hấp thụ dinh dưỡng, gia tăng chiều cao, nở
bụi và chuẩn bị các giai đoạn sau.
Giai đoạn sinh sản từ phân hoá đòng đến lúa trổ bông. Trong giai đoạn này,
nếu đầy đủ dinh dưỡng, mực nước thích hợp, ánh sáng nhiều, không sâu bệnh và
thời tiết thuận lợi thì bông lúa sẽ hình thành nhiều hơn và vỏ trấu sẽ đạt được kích
thước lớn nhất của giống, tạo điều kiện gia tăng khối lượng hạt sau này.
Giai đoạn chín từ lúc lúa trổ bông đến lúc thu hoạch. Giai đoạn này cây lúa
trải qua các thời kỳ chín sữa, thời kỳ chín sáp, thời kỳ chín vàng, thời kỳ chín hoàn
toàn.
Yêu cầu dinh dưỡng đạm của cây lúa.
Đạm là một yếu tố dinh dưỡng quan trọng, quyết định sự sinh trưởng và phát
triển của cây trồng. đạm là một trong những nguyên tố cơ bản của cây trồng, là
thành phần cơ bản của axit amin, axit nucleotit và diệp lục. Trong thành phần chất
khô của cây có chứa từ 0,5 - 6% đạm tổng số. Hàm lượng đạm trong lá liên quan
chặt chẽ với cường độ quang hợp và sản sinh lượng sinh khối. đối với cây lúa thì
đạm lại càng quan trọng hơn, nó có tác dụng trong việc hình thành bộ rễ; thúc đẩy
nhanh quá trình đẻ nhánh và sự phát triển thân lá của lúa dẫn đến làm tăng năng suất
lúa. Do vậy, đạm góp phần thúc đẩy sinh trưởng nhanh (chiều cao, số dảnh) và tăng
kích thước lá, số hạt, tỷ lệ hạt chắc và tăng hàm lượng protein trong hạt. đạm ảnh
hưởng đến tất cả các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển, các yếu tố cấu thành năng suất
và năng suất lúa.
Đạm ảnh lớn đến hình thành đòng và bông lúa sau này, sự hình thành số hạt
trên bông, tỷ lệ hạt chắc, trọng lượng nghìn hạt ...
Lúa là cây trồng rất mẫn cảm với việc bón đạm. Nếu giai đoạn đẻ nhánh mà
thiếu đạm sẽ làm năng suất lúa giảm do đẻ nhánh ít, dẫn đến số bông ít. Nếu bón

không đủ đạm sẽ làm thấp cây, đẻ nhánh kém, phiến lá nhỏ, lá có thể biến thành
màu vàng, bông đòng nhỏ, từ đó làm cho năng suất lúa giảm. Nhưng nếu bón thừa
6


đạm làm cho cây lúa có lá to, dài, phiến lá mỏng, dễ bị sâu bệnh; ngoài ra chiều cao
phát triển mạnh, dễ bị đổ, nhánh vô hiệu nhiều, trỗ muộn, năng suất giảm. Khi cây
lúa được bón đủ đạm thì nhu cầu tất cả các chất dinh dưỡng khác như lân và kali
đều tăng. Theo Bùi Huy Đáp [11], đạm là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng suất
lúa, cây có đủ đạm thì các yếu tố khác mới phát huy tác dụng.
Lúa lai có đặc tính đẻ nhiều và đẻ tập trung hơn lúa thuần. Do đó yêu cầu
dinh dưỡng đạm của lúa lai nhiều hơn lúa thuần. Khả năng hút đạm của lúa lai ở
các giai đoạn khác nhau là khác nhau. Theo Phạm Văn Cường , 2003, 2005 [6],
trong giai đoạn từ đẻ nhánh đến đẻ nhánh rộ, hàm lượng đạm trong thân lá luôn cao
sau đó giảm dần. Như vậy, cần bón đạm tập trung vào giai đoạn này. Tuy nhiên
thời kỳ hút đạm mạnh nhất của lúa lai là từ đẻ nhánh rộ đến làm đòng. Mồi ngày
lúa lai hút 3,52 kgN/ha chiếm 34,69% tổng lượng hút. Tiếp đến là từ giai đoạn đẻ
nhánh đến đẻ nhánh rộ, mỗi ngày hút 2,74 kgN/ha chiếm 26,82% tổng lượng hút.
Do đó bón lót và bón tập trung vào thời kỳ đẻ nhánh là rất cần thiết.
2.3. Những nghiên cứu về bón phân đạm cho cây lúa
2.3.1. Vai trò của đạm với đời sống cây lúa
Không dùng hoặc ít dùng phân hoá học cho cây trồng chúng ta sẽ bị đói.
Trung Quốc so sánh năm 1993 với năm 1965 năng suất ngũ cốc tăng 2,58 lần, sản
lượng tăng 2,3 lần. Một trong những nguyên nhân làm biến đổi năng suất là nhờ
lượng phân hoá học (NPK) tăng nhanh, tăng 21,8 lần so với năm 1965 (Xie, 1995).
Với cây lúa, bất kỳ lúa nước hay lúa trồng trên cạn, muốn só năng suất cao
cần có nguồn dinh dưỡng rất lớn. Theo GS - TS Mai Văn Quyền tổng kết kinh
nghiệm trên 60 thí nghiệm khác nhau được tiến hành trên 40 nước có khí hậu khác
nhau cho thấy: Nếu đạt 3 tấn thóc/ha, lúa lấy đi hết 50 kg N, 26kg P 2O5, 80kg
K2O, 10kg Ca, 6kg Mg, 5kg S. Và nếu ruộng lúa đạt năng suất 6 tấn/ha thì lượng

dinh dưỡng cây lúa lấy đi là 100kg N, 50kg P 2O5, 160kg K2O, 19kg Ca, 12kg
Mg, 10kg S (Nguồn FIAC, do FAO Rome dẫn trong Fertilizes and Their use
lần thứ 5.
7


Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Việt Nam đã sử dụng phân bón vô cơ trong
nông nghiệp. Đặc biệt trong những năm gần đây, có rất nhiều giống lúa lai được đưa
vào sử dụng, có khả năng chịu phân rất tốt, là tiền đề cho việc thâm canh cao, nhằm
không ngừng tăng năng suất lúa. Đối với cây lúa, đạm là yếu tố dinh dưỡng quan
trọng nhất, nó giữ vai trò quan trọng trong tăng năng suất.
Theo Nguyễn Như Hà, 2005 [16], nhu cầu về đạm của cây lúa có tính chất
liên tục trong suốt thời gian sinh trưởng của cây. Hàm lượng đạm trong cây và sự
tích luỹ đạm qua các giai đoạn phát triển của cây lúa cũng tăng rõ rệt khi tăng liều
lượng đạm bón. Nhưng nếu quá lạm dụng đạm thì cây trồng phát triển mạnh, lá to,
dài, phiến lá mỏng, tăng số nhánh đẻ vô hiệu, trỗ muộn, đồng thời dễ bị lốp đổ và
nhiễm sâu bệnh, làm giảm năng suất. Ngược lại thiếu đạm cây lúa còi cọc, đẻ
nhánh kém, phiến lá nhỏ, trỗ sớm. Hiệu lực của đạm còn phụ thuộc vào các yếu tố
dinh dưỡng khác. Thông thường các giống lúa có tiềm năng năng suất cao bao giờ
cũng cần lượng đạm cao; dinh dưỡng càng đầy đủ thì càng phát huy được tiềm
năng năng suất.
Theo De Datta S.K cho rằng, đạm là yếu tố hạn chế năng suất lúa có tưới.
Như vậy, để tăng năng suất lúa nước, cần tạo điều kiện cho cây lúa hút được nhiều
đạm. Sự hút đạm của cây lúa không phụ thuộc vào nồng độ đạm xung quanh rễ mà
được quyết định bởi nhu cầu đạm của cây.
Để nâng cao hiệu quả bón đạm thì phương pháp bón cũng rất quan trọng.
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì khi bón đạm vãi trên mặt ruộng sẽ gây mất đạm tới
50% do nhiều con đường khác nhau do rửa trôi, bay hơi, ngấm sâu hay do phản
đạm hoá [7], [9], [19].
Theo Bùi Huy Đáp, 1980 [11], khi bón vãi đạm trên mặt ruộng lúa ở đất nhẹ, sau

15 ngày mất 50% lượng đạm, còn đất thịt sau một tháng mất 40% lượng đạm.
Theo Nguyễn Như Hà, 1999 [15], khi bón đạm ta nên bón sớm, bón tập trung
toàn bộ hoặc 5/6 tổng lượng đạm cần bón, bón lót sâu vừa có tác dụng tránh mất
đạm, lại vừa tăng tính chống lốp đổ cho lúa do bộ rễ cây phát triển mạnh. Cũng
theo Nguyễn Như Hà, nên bón kết hợp giữa phân vô cơ và phân hữu cơ mà cụ thể
8


là phân chuồng [15], [16].
Như vậy, những thông tin cho thấy cây lúa rất cần dinh dưỡng mới tạo được
năng suất cao. Do vậy, bón phân cho lúa để tăng năng suất, phẩm chất là một nhu
cầu tất yếu.
2.3.2. Quá trình chuyển hoá đạm trong đất lúa và cân bằng đạm
Đất lúa nước phân hoá lớp đế cày thành hai bộ phận có ranh giới rõ ràng:
tầng oxy hoá là lớp đất trên cùng của tầng canh tác dày từ vài mm đến 1cm, mà ở
đó vi sinh vật tồn tại trong điều kiện hảo khí, do lớp nước ở mặt ruộng lúa được
giàu oxy nhờ quang hợp của những thực vật thuỷ sinh sống trong ruộng lúa và nhờ
tiếp xúc với không khí, còn dưới đó là tầng khử nơi vi sinh vật tồn tại ở điều kiện
yếm khí.
Bón đạm hợp lý nhất là bón vùi ở độ sâu 5-10 cm vào tầng khử của đất lúa, ở
đây đạm được các keo đất giữ và cung cấp dần cho cây lúa mà không bị nitrat hoá
nên làm giảm mất đạm rất nhiều, nâng cao được hiệu quả sử dụng phân bón. Tuy
nhiên biện pháp này chỉ thích hợp với lần bón lót trước khi cày bừa lần cuối.
Không nên bón lót trước khi cày lần đầu ví đất chưa đủ mức độ khử để ngăn chặn
quá trình nitrat hoá. Ruộng sau khi bón phân phải được giữ ngập nước 3-5 cm để
giảm sự mất đạm và ức chế cỏ dại. Sau khi cấy lúa cũng có thể bón phân sâu, bằng
cách dúi phân giữa các khóm lúa, nhưng sẽ phải tốn thêm công.
Mất đạm khi bón vãi trên mặt ruộng lúa, do đạm amon (nếu bón ure cũng
chuyển hoá thành amon) được bón vào tầng oxy hoá bị các vi khuẩn nitrat hoá
thành NO3. Nitrat không bị keo đất giữ lại, bị rửa trôi xuống tầng khử oxy ở dưới

rồi tham gia vào quá trình phản đạm hoá do các vi sinh vật sống trong điều kiện
yếm khí, có đủ chất khử, chúng khử NO 3 → NO2 → NO → N2O → N2. Phản ứng
có thể dừng ở bất kỳ giai đoạn nào và dẫn đến việc mất đạm bay vào không khí.
* Quá trình cân bằng đạm trong đất lúa
2.3.2.1. Nguồn thu:
9


+ Do nước mưa: Theo Bùi Huy Đáp [12], ruộng lúa nước nhiệt đới trong
mùa mưa còn nhận được từ những trận mưa giông có sấm sét một lượng đạm đáng
kể do nước mưa đưa xuống. Đo mưa và phân tích nước mưa ở Việt Nam cho thấy,
một năm một hecta ruộng lúa nước có thể thu thêm được 15 - 20 kg N do sấm sét
tạo ra và nước mưa đưa xuống. Ngoài ra một số loại tảo xanh lam sinh sống tự
nhiên ở ruộng lúa nước cũng có khả năng cố định đạm tự do của khí trời. đất ruộng
lúa cũng có nhiều loại vi sinh vật azotobacter cố định đạm. Lại còn các loại vi sinh
vật sống ở vùng rễ lúa, làm cho hiệu quả cố định đạm tự do của rễ khá mạnh.
+ Do tưới nước
+ Trong đất
+ Do bón phân
- Nguồn tiêu thụ đạm
+ Cây lúa hút đạm để tạo năng suất hạt
+ Mất đạm do bị phản đạm hoá, rửa trôi.
2.3.3. Các kết quả nghiên cứu về phân đạm cho cây lúa
Đạm là yếu tố quan trọng đối với cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng.
Nhu cầu về đạm của cây lúa đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới đi sâu nghiên
cứu và có nhận xét chung là: nhu cầu đạm của cây lúa có tính chất liên tục từ đầu
thời kỳ sinh trưởng cho đến lúc thu hoạch. Trong suốt quá trình sinh trưởng, phát
triển của cây lúa, có hai thời kỳ mà nhu cầu dinh dưỡng đạm của cây lúa cao nhất là
thời kỳ đẻ nhánh rộ và thời kỳ làm đòng. Ở thời kỳ đẻ nhánh rộ cây hút nhiều đạm
nhất [6]. Theo Yoshida (1985), lượng đạm cây hút ở thời kỳ đẻ nhánh quyết định tới

74% năng suất. Bón nhiều đạm làm cây lúa đẻ nhánh khoẻ và tập trung, tăng số
bông/m2, số hạt/bông, nhưng khối lượng nghìn hạt ít thay đổi (P1000).
Theo tác giả Đinh Văn Lữ (1978); Bùi Huy đáp (1980), Đào Thế Tuấn (1980)
và Nguyễn Hữu Tề (1997): thông thường cây lúa hút 70% tổng lượng đạm là trong
giai đoạn đẻ nhánh, đây là thời kỳ hút đạm có ảnh hưởng lớn đến năng suất, 1010


15% là hút ở giai đoạn làm đòng, còn lại là từ giai đoạn làm đòng đến chín.
Theo tác giả Bùi đình Dinh [10], cây lúa cũng cần nhiều đạm trong thời kỳ
phân hoá đòng và phát triển đòng thành bông, tạo ra các bộ phận sinh sản. Thời kỳ
này quyết định cơ cấu sản lượng: số hạt/bông, khối lượng nghìn hạt (P1000) [16].
Yoshida (1985) cho rằng: ở các nước nhiệt đới lượng các chất dinh dưỡng (N,
P, K) cần để tạo ra một tấn thóc trung bình là: 20,5 kg N; 5,1 kg P 2O5 và 44 kg
K2O. Trên nền phối hợp 90 P2O5 - 60 K2O hiệu suất phân đạm và năng suất lúa
tăng nhanh ở các mức bón từ 40 - 120 kg N/ha [30].
Kết quả nghiên cứu của đinh Văn Cự tại xã Gia Xuyên - Tứ Lộc - Hải Dương
cho thấy: lượng đạm cần bón để đạt một tấn thóc phải từ 26-28 kg N. Kết quả này cao
hơn nhiều so với dự tính của đào Thế Tuấn năm 1969, muốn đạt được một tấn thóc cần
22,3 kg N trong vụ chiêm và 22,6 kg N trong vụ mùa.
Theo tổng kết của Mai Văn Quyền (2002), trên 60 thí nghiệm thực tiễn khác
nhau ở 40 nước có khí hậu khác nhau cho thấy: nếu đạt năng lúa 3 tấn thóc/ha, thì
lúa lấy đi hết 50 kg N, 26kg P 2O5, 80kg K2O, 10kg Ca, 6kg Mg, 5kg S. Và nếu
ruộng lúa đạt năng suất 6 tấn/ha thì lượng dinh dưỡng cây lúa lấy đi là 100kg N,
50kg P2O5, 160kg K2O, 19kg Ca, 12kg Mg, 10kg S (Nguồn FIAC, do FAO Rome
dẫn trong Fertilizes and Their use lần thứ 5. Lấy trung bình cứ tạo một thóc cây lúa
lấy đi hết 17kg N, 27kg K2O, 8kg P2O5, 3kg CaO, 2kg Mg và 1,7kg S...
Theo S. Yoshida (1985), đạm là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng nhất đối
với cây lúa trong các giai đoạn sinh trưởng và phát triển.
Sau khi tăng lượng đạm thì cường độ quang hợp, cường độ hô hấp và hàm
lượng diệp lục của cây lúa tăng lên, nhịp độ quang hợp, hô hấp không khác nhau

nhiều nhưng cường độ quang hợp tăng mạnh hơn cường độ hô hấp gấp 10 lần cho
nên vai trò của đạm làm tăng tích luỹ chất khô (Nguyễn Thị Lẫm, 1994).
Nếu bón đạm với liều lượng cao thì hiệu suất cao nhất là bón vào lúa đẻ
11


nhánh và sau đó giảm dần. Với liều lượng bón đạm thấp thì bón vào lúc lúa đẻ và
trước trỗ 10 ngày có hiệu quả cao (Yoshida, 1985).
Năm 1973, Xiniura và Chiba có kết quả thí nghiệm bón đạm theo 9 cách
tương ứng với các giai đoạn sinh trưởng, phát triển. Mỗi lần bón với 7 mức đạm
khác nhau, hai tác giả trên đã có những kết luận sau:
+ Hiệu suất của đạm (kể cả rơm rạ và thóc) cao khi lượng đạm bón ở mức
thấp.
+ Có hai đỉnh về hiệu suất, đỉnh đầu tiên là xuất hiện ở thời kỳ đẻ nhánh,
đỉnh thứ hai xuất hiện từ 19 đến 9 ngày trước trỗ, nếu lượng đạm nhiều thì không
có đỉnh thứ hai. Nếu bón liều lượng đạm thấp thì bón vào lúc 20 ngày trước trỗ, nếu
bón liều lượng đạm cao thì bón vào lúc cây lúa đẻ nhánh [14].
Viện Nông hoá - Thổ nhưỡng đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của đất,
mùa vụ và liều lượng phân đạm bón đến tỷ lệ đạm cây hút. Không phải do bón
nhiều đạm thì tỷ lệ đạm của cây lúa sử dụng nhiều. Ở mức đạm 80 kg N/ha, tỷ lệ sử
dụng đạm là 46,6%, so với mức đạm này có sử dụng phân chuồng tỷ lệ đạm hút
được là 47,4%. Nếu tiếp tục tăng liều lượng đạm đến 160N và 240N có phân
chuồng thì tỷ lệ đạm mà cây lúa sử dụng cũng giảm xuống. Trên đất bạc màu so với
đất phù sa sông Hồng thì hiệu suất sử dụng đạm của cây lúa thấp hơn. Khi bón liều
lượng đạm từ 40N - 120N thì hiệu suất sử dụng phân giảm xuống, tuy lượng đạm
tuyệt đối do lúa sử dụng vẫn tăng lên.
Kết quả nghiên cứu sử dụng phân bón đạm trên đất phù sa sông Hồng của
Viện Khoa học Nông Nghiệp Việt Nam đã tổng kết các thí nghiệm 4 mức đạm từ
năm 1992 đến 1994, kết quả cho thấy: phản ứng của phân đạm đối với lúa phụ
thuộc vào thời vụ, loại đất và giống lúa.

Viện nghiên cứu lúa đồng bằng sông Cửu Long đã có nhiều thí nghiệm về
"Ảnh hưởng của liều lượng đạm khác nhau đến năng suất lúa vụ đông xuân và Hè
thu trên đất phù sa đồng bằng sông Cửu Long". Kết quả nghiên cứu trung bình
nhiều năm, từ năm 1985 - 1994 của Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, đã chứng
12


minh rằng: trên đất phù sa được bồi hàng năm có bón 60 kg P 2O5 và 30 kg K2O
làm nền thì khi bón đạm đã làm tăng năng suất lúa từ 15 - 48,5% trong vụ đông
Xuân và vụ hè thu tăng từ 8,5 - 35,6%. Hướng chung của 2 vụ đều bón đến mức 90
kg N có hiệu quả cao hơn cả, bón trên mức 90 kg N này năng suất đều không tăng
đáng kể.
Theo Nguyễn Thị Lẫm (1994), khi nghiên cứu về bón phân đạm cho lúa cạn
đã kết luận rằng: liều lượng đạm thích hợp bón cho các giống có nguồn gốc địa
phương là 60 kg N/ha. Đối với các giống thâm canh cao như CK136 thì lượng đạm
thích hợp từ 90 kg - 120 kg N/ha.
Theo Nguyễn Như Hà [15], ảnh hưởng của mật độ cấy và ảnh hưởng của liều
lượng đạm tới sinh trưởng của giống lúa ngắn ngày thâm canh cho thấy: tăng liều
lượng đạm bón ở mật độ cấy dày có tác dụng tăng tỷ lệ nhánh hữu hiệu.
Dinh dưỡng đạm đối với lúa lai cũng là vấn đề rất quan trọng được các nhà
nghiên cứu quan tâm. Lúa lai có bộ rễ khá phát triển, khả năng huy động từ đất rất
lớn nên ngay trường hợp không bón phân, năng suất lúa lai vẫn cao hơn lúa thuần.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã kết luận: cùng một mức năng suất, lúa lai hấp
thu lượng đạm và lân thấp hơn lúa thuần 4,8%, hấp thu P2O5 cao hơn 18,2% nhưng
hấp thu K2O cao hơn 30%. Với ruộng lúa cao sản thì lúa lai hấp thu đạm cao hơn
lúa thuần 10%, hấp thu K2O cao hơn 45% cón hấp thu lân thì bằng lúa thuần [6].
Kết quả thí nghiệm trong chậu cho thấy: trên đất phù sa sông Hồng, bón đạm
đơn độc làm tăng năng suất lúa lai 48,7%, trong khi đó các giống lúa CR203 chỉ
tăng 23,1%. Với thí nghiệm đồng ruộng, bón đạm, lân cho lúa lai có kết quả rõ rệt.
Nhiều thí nghiệm trong phòng cũng như ngoài đồng ruộng cho thấy, 1 kg N bón

cho lúa lai làm tăng năng suất 9-18 kg thóc, so với lúa thuần thì tăng 2-13 kg thóc.
Như vậy, trên các loại đất có vấn đề như đất bạc màu, đất gley, khi các yếu tố khác
chưa được khắc phục về độ chua, lân, kali, thì vai trò của phân đạm không phát huy
được, nên năng suất lúa lai tăng có 17,7% trên đất bạc màu và 11,5% trên đất gley
[6].
13


Với đất phù sa sông Hồng, bón đạm với mức 180 kgN/ha trong vụ Xuân và
150 kgN/ha trong vụ Mùa cho lúa lai vẫn không làm giảm năng suất lúa. Tuy
nhiên, ở mức bón 120 kgN/ha làm cho hiệu quả cao hơn các mức khác.
Thời kỳ bón đạm là thời kỳ rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực của
phân để làm tăng năng suất lúa. Với phương pháp bón đạm (bón tập trung vào giai
đoạn đầu và bón nhẹ vào giai đoạn cuối) của Việt Nam vẫn cho năng suất lúa cao,
năng suất lúa tăng thêm từ 3,5 tạ/ha [5].
Liều lượng bón cho 1ha: 8 tấn phân chuồng + 120 kgN + 90 kg P2O5 + 60
kg K2O. Kết quả thời kỳ bón cho thấy rất rõ hiệu quả của phân đạm trên đất phù xa
sông Hồng đạt cao nhất ở thời kỳ bón lót từ 50 - 75% tổng lượng đạm, lượng
đạm bón nuôi đòng chỉ từ 12,5-25% [3].
Như vậy, có thể nói, các nghiên cứu về phân đạm cho cây lúa vẫn cần được
tiếp tục nghiên cứu cho từng giống lúa, từng chất đất và từng vùng cụ thể. Trong
tương lai, người ta hy vọng tạo ra các giống siêu lúa sử dụng phân đạm có hiệu quả
hơn và sử dụng các nguồn đạm khác trong đất do vi sinh vật cố định đạm tạo ra hay
do các hoạt động vi sinh vật khác ở đất lúa. Siêu lúa với những giống lúa cạn, lưu
niên có thể có nốt sần có vi sinh vật cộng sinh để tự tạo ra đạm. Siêu lúa do sử dụng
chất đạm hoá học hiệu quả hơn, không những tiết kiệm được đạm mà còn có chế độ
dinh dưỡng đạm khác các giống lúa cũ, nên không gây ô nhiễm môi trường, ô
nhiễm nước mặt và nước ngầm, hạn chế hiện tượng phân đạm bón làm phát sinh
nhiều NO trong không khí ruộng lúa [12].
2.3.4. Các loại và dạng phân bón sử dụng cho lúa

Lúa là cây trồng có phản ứng tốt với phân hoá học nên bón phân hoá học cho
lúa có hiệu quả cao. Trong thâm canh lúa, bón phân hữu cơ chủ yếu ổn định hàm
lượng mùn cho đất, tạo nền thâm canh có thể sử dụng cac loại phân hữu cơ khác
nhau, kể cả rơm rạ lúa sau khi thu hoạch.
Các loại phân đạm thích hợp cho lúa là phân đạm ure, amon. Ure đang trở
thành loại phân đạm phổ biến đối với lúa nước vì có tỷ lệ đạm cao, lại rất thích hợp
14


để bón trên các loại đất lúa thoái hoá. Phân đạm nitrat có thể bón thúc ở thời kỳ
đòng, đặc biệt hiệu quả khi bón trên đất chua mặn.
2.3.5. Lượng phân bón cho lúa ở các vùng trồng lúa chính
Do hệ số sử dụng phân đạm của cây lúa không cao nên lượng đạm cần bón
phải cao hơn nhiều so với nhu cầu. Lượng đạm bón dao động từ 60-160 kg/ha. Với
trình độ thâm canh như hiện tại để đạt năng suất 5 tấn/ha thường bón 80-120 kg/ha.
Tuy nhiên, trên đất có độ phì trung bình, để đạt năng suất 6 tấn thóc/ha cần bón 160
kgN/ha. Trên đất phù sa sông Hồng để đạt năng suất trên 7 tấn/ha cần bón 180-200
kgN/ha. Các nước có năng suất bình quân cao trên thế giới (5-7 tấn thóc/ha) thường
bón 150-200 KgN/ha.
2.3.6. Phương pháp bón phân cho lúa
Cơ sở cho việc xác định phương pháp bón phân cho lúa
Thời kỳ bón đạm có ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và năng suất lúa.
Thời kỳ bón đạm phụ thuộc vào đặc điểm của giống lúa, mùa vụ, thành phần
cơ giới đất và trình độ tham canh. Không thể có một hướng dẫn chung về thời kỳ
bón đạm cho tất cả các giống, mùa vụ và đất trồng. Bón đạm sớm tạo nhiều bông,
bón đạm muộn tăng hạt là chủ yếu, bón đạm vào giai đoạn đòng làm tăng tỷ lệ
protein trong hạt. Thời kỳ bón phân đạm cho lúa trường gồm: bón lót, bón thúc đẻ
nhánh, thúc đòng, ngoài ra có thể bón nuôi hạt.
* Bón phân lót cho lúa
Trong bón phân cho lúa trường bón lót toàn bộ phân chuồng và phân lân, một

phần phân đạm và kali. Thường bón lót phân chuồng trong quá trình làm đất, phân
lân, phân kali cùng với đạm bón trước khi bừa lần cuối.
Cây hút khá nhiều lân trong các giai đoạn sinh trưởng đầu và giai đoạn cây
con, lúa bị khủng hoảng lân, do vậy phân lân cần được bón lót toàn bộ hoặc bón lót
hoặc thúc sớm. Phân lân nên bón rải đều trên mặt ruộng trước khi bừa lần cuối để
gieo cấy.
Nên bón lót nhiều phân kali trong các trường hợp sau: trồng giống đẻ nhánh
15


nhiều hay ngắn ngày, lúa có hiện tượng bị ngộ độc sắt, đất có khả năng hấp thu cao
hay thiếu kali, mưa nhiều, ngập nước sâu, khí hậu lạnh. Trong thực tiễn còn chia
phân kali ra bón thúc làm nhiều lần, do lúa là cây có nhu cầu cung cấp kali vào giai
đoạn rễ lúa ăn nổi trên mặt đất, cuối đẻ nhánh đến đầu làm đòng, kali cung cấp từ
đất và nước tưới thường giảm đi ở giai đoạn đẻ nhánh của cây lúa.
Thường dành 1/3 - 2/3 tổng lượng N để bón lót cho cây lúa, tỷ lệ phân dùng
để bón lót tuỳ thuộc vào tính chất đất, độ sâu cày bừa, điều kiện khí hậu, thời gian
sinh trưởng của lúa. Cần bón lót nhiều đạm hơn khi cấy bằng mạ già, các giống lúa
ngắn ngày, lúa chét (lúa mọc từ gốc rạ).
* Phân bón thúc đẻ nhánh
Bón thúc đẻ nhánh cho lúa thường bón bằng phân đạm hay phối hợp thêm
với một phần phân lân (nếu còn chưa bón lót hết). Thời gian bón thúc đẻ nhánh vào
khoảng 18-20 ngày sau gieo hoặc sau khi lúa bén rễ hồi xanh, vào khoảng 10-20
ngày sau cấy (tuỳ thuộc mùa vụ khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh).
Trên đất phèn và đất quá chua, khả năng cố định lân của đất khá mạnh thì
bón thúc lân cho lúa là cần thiết vì vừa nhằm hạ phèn và độc tố trong đất, vừa cung
cấp dinh dưỡng lân cho lúa. Việc kết hợp bón lót và thúc một phần phân lân hoà tan
trong nước cho lúa làm tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Khi bón thúc nên dùng các
loại lân hạt để tránh bám dính gây cháy lá.
Thường dành 1/3 - 2/3 lượng N còn lại để bón thúc đẻ nhánh nhằm làm cho

lúa đẻ nhánh nhanh, tập trung và cũng để gảm lượng phân lót, tránh mất đạm. Cần
bón thúc đẻ nhánh nhiều đạm cho lúa trong các trường hợp: cấy giống dài ngày hay
đẻ nhánh nhiều, mật độ gieo hoặc cấy cao, nhiệt độ khi gieo cấy cao.
Đối với những giống lúa cực ngắn, lúa mùa cần phải bón thúc đẻ nhánh sớm
hơn, còn đối với các giống dài ngày, lúa xuân có thể bón thúc muộn hơn, do thời kỳ
sinh tưởng đầu của cây lúa bị kéo dài.
Bón thúc đạm cho lúa tốt nhất là sau khi rút nước ruộng do có thể làm tăng
gấp đôi hiệu lực của phân bón so với ruộng có nhiều nước. Không nên rút nước quá
16


một ngày trước khi bón thúc vì việc bón thúc trong một thời gian dài thúc đẩy cỏ
dại phát triển và làm mất đạm, đồng thời ruộng sau khi bón phân phải được đưa
nước vào ngay sau một ngày bón đạm. Dùng máy trừ cỏ có trục quay để trộn lẫn
phân đạm vào đất cũng tăng được hiệu lực của phân đạm, đặc biệt là khi bón thúc
sớm và cấy sâu [18].
* Phân bón thúc đòng
Bón thúc đòng cho lúa thường sử dụng phối hợp phần phân đạm và kali còn
lại nhằm tiếp tục cung cấp đạm cho lúa để tạo được bông lúa to, có nhiều hạt chắc,
nâng cao hệ số kinh tế cho cây lúa, đạt năng suất cao. Bón dòng tốt nhất là bón sau
khi phân hoá đòng vào khoảng 40-45 ngày sau khi gieo, cấy.
Khi bón ít đạm, thì bón thúc đòng là một kỹ thuật quan trọng để nâng cao
hiệu suất phân đạm và là thời kỳ bón đạm có hiệu quả nhất. Những giống đẻ nhánh
ít, bông to, năng suất dựa vào số hạt trên bông thì cần phải chú trọng vào đợt bón
đón đòng và nuôi hạt để tạo được bông to, nhiều hạt chắc, đạt năng suất cao.
Bón lót càng nhiều, lúa sinh trưởng tốt, thì thời gian bón đòng càng muộn và
ít. đối với các giống lúa mùa có thời gian sinh trưởng dài (150-180 ngày), cần bón
thúc đòng muộn hơn. Cần dùng mắt đánh giá tình hình sinh trưởng và màu lá trong
thời kỳ đẻ rộ để phán đoán nhu cầu bón thúc đòng. Khi đã bón lót được nhiều cũng
có thể không cần bón thúc đẻ, mà chỉ cần bón ở thời kỳ đòng. Bón đủ phân lót và

thúc đẻ nhánh có thể không bón phân đón đòng. Hiện nay trong chiến lược "ba
giảm, ba tăng" người ta căn cứ vào màu lá lúa để quyết định việc bón phân đạm
cho lúa. Ngoài ra cũng có thể dựa vào việc chuẩn đoán lá để xác định nhu cầu phân
bón cho lúa.
Nên dùng phân kali bón thúc đòng cho lúa trong các trường hợp: giống đẻ
nhánh từ trung bình đến ít hay giống dài ngày, gieo cấy thưa; đất có điện thế oxy
hoá khử rất cao, thành phần cơ giới nhẹ, hay trên đất phèn (thiếu lân và ngộ độc
sắt), đất kiềm (thiếu kẽm), lân bị đất cố định hay mưa nhiều.
* Phân bón nuôi hạt
17


Sau khi lúa trỗ hoàn toàn có thể bón nuôi hạt bằng cách phun phân bón lá 1-2
lần nhằm tăng số hạt chắc, tăng năng suất. đây là thời kỳ bón phân có hiệu quả rõ
khi trồng lúa trên đất có thành phần cơ giới nhẹ, có khả năng cung cấp dinh dưỡng
và giữ phân kém.
2.3.7. Một số nguy cơ từ phân đạm
Trước sức ép của việc tăng dân số và nhu cầu cao của người nông dân đòi hỏi
nhiều lương thực, thực phẩm và sản xuất nông nghiệp thâm canh. Muốn đáp ứng
được nhu cầu trên, hoạt động nông nghiệp lại đòi hỏi sử dụng nhiều phân bón. đặc
biệt là phân đạm có vai trò quan trọng trong việc tăng năng suất.
Bón quá nhiều đạm không những không làm tăng năng suất lúa mà còn làm
gia tăng sự xuất hiện sâu bệnh hại, có khi còn làm mất trắng.
Ngoài ra, bón phân đạm quá nhiều hoặc bón phân không cân đối có thể ảnh
hưởng xấu tới môi trường. Đã có nhiều khẳng định về ảnh hưởng của phân bón tới
sự ô nhiễm nitrat của nước ngầm do sử dụng quá nhiều phân đạm hay bón quá
nhiều chất thải động vật dưới dạng phân hoặc nước thải.
Hiện tượng phản đạm hoá dẫn đến mất đạm gây ô nhiễm không khí thể hiện
đầy đủ khi gặp các điều kiện sau đây: có đủ đạm nitrat hay nitrit; thiếu oxy, đủ chất
khử. Ngoài quá trình phản đạm còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố: pH và nhiệt độ,

phản đạm xảy ra mạnh trong đất chua, nhiệt độ 60 - 650C.
Vì vậy mà quá trình phản đạm hoá ở đất trồng cây trồng cạn, thoát nước kém,
bón nhiều phân amoon và phân ure thì việc mất đạm đạt 20 - 40%. Còn ở đất ngập
nước như đất lúa quá trình phản đạm có thể mất nhiều đạm nếu bón không đúng
cách. Bón phân đạm amon và ure vào tầng oxy hoá đất lúa có thể mất 60 - 70%
đạm dưới cả ba dạng NH3, N2O, N2.
Nhiễm bẩn môi trường từ phân bón do tích đọng nitrat là một vấn đề rất
nguy hại. Nguồn nitrat trong đất, nước có thể là từ bản thân NO 3 hay do chuyển
hoá NH4 mà thành. Liều lượng phân đạm quá cao hay không cân đối với các chất
18


dinh dưỡng khác có thể làm tăng hàm lượng nitrat trong nước uống, trong rau, nước
quả ...Ô nhiễm NO3 có liên quan đến sức khoẻ cộng đồng do gây lên hai loại bệnh:
hội trứng trẻ xanh ở trẻ sơ sinh và ung thư dạ dày ở người lớn tuổi. Do trong hệ tiêu
hoá nitrat (NO3) bị khử thành nitrit (NO2) làm chuyển biến oxyhaemoglobin (chất
vận chuyển oxy trong máu) thành chất không còn khả năng hoạt động
methaemoglobin, ở liều lượng cao sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của tuyến giáp và
phát triển các khối u. Nitrit khi đi vào cơ thể cũng có phản ứng với amin tạo thành
nitrosoamin - một chất gây ung thư [17].
Như vậy, việc nghiên cứu lượng đạm bón cho từng giống lúa trên từng vùng
là hết sức cần thiết. điều đó không chỉ có ý nghĩa hiện tại là tăng năng suất lúa mà
còn có ý nghĩa lâu bền trong tương lai; sử dụng phân bón để bền vững đất đai, môi
trường và an toàn cho sức khoẻ con người.

19


PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Giống lúa thí nghiệm: Giống Nhị ưu 838.
Vật liệu nghiên cứu: - Đất thí nghiệm: Đất 2 vụ lúa
Các loại phân bón sử dụng: Đạm dùng phân Urê 46%, phân supe lân 16%,
Kaliclorua .
3.2. Nội dung nghiên cứu.
- Ảnh hưởng của liều lượng bón đạm khác nhau đến khả năng sinh trưởng,
phát triển của giống Nhị ưu 838.
- Ảnh hưởng của liều lượng bón đạm khác nhau đến khả năng phát sinh
phát triển một số loại sâu bệnh hại chính trên giống Nhị ưu 838.
- Ảnh hưởng của liều lượng bón phân đạm khác nhau đến các yếu tố tạo
thành năng suất và năng suất của giống Nhị ưu 838.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của các công thức bón đạm cho giống Nhị ưu
838.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Thời gian, địa điểm nghiên cứu
Thời gian: từ tháng 1 – 6/2016
Gieo mạ ngày: 20/01/2016
Ngày cấy: 15/02/2016
Địa điểm: tại xã Cán Khê, huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa.
3.3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
3.3.2.1. Loại thí nghiệm
Thí nghiệm đồng ruộng.
3.3.2.2. Thi công thí nghiệm.
*Thí nghiệm gồm 5 công thức:

20


Các công thức thí nghiệm

STT Công thức
Nội dung công thức
1
I
Nền + 0 kg N/ha (đối chứng )
2
II
Nền + 30 kg N/ha
3
III
Nền + 60 kg N/ha
4
IV
Nền + 90 kg N /ha
5
V
Nền + 120 kg N /ha
Ghi chú : Nền : 7 tấn phân chuồng/ha + 400kg vôi/ha+ 60kg K20/ha + 90
kg P2O5/ha
* Bố trí thí nghiệm: Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Dải bảo vệ
III1
IV1
I1
V1
I2
V2
II2
IV2
V3

IV3
III3
I3
Dải bảo vệ
Ghi chú: Tên công thức: I, II, III, IV, V .

II1
III2
II3

Lần nhắc: 1, 2, 3.
Thí nghiệm đồng ruộng, bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn chỉnh (RCB),
nhắc lại 3 lần.
Tổng số ô thí nghiệm: 15 ô
Diện tích ô thí nghiệm: 20 m2. Tổng diện tích thực tế thí nghiệm: 300m2
3.3.2.3. Kỹ thuật canh tác:
Kỹ thuật canh tác áp dụng theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo
nghiệm giá trị canh tác và giá trị sử dụng của giống lúa. QCVN 01-55 :
2011/BNNPTNT.
Kỹ thuật gieo mạ : chuẩn bị hạt giống, xử lý và ngâm ủ hạt giống, chuẩn bị
đất gieo mạ, gieo mạ và chăm sóc mạ.
Làm đất cấy : cày bừa, làm cỏ, lấy nước. Bón vôi khi cày vỡ.
* Phương pháp bón phân:
- Bón lót : 100% phân chuồng + 100% phân lân + 30% đạm + 50% kali
- Bón thúc lần 1: khi lúa đẻ nhánh (sau cấy 10 – 15 ngày) bón 50% đạm.
- Bón thúc lần 2: khi cây lúa chuyển sang đứng cái làm đòng (bón đón
đòng) bón lượng Kali (50%) và đạm còn lại (20%)
21



* Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh.
3.3.3. Chỉ tiêu theo dõi và phương pháp theo dõi các chỉ tiêu:
3.3.3.1. Chỉ tiêu theo dõi:
Theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng (thời gian sinh trưởng, các thời kỳ sinh
trưởng, tổng thời gian sinh trưởng) tình hình đẻ nhánh, vươn cao, động thái ra lá.
Theo dõi tình hình phát sinh phát triển của bệnh hại.
Theo dõi các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa.
Theo dõi hiệu quả sản xuất.
3.3.3.2. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu:
* Các chỉ tiêu sinh trưởng
Thời gian sinh trưởng phát dục: sau khi cấy xác định điểm theo dõi, trên
mỗi ô đánh dấu 5 điểm theo đường chéo góc, mỗi điểm theo dõi 2 khóm theo
các chỉ tiêu sau.
Ngày bén rễ hồi xanh: theo dõi liên tục sau cấy, quan sát thấy cây
chuyển từ vàng sang xanh, ngày bắt đầu hồi xanh là khi 10% số cây theo dõi
suất hiện lá mới dài 0,5cm, hồi xanh hoàn toàn khi 80% số cây theo dõi suất
hiện lá mới dài 5cm.
Từ khi cấy đến đẻ nhánh: khi có 10% số khóm xuất hiện nhánh mới là
bắt đầu đẻ nhánh, khi có 80% số nhánh xuất hiện nhánh mới là thời kỳ đẻ
nhánh rộ.
Thời kỳ trỗ: khi bông lúa đầu tiên thoát khỏi bẹ lá đòng đạt khoảng 1/3
chiều dài bông tính từ ngày bắt đầu trỗ của khóm lúa. Khi 10% số khóm trỗ gọi
là ngày bắt đầu trỗ. Khi 50% số khóm trỗ gọi là ngày trỗ rộ. Khi 80% số khóm
trỗ gọi là ngày kết thúc trỗ. Theo dõi liên tục hàng ngày để tính thời gian trỗ
của giống.
Thời kỳ chín: quan sát trên ruộng lúa thấy ngả vàng.
* Động thái tăng trưởng chiều cao cây: theo dõi định kỳ 14 ngày 1 lần, theo
dõi ở 5 điểm của đường chéo góc/ ô, mỗi điểm điều tra 2 khóm
Cố định các thời điểm đo:
Bén rễ hồi xanh

22


Bắt đầu đẻ nhánh
Kết thúc đẻ nhánh
Bắt đầu trỗ bông
Kết thúc trỗ bông
Khi thu hoạch
Phương pháp đo: Ở thời kỳ sinh trưởng: đo từ đỉnh cọc đến mút lá cao
nhất
Thời kỳ sau trổ đo từ gốc đến mút bông lúa dài nhất
- Tốc độ tăng trưởng

=

chiều cao
* Động thái đẻ nhánh:

Chiều cao lần sau – Chiều cao lần trước
Thời gian giữa hai lần theo dõi

Thời kỳ bắt đầu đẻ nhánh: 14 ngày/ lần đếm tổng số nhánh trên khóm trừ
đi số nhánh cơ bản khi cấy, theo dõi ở 5 điểm của hai đường chéo góc, mỗi điểm
điều tra 2 cây, đánh dấu cố định khóm theo dõi. Lúc có 10% số cây theo dõi đẻ
nhánh là thời kỳ bắt đầu đẻ nhánh mới, nhánh mới được tính khi đỉnh của nhánh
vượt khỏi bẹ lá khoảng 1cm.
Thời kỳ đẻ nhánh rộ: khi có 80% số cây theo dõi suất hiện nhánh mới.
Thời kỳ kết thúc đẻ nhánh: khi số cây theo dõi có nhánh mới dưới 10%
khi đó lúa đạt số nhánh cao nhất.
- Tốc độ đẻ nhánh =


Số nhánh lần sau – Số nhánh lần trước
Thời gian giữa hai lần theo dõi

* Động thái ra lá: theo dõi định kỳ 14 ngày 1 lần, theo dõi ở 5 điểm của
hai đường chéo góc, mỗi điểm điều tra 2 cây, đánh dấu cố định khóm theo dõi
và đánh dấu lá trên cùng của dảnh theo dõi bằng sơn (chú ý phải xác định số lá
mạ khi cấy).
Số lá lần sau – Số lá lần trước
Thời gian giữa hai lần theo dõi
* Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa.
- Tốc độ ra lá

=

Số khóm / m2
Số bông / khóm
23


Số hạt chắc / bông
Số bông hữu hiệu: tính các bông có từ 10 hạt chắc trở lên.
P1000 hạt: cân 3 mẫu mỗi mẫu 1000 hạt, tính sai số cho phép
- Năng suất lý thuyết: được xác định bởi công thức
Số bông / m2 x số hạt chắc/bông x P1000 hạt
NSLT (tạ/ha)=

104

Lưu ý: Trước khi thu hoạch cắt mỗi ô 10 khóm, bó riêng, để đo đếm

các chỉ tiêu.
Chiều cao cây cuối cùng đo từ chỗ có đốt không mang rễ đến mút
bông không kể râu.
Đếm số dảnh hữu hiệu trên khóm, dảnh thành bông có số hạt > 10.
Đếm số gié cấp 1, số hạt chắc trên bông, số hạt lép trên bông, từ đó
tính tỷ lệ chắc, lép.
Năng suất thực tế (tạ/ha): Sau khi phơi khô quạt sạch, cân cho từng công
thức.
P. (thóc khô, sạch)

Năng suất thực tế (tạ/ha) =

Đơn vị diện tích
* Tình hình phát sinh phát triển bệnh hại.
Điều tra và đánh giá mức độ phát triển của bệnh theo QCVN 01- 38:
2010 BNN&PTNT.
Điều tra theo 5 điểm chéo góc ô, định kỳ 14ngày/1lần, điểm điều tra ngẫu
nhiên.
Điều tra trên tất cả các lần nhắc lại.
- Tỷ lệ bệnh:
Công thức tính TLB%
TLB (%)

=
24

n
N

* 100



Trong đó: n là số cá thể bị bệnh.
N là tổng số cá thể điều tra.
- Chỉ số bệnh: Điều tra xác định chỉ số bệnh theo bảng phân cấp 9 cấp
Công thức tính chỉ số bệnh:
Chỉ số bệnh (%)

=

(N1 ..1) + (N3.3) + (N5.5) ….
NxT

x100

Trong đó:
N1 là số cá thể bị bệnh ở cấp 1
N3 là số cá thể bị bệnh ở cấp 3
Nn là số cá thể bị bệnh ở cấp n.
N là tổng số số cá thể điều tra.
T là cấp bệnh cao nhất (cấp 9).
* Hiệu quả kinh tế :
Tổng thu (triệu đồng/ha)= Năng suất x giá bán (tại thời điểm tiến hành đề tài).
Tổng chi (triệu đồng/ha)= Các chi phí: giống, phân bón, làm đất, . . .
Lãi thuần = Tổng thu - Tổng chi.
3.3.4. Phương pháp xử lý số liệu
Kết quả nghiên cứu được xử lý bằng chương trình Excel.

25



×