Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay (từ thực tiễn của thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.68 KB, 66 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên tinh thần quán triệt và thực hiện các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và
đang nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, từng bước đề cao nguyên tắc quản
lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp
chế XHCN nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới nước ta và xây dựng
thành công nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Để xây
dựng thành công nhà nước pháp quyền không chỉ cần một hệ thống pháp luật
hoàn thiện với các tiêu chí toàn diện, đồng bộ, phù hợp và trình độ kỹ thuật
pháp lý cao, mà còn cần dựa vào ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật của mỗi công dân, tổ chức và các cơ quan nhà
nước. Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu nhưng không được tổ chức thực
hiện tốt thì cũng không có ý nghĩa, chính vì vậy hoạt động áp dụng pháp luật
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc
đưa pháp luật vào cuộc sống và góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý
xã hội bằng pháp luật. Những năm gần đây, tình hình thực hiện pháp luật nói
chung và áp dụng pháp luật nói riêng ở Việt Nam cũng như trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên ngày càng được đổi mới và tăng cường, có nhiều kết quả đáng
khích lệ, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, từng bước nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước. Tuy nhiên, hiệu quả của việc áp dụng pháp luật ở nước ta trong thời
gian qua chưa cao, còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém, vướng mắc cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Trước yêu cầu không ngừng tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trên phạm vi cả nước nói chung và Hưng Yên nói riêng, nhằm xây
dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,
do dân, vì dân thì nghiên cứu làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn về áp
dụng pháp luật; đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật ở Hưng Yên và



2

đề xuất những biện pháp pháp lý đúng đắn để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật trên địa bàn tỉnh Hưng Yên là việc làm cấp bách và có ý nghĩa thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện pháp luật hiện nay ở nước ta đang là vấn đề nóng bỏng. Trước
thực trạng coi thường kỷ cương phép nước, bất chấp pháp luật của một bộ
phận dân cư, nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Chẳng hạn, đề tài
“Tổ chức thực hiện pháp luật và tăng cường pháp chế trong điều kiện đổi mới
ở nước ta hiện nay, những vấn đề lý luận và thực tiễn” (Khoa Nhà nước và
pháp luật – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh); luận án tiến sỹ luật học
“Thực hiện pháp luật trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân để bảo
vệ trật tự an toàn xã hội ở nước ta hiện nay”của tác giả Đỗ Tiến Triển; sách
chuyên thảo “Hiệu quả pháp luật – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tiến
sỹ Nguyễn Minh Đoan; luận văn thạc sỹ luật học “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về thực hiện pháp luật ở thành phố Hà Nội” của tác giả Trần Thị
Xuân; luận văn thạc sỹ luật học “Nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở
nước ta hiện nay (từ thực tiễn của thành phố Hải Phòng)” của tác giả Đào Thị
Mai. Các tác giả đã phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện
pháp luật, về hiệu quả của pháp luật ở nước ta. Tuy nhiên chưa có tác giả nào
nghiên cứu một cách toàn diện bao quát vấn đề áp dụng pháp luật trên địa bàn
tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
Phân tích cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật;
Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, những
thành tựu, thiếu sót và nguyên nhân của chúng;
Nêu một số giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận

Áp dụng pháp luật là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, liên quan tới nhiều
lĩnh vực hoạt động của các cơ quan nhà nước nên trong phạm vi một khóa


3

luận tốt nghiệp đại học, tác giả chỉ nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp pháp lý chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm
chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về đường lối đổi mới của đất nước, về
xây dựng nhà nước pháp quyền thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng
cũng như trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật của Nhà nước ta.
Trong quá trình phân tích, khóa luận có sử dụng những phương pháp cụ
thể như: phương pháp khảo sát, phương pháp so sánh, kết hợp sử dụng
phương pháp lôgích và lịch sử, phân tích và tổng hợp.
6. Những đóng góp của khóa luận
Đây là khóa luận đầu tiên nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về tình
hình áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, trong đó nghiên cứu làm
rõ các vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật như khái niệm, đặc điểm, các giai
đoạn của quá trình áp dụng pháp luật… Đánh giá thực trạng áp dụng pháp
luật trên địa bàn Hưng Yên hiện nay trên hai mặt ưu điểm, khuyết điểm và
phân tích những nguyên nhân của ưu khuyết điểm đó. Đề xuất những giải
pháp pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên hiện nay.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận

gồm 3 chương 12 mục.


4

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
1.1.

Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật

1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Ban hành quy phạm pháp luật Nhà nước xã hội chủ nghĩa mong muốn sử
dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục đích của
nhân dân lao động. Điều đó chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành được các tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện
một cách chính xác và đầy đủ. Do vậy, vấn đề không phải chỉ là ban hành thật
nhiều các văn bản pháp luật, điều quan trọng là phải thực hiện pháp luật, làm
cho những yêu cầu, quy định của chúng trở thành hiện thực.
Các quy phạm pháp luật rất phong phú cho nên hình thức thực hiện chúng
cũng rất phong phú và khác nhau. Mặc dù phương thức thực hiện pháp luật
đều phải thông qua hành vi nhưng không thể có một hình thức thực hiện pháp
luật chung hay hoàn toàn giống nhau cho tất cả các loại quy phạm pháp luật ở
mọi lĩnh vực. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa
học pháp lý đã xác định các hình thức thực hiện pháp luật như sau: Tuân thủ
pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Nếu
như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình
thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là
hình thức luôn luôn có sự tham gia của nhà nước.
Trong các hình thức thực hiện pháp luật thì áp dụng pháp luật là một hình

thức quan trọng, có tính đặc thù nên cần đi sâu nghiên cứu. Áp dụng pháp luật
vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là một giai đoạn đặc thù của sự
thực hiện pháp luật. Áp dụng pháp luật có tính đặc thù bởi nó chứa đựng yếu
tố bảo đảm cho những quy phạm pháp luật được thực hiện trong đời sống
thực tế. Yếu tố bảo đảm đó chính là sự can thiệp của nhà nước. Trên thực tế,


5

có những trường hợp nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì nhiều quy
phạm pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng.
Ở nước ta hiện nay có nhiều quan điểm về vấn đề áp dụng pháp luật.
Nhưng nhìn chung các định nghĩa về áp dụng pháp luật đó tương đối đồng
nhất, sự khác nhau có chăng chỉ là việc sử dụng các từ ngữ khác nhau để diễn
đạt mà thôi. Có thể nói rằng: Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện
pháp luật, là hoạt động mang tính tổ chức, quyền lực nhà nước, được thực
hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các
tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa các quy phạm
pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật quan trọng và có
quan hệ mật thiết với các hình thức còn lại. Nếu chỉ thông qua các hình thức
như tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật mà không có áp dụng pháp luật
thì nhiều quy phạm pháp luật không được thực hiện hoặc được thực hiện
nhưng không chính xác, không đầy đủ và nghiêm minh đảm bảo cho các quan
hệ pháp luật đi vào cuộc sống góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân
dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Nếu như tuân thủ, chấp
hành và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể đều có thể thực
hiện thì áp dụng pháp luật luôn có sự tham gia của nhà nước, là hoạt động của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong hoạt động áp dụng pháp luật bao
hàm tất cả các hình thức thực hiện pháp luật. Việc các cơ quan nhà nước tổ

chức cho các chủ thể thực hiện các quy định của pháp luật, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ đòi hỏi các cơ quan phải tuyệt đối tuân thủ
pháp luật, tức là tự kiềm chế không phạm vào các điều cấm trong khi áp dụng
pháp luật. Thi hành các nghĩa vụ pháp lý và vận dụng đúng đắn, chính xác các
quy phạm pháp luật trong quá trình áp dụng pháp luật.
Việc thực hiện pháp luật lúc đầu có thể là yêu cầu của một tổ chức, cá
nhân nào đó dưới hình thức sử dụng pháp luật dẫn đến yêu cầu, đòi hỏi nhà
chức trách phải áp dụng pháp luật, cùng với quá trình áp dụng pháp luật thì


6

các cơ quan nhà nước cũng như các chủ thể khác phải thực hiện pháp luật
dưới những hình thức khác như tuân thủ, thi hành … Nghĩa là, các hình thức
thực hiện pháp luật luôn đan xen, nối tiếp là tiền đề, là điều kiện của nhau
hoặc phải tiến hành chúng một cách đồng thời. Trong quá trình sử dụng các
quyền mà pháp luật cho phép, thường các chủ thể có xu hướng lạm quyền, sử
dụng quyền của mình vượt quá giới hạn cho phép. Do vậy, các chủ thể áp
dụng pháp luật phải tự kiềm chế mình tốt thì khi sử dụng pháp luật sẽ sử dụng
đúng quyền trong phạm vi cho phép tránh tình trạng sử dụng vượt quá quyền.
Đồng thời việc sử dụng đúng quyền cũng sẽ tác động trở lại đối với ý thức tự
kiềm chế của chủ thể, giúp chủ thể hiểu được giá trị thực tế của việc sử dụng
đúng quyền, từ đó luôn tự kiềm chế không phạm vào những điều pháp luật
cấm.
Pháp luật chỉ phát huy được vai trò, tác dụng của mình khi tất cả các quy
định của nó được các chủ thể pháp luật tôn trọng và thực hiện nghiêm minh.
Song có rất nhiều quy định pháp luật mà các chủ thể pháp luật không thể tự
thực hiện được hoặc không muốn thực hiện nếu như không có sự can thiệp từ
phía cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền. Nói cách khác, các cơ
quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền phải tiến hành áp dụng pháp

luật trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế do các chế tài pháp
luật quy định đối với những chủ thể vi phạm pháp luật. Để bảo đảm cho pháp
luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác bởi mọi chủ thể trong
xã hội, nhiều quy phạm pháp luật đã quy định các biện pháp cưỡng chế nhà
nước cần áp dụng với người vi phạm trong phần chế tài của nó. Việc áp dụng
một biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể với một chủ thể cụ thể là bắt họ
phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi hay những sự thiệt hại nhất định
về tài sản, về nhân thân, về tự do… Vì thế để đảm bảo công bằng xã hội, chỉ
có các chủ thể có thẩm quyền mới có thể áp dụng và hoạt động áp dụng của
họ phải tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật


7

quy định. Ví dụ cho trường hợp này là việc cảnh sát giao thông xử phạt người
vi phạm luật giao thông, Hội đồng kỷ luật nhà trường xử lý kỷ luật đối với
cán bộ, giáo viên hoặc sinh viên vi phạm kỷ luật…
Thứ hai, nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước, những quyền và nghĩa vụ
pháp lý trong quan hệ pháp luật không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt. Ví dụ, Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định lao động là quyền và
nghĩa vụ của công dân, nhưng quan hệ pháp luật lao động với những quyền và
nghĩa vụ lao động cụ thể giữa một công dân với một cơ quan, tổ chức nhà
nước chỉ phát sinh khi có quyết định tuyển dụng người công dân nói trên của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên
tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Trong
trường hợp trên, phải nhờ hoạt động áp dụng pháp luật mới làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể thì trường hợp này khác ở
chỗ một quan hệ pháp luật cụ thể đã phát sinh, các bên chủ thể đã có quyền và

nghĩa vụ pháp lý đối với nhau, nhưng một trong các bên hoặc tất cả các bên
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ pháp
lý của mình nên dẫn đến tranh chấp mà họ không tự giải quyết được với nhau
và yêu cầu có sự can thiệp của một chủ thể có thẩm quyền. Chủ thể có thẩm
quyền áp dụng pháp luật đóng vai trò là trọng tài để giải quyết tranh chấp đó.
Ví dụ, một người cho thuê tài sản kiện ra tòa đòi tài sản cho thuê, tòa án thụ lý
và giải quyết vụ án đó tức là áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp giữa
người cho thuê tài sản với người thuê tài sản.
Thứ tư, khi cần áp dụng sự cưỡng chế của nhà nước đối với các chủ thể
không vi phạm pháp luật mà chỉ vì lợi ích chung của xã hội. Trong đời sống
xã hội, mỗi người đều có và đều quan tâm đến lợi ích riêng của mình và
những lợi ích chính đáng sẽ được nhà nước bảo hộ. Tuy nhiên, có những
trường hợp đặc biệt, để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, của cả cộng
đồng, nhà nước buộc phải xâm hại đến lợi ích riêng của những chủ thể nhất


8

định. Để bảo đảm tính đúng đắn, hợp tình, hợp lý của sự “xâm hại” đó, nhà
nước phải quy định cụ thể trong pháp luật các biện pháp “xâm hại”, chủ thể,
điều kiện, trình tự, thủ tục để áp dụng các biện pháp đó. Khi một chủ thể cụ
thể nào đó bị áp dụng một trong các biện pháp đó có nghĩa là họ đã phải gánh
chịu sự cưỡng chế của nhà nước, họ đã phải chịu những sự thiệt hại nhất định
mặc dù họ không vi phạm pháp luật mà hoàn toàn chỉ vì lợi ích chung của xã
hội, của cộng đồng. Ví dụ, để phục vụ cho việc xây dựng các công trình công
cộng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã phải ra quyết định thu hồi đất của
các chủ thể đang có quyền sử dụng hợp pháp trên diện tích đất đó, và đương
nhiên, các chủ thể đang sử dụng phải giao lại đất đó cho nhà nước và nhận sự
đền bù của nhà nước.
Thứ năm, khi cần áp dụng các hình thức khen thưởng đối với các chủ thể

có thành tích theo quy định của pháp luật. Trong pháp luật của các nhà nước
đương đại không chỉ quy định các biện pháp trừng phạt đối với các chủ thể vi
phạm pháp luật mà còn quy định nhiều hình thức khen thưởng đối với các chủ
thể có thành tích trong những hoạt động nhất định hoặc trong việc thực hiện
pháp luật. Mục đích của việc quy định các biện pháp đó là nhằm đền đáp công
ơn của những người có công với đất nước, với xã hội; để khuyến khích, động
viên các chủ thể nhiệt tình công tác, phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất
trong hoạt động của mình cũng như để khuyến khích các chủ thể tự giác thực
hiện tốt pháp luật, làm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh,
tự giác hơn. Vì thế, ở Việt Nam, bên cạnh Bộ luật hình sự và Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính còn có Luật thi đua, khen thưởng, và trong đa số các văn
bản quy phạm pháp luật đều có quy định việc khen thưởng những người thực
hiện tốt những quy định trong văn bản trước khi quy định việc xử phạt đối với
những người vi phạm nó. Ví dụ, việc các chủ thể có thẩm quyền xét tặng bằng
khen, danh hiệu vinh dự nhà nước cho một chủ thể nào đó chính là áp dụng
pháp luật trong trường hợp này.


9

Thứ sáu, khi cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các chủ thể trong một số quan hệ pháp luật nhất định theo quy
định của pháp luật. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, các chủ thể đều
có quyền và nghĩa vụ nhất định do pháp luật quy định. Có những quyền và
nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện nó chỉ liên quan đến lợi ích của cá nhân
người thực hiện, song có những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện
nó lại liên quan đến lợi ích của các chủ thể khác, lợi ích chung của xã hội,
của cộng đồng. Vì vậy, cần phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ đó để đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của nó. Hoạt động kiểm tra,
giám sát đó chỉ do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục

chặt chẽ do pháp luật quy định.
Thứ bảy, khi cần phải xác nhận sự tồn tại của một sự kiện thực tế cụ thể
nào đó theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn như: Nhà Nước chứng thực
tính hợp pháp của hợp đồng mua bán tài sản; tính hợp pháp của di chúc;
chứng nhận sự kiện sinh hay sự kiện chết của một người nào đó.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật
Từ định nghĩa về áp dụng pháp luật như trên, ta thấy, áp dụng pháp luật
có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, quyền lực
nhà nước.
Nếu chúng ta quan niệm thực hiện pháp luật có bốn hình thức thì chỉ có
duy nhất áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn thể hiện tính tổ chức, quyền
lực nhà nước. Điều đó được thể hiện qua chủ thể tiến hành, trình tự, thủ tục
tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật và kết quả của quá trình áp dụng pháp
luật. Cụ thể:
+ Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó cũng
chỉ được phép tiến hành các hoạt động áp dụng pháp luật theo quy định của
pháp luật.


10

+ Áp dụng pháp luật được xem là sự tiếp tục thể hiện ý chí nhà nước trong
quá trình điều chỉnh pháp luật, vì vậy ở chừng mực nhất định, áp dụng pháp
luật còn phục vụ cho những mục đích chính trị. Do vậy, việc áp dụng pháp
luật không những phải phù hợp với pháp luật thực định mà còn phải phù hợp
với chủ trương chính sách của nhà nước trong mỗi giai đoạn.
+ Trong một số trường hợp hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành
theo ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền áp dụng mà không phụ

thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng. Pháp luật cũng quy định trong một số
trường hợp nhất định việc áp dụng pháp luật đối với những trường hợp đó chỉ
được tiến hành khi có yêu cầu của tổ chức hay cá nhân nhất định theo quy
định của pháp luật
+ Áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và
các chủ thể có liên quan. Điều này thể hiện ở chỗ dù việc áp dụng pháp luật
được tiến hành theo ý chí nhà nước hay ý chí của chủ thể bị áp dụng thì quyết
định áp dụng pháp luật cũng chỉ do các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp
luật ban hành (trong một số trường hợp có tính đến ý chí của các chủ thể bị áp
dụng); quyết định áp dụng pháp luật mang tính bắt buộc phải thực hiện đối
với những tổ chức và cá nhân có liên quan; trong những trường hợp cần thiết,
nhà nước có thể cưỡng chế thi hành quyết định áp dụng pháp luật đã có hiệu
lực.
+ Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là hình
thức thực hiện pháp luật vừa là hình thức nhà nước tổ chức cho các chủ thể
thực hiện các quy định của pháp luật. Vì thế, hoạt động này phải được tiến
hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy
định. Mỗi loại quy phạm pháp luật có trình tự, thủ tục áp dụng khác nhau
không thể như nhau trong tất cả các vụ việc mà nó sẽ khác nhau từ vụ việc
này sang vụ việc khác tuỳ theo tính chất của vụ việc. Trình tự, thủ tục xem xét
để cấp Đăng ký kết hôn sẽ khác với trình tự, thủ tục công nhận tốt nghiệp cho
người học, càng khác với trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính…


11

Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt đối với các
quan hệ xã hội hay là hoạt động nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật
hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
Các quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung nên không chỉ rõ

chủ thể cụ thể và trường hợp cụ thể cần áp dụng. Khi gặp một tình huống nào
đó cần áp dụng pháp luật thì các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm
quyền sẽ căn cứ vào các quy định pháp luật rồi cá biệt hóa thành quy tắc xử
sự cụ thể cho các chủ thể cụ thể. Ví dụ, quyết định xử phạt đối với một người
vi phạm luật giao thông là sự cá biệt hoá quy phạm về quyền và nghĩa vụ của
người tham gia giao thông. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các quy phạm được áp
dụng vào việc giải quyết các vụ việc thực tế, cụ thể hay được cá biệt hoá phải
là các quy phạm pháp luật hiện hành hay các quy phạm đang còn hiệu lực
pháp lý và không trái với quy tắc xử sự chung.
Thứ ba, được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy
định.
Xuất phát từ thực tế là việc áp dụng pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức cho nên trình tự, thủ
tục áp dụng pháp luật phải được quy định cụ thể, rõ ràng. Các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật và các
bên có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm ngặt
các quy định đó.
Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo.
Khi áp dụng pháp luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có
thẩm quyền áp dụng pháp luật phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ
mọi tình tiết vụ việc để từ đó lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp, ra văn
bản áp dụng pháp luật chính xác và tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp
luật. Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc chưa quy định rõ ràng
thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự


12

dưới hai hình thức là áp dụng tương tự quy phạm pháp luật và áp dụng tương
tự pháp luật. Và để tránh việc áp dụng pháp luật một cách máy móc, tùy tiện

đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao,
có ý thức pháp luật và kinh nghiệm phong phú và lương tâm nghề nghiệp.
Các đặc điểm trên làm cho áp dụng pháp luật khác hoàn toàn với các hình
thức thực hiện pháp luật khác, bởi lẽ, chủ thể tuân theo, thi hành, sử dụng
pháp luật có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào trong xã hội; trong khi đó, chủ
thể tiến hành áp dụng pháp luật chỉ có thể là chủ thể có thẩm quyền theo quy
đinh của pháp luật. Khi tuân theo, thi hành hoặc sử dụng pháp luật, chủ thể có
thể không cần đưa ra một quyết định pháp lý nào và cũng có thể không bị bắt
buộc phải theo những trình tự, thủ tục nhất định. Còn khi áp dụng pháp luật,
chủ thể có thẩm quyền luôn bị bắt buộc phải tiến hành theo những điều kiện,
trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định và bao giờ cũng phải đưa ra
một quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc mà mình thụ lý. Có
thể nói, áp dụng pháp luật bao hàm cả ba hình thức trên bởi lẽ, trong quá trình
áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền cũng có thể bị cấm thực hiện những
hành vi nhất định và họ phải tuân theo pháp luật, họ cũng phải thực hiện
những nghĩa vụ pháp lý nhất định, tức là phải thi hành pháp luật, đồng thời có
những quyền hạn nhất định tức là có thể sử dụng pháp luật.
1.2. Các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là một quy trình tổng hợp bao gồm nhiều yếu tố có sự
tương tác lẫn nhau như con người, tổ chức, kỹ thuật, pháp lý. Dựa vào nội
dung công việc thực hiện cụ thể, khoa học và thực tiễn pháp lý chia quá trình
áp dụng pháp luật thành bốn giai đoạn: Phân tích đánh giá đúng chính xác
mọi tình tiết, hoàn cảnh, điều kiện của vụ việc thực tế đã xẩy ra; lựa chọn quy
phạm pháp luật phù hợp và phân tích làm rõ nội dung, ý nghĩa của quy phạm
pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng; ra quyết định áp dụng pháp luật; tổ
chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật đã ban hành.


13


1.2.1. Phân tích, đánh giá đúng chính xác mọi tình tiết, hoàn cảnh,
điều kiện của vụ việc thực tế đã xảy ra
Phân tích, đánh giá đúng, chính xác mọi điều kiện, hoàn cảnh, tình huống
xảy ra vụ việc và thực chất của vụ việc đã xảy ra để xác định đúng tính chất
pháp lý của nó (tức là xem vụ việc đó có cần đến pháp luật để giải quyết
không). Những cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật cần xem xét tất cả
những tình tiết của vụ việc, làm sáng tỏ những sự kiện có liên quan. Trong
những trường hợp cần thiết, phải sử dụng những biện pháp chuyên môn đặc
biệt như giám định để xác định đúng tính chất của sự kiện.
Giai đoạn đầu của quá trình áp dụng pháp luật yêu cầu:
- Nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ những tình tiết của vụ việc;
- Xác định đặc trưng pháp lý của nó;
- Tuân thủ tất cả các quy định mang tính thủ tục gắn với mỗi loại vụ việc.
Các cơ quan áp dụng pháp luật phải quan tâm không chỉ kết quả việc xem
xét đánh giá sự việc đúng sự thật mà cả con đường dẫn đến kết quả đó phải
mang tính chân lý, phải đúng pháp luật.
Ở giai đoạn một còn phải giải quyết vấn đề có cần tiếp tục tiến hành hoạt
động áp dụng pháp luật đối với trường hợp cụ thể đó hay không? Nếu cần tiếp
tục áp dụng thì chuyển qua giai đoạn hai.
1.2.2. Lựa chọn quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc đưa ra
các quyết định áp dụng pháp luật
Đây là giai đoạn quan trọng trong quy trình áp dụng pháp luật vì nếu
không đưa ra cơ sở pháp lý có sức thuyết phục, phù hợp sẽ ảnh hưởng trực
tiếp các giai đoạn sau. Về nguyên tắc, cần phải chọn quy phạm pháp luật còn
hiệu lực và sát thực với nội dung sự kiện, quan hệ cụ thể đó. Như vậy, để có
thể áp dụng pháp luật được đúng đắn cần làm rõ quy phạm pháp luật đó thuộc
ngành luật nào. Tiếp đó cần phân tích, làm sáng tỏ nội dung của quy phạm đã
lựa chọn để có thể hiểu được một cách đầy đủ các khía cạnh nhận thức về nội
dung của quy phạm đó đối với quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế. Tuy



14

nhiên, trên thực tế việc lựa chọn quy phạm pháp luật có thể xảy ra các khả
năng như sau:
- Có một quy phạm pháp luật đáp ứng đủ yêu cầu để làm cơ sở pháp lý
cho việc áp dụng. Đối với khả năng này rất thuận lợi cho các chủ thể có thẩm
quyền xác định được cơ sở pháp lý để sớm ban hành văn bản, quyết định áp
dụng pháp luật đúng thời hạn, thời hiệu theo quy định của pháp luật.
- Có hai hay nhiều quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh quan hệ đó nhưng
đưa ra cách giải quyết khác nhau. Đây là trường hợp xung đột quy phạm pháp
luật trong áp dụng pháp luật. Thực tiễn pháp lý có các cách giải quyết đối với
tình huống này bằng việc lựa chọn quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao
hơn và lựa chọn quy phạm pháp luật được ban hành sau.
- Không có quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp
luật đối với sự kiện, quan hệ đó. Đây là thực trạng pháp lý có thể xảy ra ở bất
cứ quốc gia nào ngay cả đối với những quốc gia có hệ thống pháp luật hoàn
thiện ở mức cao. Thực tiễn pháp lý có cách giải quyết đối với tình huống này
bằng việc áp dụng pháp luật tương tự.
1.2.3. Ra quyết định áp dụng pháp luật
Đây là giai đoạn quan trọng nhất bởi nó phản ánh kết quả thực tế quá trình
áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền. Về bản chất, đây là giai
đoạn chuyển hóa những quy định chung được nêu ra trong các quy phạm
pháp luật thành những quyết định cụ thể, cá biệt. Các quyết định áp dụng
pháp luật được đưa ra phải đảm bảo tính khách quan, hợp pháp cũng như sự
phù hợp cả về nội dung và hình thức. Sự phù hợp của quyết định áp dụng
pháp luật được đưa ra cần phải xem xét ở cả hai khía cạnh là pháp lý và thực
tế. Theo đó, mức độ cá thể hóa càng chi tiết, sát thực về nội dung, yêu cầu và
đảm bảo khách quan thì quyết định áp dụng pháp luật càng chính xác, hiệu
quả.

Đối với các quyết định được thể hiện bằng văn bản áp dụng pháp luật thì
việc lựa chọn ngôn ngữ, văn phạm phải dễ hiểu, phải dùng từ đơn nghĩa tránh


15

dùng từ đa nghĩa dẫn đến có thể hiểu theo nhiều cách. Như vậy, văn bản áp
dụng pháp luật là văn bản do các cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm
quyền ban hành theo trình tự, thủ tục, tên gọi luật định, chứa đựng quy tắc xử
sự cá biệt, cụ thể và được thực hiện một lần trong đời sống pháp lý. Văn bản
áp dụng pháp luật có các đặc điểm cơ bản sau:
- Văn bản áp dụng pháp luật do các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền ban hành.
- Trình tự, thủ tục, hình thức và tên gọi văn bản áp dụng pháp luật được
pháp luật quy định.
- Văn bản áp dụng pháp luật chứa đựng quy tắc xử sự cá biệt, cụ thể. Các
quy tắc này nêu lên giới hạn về mức độ của hành vi mà các chủ thể được phép
tiến hành hoặc hạn chế những lợi ích vật chất hoặc tinh thần đối với chủ thể vì
những lý do được pháp luật quy định.
- Văn bản áp dụng pháp luật được thực hiện một lần đối với chủ thể có
liên quan. Đây là đặc điểm cơ bản của văn bản áp dụng pháp luật để phân biệt
với văn bản quy phạm pháp luật.
- Văn bản áp dụng pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp
nhà nước. Đảm bảo bằng biện pháp nhà nước là điều kiện để các văn bản,
quyết định áp dụng pháp luật có đủ khả năng được thực thi trên thực tế một
cách nghiêm minh và hiệu quả.
1.2.4. Tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật trên thực tế
Đây được coi là giai đoạn cuối cùng của hoạt động áp dụng pháp luật.
Việc bảo đảm cho các văn bản có hiệu lực thực thi trên thực tế có ý nghĩa
quan trọng bởi mục đích điều chỉnh của pháp luật mới đạt được trên thực tế.

Để các văn bản, quyết định áp dụng pháp luật được các chủ thể có liên quan
tôn trọng thực hiện cần chuẩn bị tốt để các chủ thể đó có khả năng thực hiện
quyền, nghĩa vụ pháp lý cũng như trách nhiệm và trách nhiệm pháp lý của họ
như: các điều kiện về kỹ thuật, pháp lý, tổ chức, xã hội và tư tưởng… Cần
tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực thi các quyết định áp


16

dụng pháp luật đối với các chủ thể có liên quan để đảm bảo hiệu lực và hiệu
quả của nó trên thực tế.
1.3. Áp dụng pháp luật tương tự
Khi xây dựng pháp luật, nhà làm luật đã cố gắng dự liệu hết điều kiện,
hoàn cảnh, tình huống có thể xảy ra trong đời sống để đưa ra các quy phạm
pháp luật điều chỉnh hành vi của con người. Tuy nhiên, xã hội phát triển quá
nhanh, nhiều vấn đề nảy sinh, hoặc do khả năng của nhà làm luật hạn chế, cho
nên pháp luật vẫn còn những lỗ hổng, có nhiều sự kiện, quan hệ xảy ra trên
thực tế liên quan đến lợi ích của cá nhân, tổ chức cần phải được pháp luật
điều chỉnh nhưng trên thực tế chưa có quan hệ pháp luật nào điều chỉnh. Nếu
chúng ta không vận dụng pháp luật để giải quyết, đợi ban hành quy phạm mới
để áp dụng thì nhiều khi quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
không được bảo đảm.
Trước tình thế ấy, pháp luật cho phép các cơ quan có thẩm quyền áp dụng
pháp luật tương tự và coi đây chỉ là biện pháp tạm thời mang tính tình thế.
Áp dụng pháp luật tương tự có hai hình thức là áp dụng tương tự quy
phạm pháp luật và áp dụng tương tự pháp luật.
Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là hình thức mà các cơ quan nhà
nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết các vụ việc xảy ra trên thực
tế bằng cách dựa trên một quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội khác
có nội dung tương tự. Điều kiện để áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là:

- Phải khẳng định được một cách chính xác là trong hệ thống pháp luật
chưa có quy phạm nào trực tiếp điều chỉnh quan hệ xã hội đang xảy ra trên
thực tế.
- Phải tìm được quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội khác có nội
dung tương tự như quan hệ xã hội đang cần điều chỉnh.
- Phải làm sáng tỏ được nhu cầu thực tế cần phải giải quyết sự việc đó là
thiết thực và có ý nghĩa đối với lợi ích của cộng đồng, nhà nước và của công
dân.


17

Áp dụng tương tự pháp luật là hình thức mà các cơ quan nhà nước, cá
nhân có thẩm quyền giải quyết các vụ việc xảy ra trên thực tế bằng cách dựa
trên cơ sở các nguyên tắc của pháp luật, pháp chế và ý thức pháp luật. Điều
kiện để áp dụng tương tự pháp luật là:
- Phải khẳng định được một cách chính xác là trong hệ thống pháp luật
chưa có quy phạm nào trực tiếp điều chỉnh quan hệ xã hội đang xảy ra trên
thực tế. Và cũng không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ xã hội
khác có nội dung tương tự như quan hệ cần điều chỉnh đang đặt ra. Mặt khác,
trên thực tế cũng không có bất cứ nguồn pháp luật nào khác cho việc điều
chỉnh, giải quyết sự việc đó.
- Phải làm sáng tỏ được nhu cầu thực tế cần phải giải quyết sự việc đó là
thiết thực và bức xúc. Nếu sự việc đó không được giải quyết, nó sẽ đem lại
hậu quả tiêu cực đối với lợi ích của xã hội, của nhà nước và của công dân.
Việc áp dụng pháp luật tương tự phải xuất phát từ lợi ích của xã hội, của
nhà nước và nhân dân lao động, đồng thời phải bảo đảm những yêu cầu của
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Không được áp dụng tùy tiện nguyên tắc tương tự.
Đối với mỗi trường hợp cần báo cáo kịp thời với những cơ quan có trách
nhiệm để có những biện pháp kiểm tra, giám sát cần thiết hoặc để kịp thời đặt

ra những quy phạm pháp luật bổ sung điều chỉnh nếu cần thiết.
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng áp pháp luật
1.4.1. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật
Hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật có liên quan chặt chẽ tới hoạt
động xây dựng pháp luật. “Để thực hiện và áp dụng pháp luật được tốt trước
hết phải có pháp luật tốt, nghĩa là, phải xây dựng được một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, đồng bộ, sát thực tế, phù hợp với các quy luật khách quan
của sự phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với những điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, tâm lý, tổ chức… mà trong đó pháp luật sẽ tác
động, đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển”
[8, tr. 6 – 11]. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thể hiện ở những tiêu


18

chuẩn như tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp
lý cao của hệ thống pháp luật.
Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật trước hết được thể hiện ở tính
toàn diện của nó. Tính toàn diện của hệ thống pháp luật đòi hỏi hệ thống pháp
luật phải đủ các ngành luật và trong mỗi ngành luật phải có đủ các chế định
pháp luật và các quy phạm pháp luật đáp ứng nhu cầu điều chỉnh của pháp
luật trên tất cả các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội: dân sự, hình sự,
thương mại, đầu tư, lao động… Không chỉ chú trọng tới luật nội dung mà còn
phải chú trọng đến luật hình thức (Bộ luật tố tụng dân sự, bộ luật tố tụng hình
sự) bởi chính luật hình thức là điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện đầy đủ,
chính xác và nghiêm chỉnh luật nội dung, bảo đảm hiệu quả cao.
Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện ở sự thống nhất của nó, giữa
các bộ phận của hệ thống pháp luật (ngành luật – chế định pháp luật – quy
phạm pháp luật) không mâu thuẫn, không trùng lặp, chồng chéo với nhau.
Trên thực tế sự đồng bộ của hệ thống pháp luật còn biểu hiện ở việc ban hành

các văn bản chi tiết, hướng dẫn thi hành đồng thời với các văn bản pháp luật
để khi văn bản pháp luật có hiệu lực thì nó cũng được tổ chức thực hiện ngay
trên thực tế, tránh tình trạng một số luật đã có hiệu lực pháp luật nhưng lại
không thể thực hiện trên thực tế vì thiếu văn bản hướng dẫn thì hành luật đó.
Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện ở sự tương quan giữa trình
độ của hệ thống pháp luật với trình độ phát triển của kinh tế xã hội. Hệ thống
pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội, không thể
cao hơn trình độ phát triển đó. Có thể nói pháp luật là đời sống xã hội được
khái quát và nâng lên thành luật thông qua hoạt động lý trí và ý chí của con
người. Do vậy, sự phù hợp của các văn bản pháp luật đặc biệt là các đạo luật
đặc biệt là vô cùng quan trọng đảm bảo cho hiệu quả của việc thực hiện pháp
luật. Trong thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta nhiều văn bản pháp luật
được ban hành chưa phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội,
đặc biệt là các quy luật phát triển kinh tế, vượt xa so với trình độ phát triển


19

kinh tế của đất nước. Có khi nhiều văn bản pháp luật vừa mới được ban hành
đã phải sửa đổi, bổ sung, thậm chí phải được thay thế bằng văn bản khác vì
nếu để nguyên không những không thực hiện được trong thực tế mà còn gây
hại cho nền kinh tế - xã hội đất nước. Phù hợp với quy luật kinh tế, pháp luật
sẽ thúc đẩy, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, ngược lại pháp luật sẽ cản trở
và thậm chí gây ra những thiệt hại nhất định chi sự phát triển kinh tế. Do vậy,
khi xây dựng pháp luật phải cân nhắc tính toán sao cho tương quan giữa các
lợi ích (cá nhân, tổ chức, cộng đồng) có sự kết hợp hài hòa và ở mức độ có
thể chấp nhận được. Tính phù hợp của hệ thống pháp luật còn đòi hỏi việc
ban hành các văn bản pháp luật phải đúng lúc, kịp thời, đáp ứng được yêu cầu
của cuộc sống chứ không phải so ý chí chủ quan của cơ quan xây dựng pháp
luật trên cơ sở giả định luật pháp xuất phát từ nhu cầu quản lý.

Cuối cùng, sự hoàn thiện của pháp luật còn thể hiện ở trình độ kỹ thuật
pháp lý cao khi xây dựng văn bản pháp luật. Nói một cách khái quát, thì kỹ
thuật pháp lý cao thể hiện ở ba điểm quan trọng là những nguyên tắc tối ưu
được vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật; ở
việc xác định chính xác cơ cấu của pháp luật; ở cách biểu đạt bằng ngôn ngữ
pháp lý đảm bảo cô đọng, lôgíc, chính xác và một nghĩa.
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật có quan hệ gắn bó mật thiết với thực
tiễn áp dụng pháp luật. Để áp dụng đúng pháp luật được tốt trước hết phải có
pháp luật tốt, nghĩa là phải xây dựng được một hệ thống pháp luật toàn diện,
đồng bộ, phù hợp với thực tế và trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Ngược lại, từ
thực tiễn áp dụng pháp luật sẽ phát hiện được những thiếu sót, khiếm khuyết
của hệ thống pháp luật, từ đó có những sáng kiến pháp luật hoặc sửa đổi, bổ
sung quy phạm pháp luật để cho pháp luật ngày càng phù hợp với thực tế
cuộc sống, có tính khả thi cao.
1.4.2. Chất lượng hoạt động tổ chức áp dụng pháp luật
Chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở hiệu quả công tác
tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật; công tác tổ chức bộ


20

máy và các hoạt động chỉ đạo việc áp dụng pháp luật; công tác kiểm tra, giám
sát việc áp dụng pháp luật.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật là khâu quan trọng đầu tiên,
không thể thiếu được của quá trình thực hiện pháp luật nói chung và áp dụng
pháp luật nói riêng. Pháp luật sau khi được ban hành nếu không được tuyên
truyền, phổ biến tới cán bộ và nhân dân để nắm bắt được nội dung, tinh thần
các quy định pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật thì pháp
luật có tốt đẹp đến đâu đi chăng nữa cũng không có ý nghĩa. Tuyên truyền,
phổ biến pháp luật là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống, là một

mắt xích quan trọng của sự tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khẳng
định vị trí của tuyên truyền, phổ biến pháp luật đảm bảo cho việc áp dụng
pháp luật có hiệu quả.
Bên cạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật mang tính bề nổi thì công
tác giáo dục pháp luật mang tính chiều sâu, nhằm trang bị cho cán bộ, công
chức nhà nước tri thức pháp luật, từ đó hình thành tình cảm và hành vi xử sự
phù hợp với các quy định của pháp luật, biết sử dụng pháp luật vào việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của mình, của nhà nước và xã hội, đấu
tranh không khoan nhượng với những biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật
trong xã hội, góp phần nâng cao ý thức trong việc áp dụng pháp luật.
Như vậy cả ba hoạt động tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật đều
là những yếu tố quan trọng bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật có hiệu quả.
Nếu như pháp luật là phương tiện hàng đầu để nhà nước quản lý xã hội và là
phương tiện để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đóng vai trò giúp đỡ cho các cơ quan,
công chức nhà nước cũng như mọi công dân biết cách sử dụng đúng đắn
phương tiện pháp luật trong công việc và đời sống hàng ngày.
Một trong những điều kiện quan trọng nhất để áp dụng pháp luật được tốt
là sự nhận thức pháp luật một cách thống nhất trong bộ máy nhà nước và ở
ngoài xã hội. Do đó rất cần giải thích pháp luật để nhân dân nói chung, cán


21

bộ, công chức nói riêng, nhận thức pháp luật thống nhất, từ đó thực hiện pháp
luật thống nhất, có hiệu quả. Không thể nói thực hiện pháp luật tốt nếu ngay
từ đầu đã không có sự hiểu thống nhất về nội dung của các quy phạm pháp
luật. Chính vì vậy, hoạt động giải thích pháp luật phải được tiến hành thường
xuyên trong suốt quá trình xây dựng pháp luật, quá trình thực hiện và áp dụng
pháp luật.

Để áp dụng pháp luật đạt được hiệu quả cao không chỉ có phổ biến, tuyên
truyền, giải thích và giáo dục pháp luật mà còn phải kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật; xử lý kịp thời nghiêm minh và nhanh chóng mọi vi phạm
pháp luật. Cần kết hợp công tác kiểm tra của Đảng, của nhà nước và của nhân
dân đối với áp dụng pháp luật; phát huy hơn nữa vai trò giám sát của các cơ
quan quyền lực nhà nước; nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo
vệ pháp luật. Đồng thời, huy động sức mạnh của toàn dân vào cuộc đấu tranh
phòng ngừa và chống các vi phạm pháp luật. Qua việc kiểm tra, giám sát áp
dụng pháp luật mới có thể phát hiện ra những vi phạm pháp luật để từ đó chấn
chỉnh các hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân, đồng thời,
thấy được những bất cập của pháp luật để có đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp. Do vậy, cần có hoạt động kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình áp dụng
pháp luật, có những biện pháp xử lý nghiêm minh với những cán bộ, công
chức có hành vi cố ý không thực hiện pháp luật hoặc thực hiện pháp luật
không đầy đủ, đi ngược lại mục đích xã hội. Xã hội hóa công tác kiểm tra,
giám sát việc áp dụng pháp luật cần được triển khai sâu rộng với sự tham gia
của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân.
Xã hội hóa công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật là một yếu
tố khách quan xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do
dân và vì dân trên cơ sở dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
1.4.3. Hiệu quả hoạt động bảo vệ pháp luật
Hoạt động bảo vệ pháp luật trước hết đó là nhiệm vụ chung của toàn xã
hội trong đó nhà nước giữ vai trò chính, nhằm bảo đảm cho pháp luật luôn


22

được tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm minh. Hiệu quả công tác bảo vệ
pháp luật càng cao bao nhiêu thì ảnh hưởng tích cực của nó tới sự hình thành
và nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, công chức và nhân dân càng cao bấy

nhiêu. Điều đó bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật ngày càng có hiệu quả.
Hoạt động bảo vệ pháp luật đòi hỏi ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp
của cán bộ, nhân viên trong đó đặc biệt chú trọng là cán bộ, công chức làm
việc trong các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật, như quân đội, công an,
viện kiểm sát, tòa án, thanh tra phải được coi trọng. Qua thực tế cho thấy
nhiều vụ án xét xử oan sai người vô tội không phải do trình độ nghiệp vụ của
người tiến hành tố tụng mà do sa sút về phẩm chất đạo đức, thoái hóa, biến
chất, quan liêu, cửa quyền của một bộ phận cán bộ, công chức, làm giảm hiệu
lực của bộ máy nhà nước. Hiệu quả bảo vệ pháp luật phụ thuộc rất lớn vào
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước nói chung, cán bộ và
công chức của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng. Do vậy, để bảo vệ pháp
luật tốt đòi hỏi người cán bộ, công chức trong cơ quan bảo vệ pháp luật phải
có phẩm chất đạo đức cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, sự hiểu
biết pháp luật sâu sắc và có ý thức pháp luật cao.
Chất lượng của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn được thể hiện ở việc tổ
chức một cách khoa học, có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mỗi cơ quan, của mỗi bộ phận để tránh hiện tượng chồng chéo,
mâu thuẫn, cản trở lẫn nhau trong công việc. Việc không quy định rõ ràng
thẩm quyền giải quyết của các cơ quan bảo vệ pháp luật dẫn đến cùng một
việc, nhiều cơ quan cùng giải quyết không thống nhất nhưng lại có những vụ
việc đùn đẩy không cơ quan nào giải quyết.
Tóm lại, hoạt động bảo vệ pháp luật là một trong những điều kiện pháp lý
quan trọng đảm bảo cho thực hiện pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật
nói riêng có hiệu quả. Có đấu tranh, phòng ngừa phát hiện vi phạm và khắc
phục vi phạm pháp luật; bảo đảm mọi vi phạm pháp luật được xử lý nghiêm
minh, kịp thời, chính xác, khách quan, công bằng và đúng pháp luật; không để


23


lọt tội phạm, không làm oan người vô tội bằng hoạt động bảo vệ pháp luật thì
mới giữ vững được kỷ cương, phép nước. Ngoài hoạt động bảo vệ pháp luật
còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật để từ đó
có thể đưa ra những giải pháp hữu ích, sáng kiến pháp luật sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và tạo cơ chế thích hợp để pháp luật
đi vào cuộc sống.
1.4.4. Trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ cán
bộ, công chức
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc” [20, tr.269] “muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém. Đó là một chân lý nhất định” [21, tr. 240]. Người cán bộ, công chức tốt
là người phải có đủ trình độ, năng lực hoàn thành tốt công việc được giao
đồng thời là người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt. Trình độ, năng lực
quản lý và phẩm chất chính trị đạo đức của cán bộ, công chức là những yếu tố
quyết định bảo đảm thực hiện pháp luật đúng đắn, có hiệu quả. Trình độ, năng
lực yếu kém, lại thiếu trách nhiệm, thiếu chủ động trong việc triển khai thực
hiện các văn bản pháp luật hiện hành thì pháp luật – dù có đúng đắn – cũng
chỉ nằm trên trang giấy. Thực trạng yếu kém trong quản lý môi trường, quản
lý an toàn lương thực, thực phẩm và nhiều lĩnh vực khác trong thời gian gần
đây rõ ràng là do trình độ, năng lực quản lý yếu kém và trách nhiệm thực thi
pháp luật của cán bộ, công chức các ngành chức năng và chính quyền địa
phương, cơ sở. Đối với các cán bộ, công chức trong các cơ quan tư pháp nếu
trình độ năng lực yếu kém sẽ tác động trực tiếp đến việc áp dụng pháp luật
dẫn đến oan sai, bỏ lọt tội phạm, xét xử thiếu công minh. Thực hiện pháp luật
nghiêm minh là yêu cầu đối với tất cả các chủ thể thực hiện pháp luật, nhưng
đối với cán bộ của các cơ quan tư pháp việc thực hiện pháp luật nghiêm minh
có yêu cầu khắt khe hơn vì thực hiện pháp luật nghiêm minh hay không
nghiêm minh của đội ngũ cán bộ này trực tiếp ảnh hưởng đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.



24

Phẩm chất chính trị, đạo đức của cán bộ công chức có ảnh hưởng trực tiếp
đến việc áp dụng pháp luật. Người cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị,
đạo đức tốt không những luôn chấp hành, tuân thủ pháp luật nghiêm minh, có
những xử sự theo đúng yêu cầu của pháp luật mà quan trọng hơn là trong quá
trình thực thi công vụ việc thực hiện pháp luật của họ cũng có cơ sở để bảo
đảm nghiêm minh, kịp thời. Sở dĩ có thể khẳng định như trên vì người cán bộ,
công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng
thì nhân cách, phẩm giá lương tâm của họ sẽ đạt được các giá trị chuẩn mực
phù hợp với yêu cầu thực hiện pháp luật. Bản thân họ với những giá trị ấy
không những không làm gì trái pháp luật mà còn tích cực chủ động, nêu cao
tinh thần phụ trách và trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực được giao. Trái lại, những cán bộ, công chức phai nhạt lý
tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống sẽ
dễ buông thả, vi phạm pháp luật, thậm chí tiếp tay, bao che cho các hành vi vi
phạm pháp luật, lợi dụng chức quyền vi phạm pháp luật để trục lợi. Như vậy,
để bảo đảm thực hiện pháp luật theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân, đối với đội ngũ cán bộ, công chức, ngoài việc
tăng cường, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ phải tăng cường công tác quản lý, kiểm
tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống.
1.4.5. Yếu tố kinh phí, vật chất bảo đảm áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi
phải có những chi phí và điều kiện vật chất nhất định. Những chi phí này bao
gồm chi phí cho công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật; chi phí
cho các cơ quan nhà nước tổ chức triển khai thực hiện pháp luật, xử lý vi
phạm pháp luật. Kinh phí và điều kiện vật chất phục vụ cho các hoạt động này
do ngân sách Nhà nước đài thọ. Mức độ chi phí và điều kiện vật chất cần thiết

cho việc thực hiện các văn bản là khác nhau. Có những văn bản pháp luật đòi
hỏi mức độ kinh phí và điều kiện vật chất không lớn, trái lại có những văn


25

bản pháp luật, nếu triển khai thực hiện đòi hỏi kinh phí và điều kiện vật chất
rất lớn. Tuy nhiên, phải quán triệt tinh thần là hoạt động áp dụng pháp luật
phải đạt được mục đích xã hội với chi phí xã hội thấp nhất cả về vật chất lẫn
tinh thần. Ngoài ra, còn phải quan tâm tới đời sống vật chất và tinh thần của
những người trực tiếp áp dụng pháp luật cũng như gia đình họ, giúp họ giảm
bớt những khó khăn tận tâm, dồn hết thời gian, sức lực, trí tuệ cho công việc,
không bị mua chuộc về vật chất, giữ được thái độ vô tư, khách quan trong
công việc. Đối với một số chức danh nhà nước cần phải có chế độ dưỡng liêm
phù hợp.
Các yếu tố bảo đảm áp dụng pháp luật nêu trên nếu được xây dựng hoàn
thiện, phát triển sẽ là điều kiện lý tưởng bảo đảm áp dụng pháp luật. Nhưng
điều đó không có nghĩa là phải hội đủ và ở một mức độ hoàn thiện cao của
các yếu tố đó mới bảo đảm cho pháp luật được áp dụng. Các yếu tố bảo đảm
áp dụng pháp luật ngoài tác động tổng thể có tính hệ thống, nền tảng, cơ sở,
điều kiện bảo đảm áp dụng pháp luật còn có tác động độc lập tương đối có
tính cộng hưởng của từng yếu tố. Vì vậy trong những không gian và thời gian
xác định, đối với những lĩnh vực cụ thể, vẫn đủ điều kiện bảo đảm cho pháp
luật được áp dụng. Đương nhiên tính vững chắc, ổn định, tự giác cao của việc
áp dụng pháp luật ở các chủ thể trong điều kiện các yếu tố nêu trên chưa đầy
đủ, hoàn thiện sẽ không bằng trong điều kiện các yếu tố bảo đảm áp dụng
pháp luật đã phát triển, hoàn thiện ở trình độ cao. Chỉ khi nào các yếu tố bảo
đảm áp dụng pháp luật phát triển, hoàn thiện ở trình độ cao mới bảo đảm việc
thực hiện pháp luật nghiêm minh, thống nhất, trở thành giá trị đạo đức trong
xã hội.



×