Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận những vấn đề cấp bách của khoa học xã hội ở nước ta hiện nay vai trò của khoa học xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.56 KB, 16 trang )

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN
NHỮNG VẤN ĐỀ CẤP BÁCH CỦA KHOA HỌC XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
ĐỀ TÀI

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HIỆN NAY

Người thực hiện:
Chuyên ngành:

HÀ NỘI, 12/2015

1


1. Những vai trò cơ bản của khoa học xã hội đối với sự phát triển
của đất nước
Trong diễn trình phát triển của lịch sử Việt Nam nói riêng và các nước
trên thế giới nói chung, khoa học xã hội luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và của nhân loại.
1.1. Khoa học xã hội xây dựng nên nền tảng tri thức, hệ giá trị tinh
thần của xã hội và cho sự phát triển của xã hội: tích luỹ và thúc đẩy sự
phát triển xã hội.
Giá trị tinh thần xã hội đa dạng, phong phú, sâu sắc sẽ tạo động lực cho
xã hội phát triển. Một xã hội sẽ phát triển, ổn định bền vững khi giá trị tinh
thần, đạo đức được nâng cao, con người sống với nhau giàu lòng nhân ái, giàu


tình thương yêu, đùm bọc, biết tự trọng và kỷ luật. Tất cả những thang bậc,
giá trị đạo đức đó sẽ làm cho xã hội giàu bản sắc văn hoá, giàu tính nhân văn.
Ở một một giai đoạn lịch sử khác nhau, đời sống vật chất sẽ quy định giá trị
tinh thần khác nhau, khoa học xã hội sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển hệ
thống tinh thần theo từng thời kỳ lịch sử.
Trong lý luận xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh quan
tâm trước hết mặt tư tưởng, tinh thần. Người cho rằng: "Muốn có con người
xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa" (1). Ở đây, giá trị tinh
thần, tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học tập,
vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội. Khi đánh giá vai trò của đạo đức, thuộc hệ giá trị tinh thần, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh và khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát
triển con người như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối.
Người nói: "Cũng giống như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân"(2). Như vậy sự hiểu biết sâu sắc, phong phú về khoa học
2


xã hội sẽ giúp việc cải tạo xã hội thành xã hội mới đồng thời sự phát triển của
khoa học xã hội trong sự phát triển của đất nước cũng phải luôn luôn tạo động
lực để khoa học xã hội thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của
dân tộc và thời đại.
1.2. Khoa học xã hội xây dựng và cung cấp những luận cứ khoa học
cho việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách phát triển của đất
nước.
Khoa học xã hội sẽ cung ứng những luận cứ khoa học cho việc xây
dựng đường lối, chủ trương của sự phát triển. Trên thế giới khoa học xã hội
góp phần rút ra hai phương pháp phát triển:

Phương pháp một: Phương pháp thử nghiệm và sai lầm (bằng thực tiễn
để kiểm nghiệm đường lối, chính sách, thấy đúng thì tiếp tục thực hiện, phát
triển, thấy sai thì điều chỉnh).
Phương pháp thứ hai: Đưa ra đường lối, chủ trương, chính sách dựa
trên những luận cứ khoa học, cân nhắc năng lực, khả năng thực hiện, đánh giá
đường lối, chủ trương, chính sách.
Nền tri thức ngày càng cao thì đường lối, chủ trương chính sách càng
phải dựa trên những luận cứ khoa học.
Đảng ta luôn coi trọng công tác lý luận, gắn chặt việc nghiên cứu lý luận
với tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm không ngừng phát triển lý luận, đưa
cách mạng nước ta tiến lên vững chắc. Nghị quyết hội nghị Trung ương 5
(khóa IX) của Đảng ta nhấn mạnh về phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu của
công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Một trong sáu nhiệm vụ chủ
yếu mà nghị quyết Trung ương 5 (khoa IX) nhấn mạnh là: "Đẩy mạnh tổng
kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta"

(3)

. Đồng thời

Đảng ta cũng nhấn mạnh tới việc chú trọng mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn, coi đó là một trong những nguyên tắc và là điều then chốt
3


để đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thúc đẩy hoạt động lý luận,
nghiên cứu lý luận.
Ngày 12/05/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị số
24-CT/TW về việc tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi

mới. Chỉ thị nêu rõ: "năm 2006, năm họp Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt
Nam, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xưởng và lãnh đạo tròn 20 năm kể
từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đến nay, tư duy lý luận của Đảng đã
được đổi mới từng bước và có những tiến bộ đáng kể"

(4)

. "Tuy nhiên, công

tác lý luận còn chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng; một số
vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta chưa được làm sáng
tỏ"(5). Việc tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới
nhằm khẳng định những thành tựu, tiến bộ, chỉ ra những hạn chế và thiếu sót
trong quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng ta, phân tích nguyên nhân,
rút ra kinh nghiệm; phát hiện những nhân tố mới và những vấn đề mới về lý
luận trong quá trình đổi mới; làm sáng tỏ hơn lý luận về một số vấn đề chủ
yếu như chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
lý giải, kết luận một số vấn đề lý luận - thực tiễn, còn cú những ý kiến khác
nhau hoặc mới nảy sinh trong quá trình đổi mới. Việc tổng kết đó phải từ thực
tiễn đổi mới của đất nước mà tổng kết lý luận và tham khảo có chọn lọc kinh
nghiệm của nước ngoài. Đồng thời sự tổng kết phải có quan điểm biện chứng,
lịch sử cụ thể, khách quan; nhìn thẳng vào sự thật, báo cáo trung thực, phát
huy tự do tư tưởng, thảo luận dân chủ; đề xuất được những luận điểm mới có
căn cứ khoa học và những giải pháp mới, đúng đắn để tiếp tục đưa công cuộc
đổi mới của đất nước ta tiến lên.
Đảng ta đã xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng.
Đảng phải có một lý luận tiền phong, lý luận mang tính cách mạng và khoa
học hướng dẫn, soi đường. Mọi thắng lợi, tổn thất của cách mạng nước ta đều
4



liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến việc Đảng ta vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mức độ quán
triệt tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước. Do đó,
vai trò của lý luận là rất to lớn, nó trang bị cho người cán bộ lãnh đạo các cấp
thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương pháp luận đúng
đắn, nhãn quan chính trị rộng lớn để nhận thức vấn đề một cách toàn diện, có
ý thức tự giác và tích cực trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ do Đảng đề
ra, tổ chức thực hiện nhiệm vụ đạt kết quả cao. Xây dựng, rèn luyện cho mình
những phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo khoa học để tiếp thu, nắm bắt tình hình
nhanh nhạy, chính xác. Có nắm vững thực chất tính cách mạng và tính khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng mới có khả
năng hiểu được bản chất và xu hướng phát triển của sự vật để đề ra đường lối
chính sách đúng đắn, đáp ứng những yêu cầu của cách mạng. Trình độ lý luận
Mác - Lênin của một Đảng phụ thuộc vào việc nghiên cứu, học tập lý luận
của Đảng đó. Vì vậy, Đảng phải coi trọng việc nâng cao trình độ lý luận chính
trị, tư duy lý luận cho cán bộ đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp nói riêng.
Sau hơn 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân, công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn và
quan trọng. Những thành tựu đổi mới trên đây bắt nguồn từ đổi mới tư duy.
Việc đổi mới tư duy mà Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra (năm
1986) có ý nghĩa rất quan trọng cho việc tiếp tục đổi mới về sau. Khi công
cuộc đổi mới được triển khai vào chiều sâu thì đổi mới tư duy càng được đẩy
mạnh. Bất cứ một sự ngưng trệ nào trong tư duy cũng đều làm ngưng trệ công
cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn đổi mới
về kinh tế, chính trị, xã hội vừa là kết quả của đổi mới tư duy lý luận, lại vừa
đặt ra những yêu cầu mới cho việc tiếp tục đổi mới tư duy lý luận ở giai đoạn
cao hơn. Ở Việt Nam, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội,
5



mà làm cho chủ nghĩa xã hội đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là rời xa
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà là nhận thức, vận dụng
sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng ấy. Đổi mới không phải là phủ
định quá khứ mà là khẳng định những gì hiểu đúng, làm đúng; loại bỏ những
gì hiểu sai, làm sai; bổ sung những nhận thức mới, cách làm mới, đáp ứng yêu
cầu của tình hình, nhiệm vụ mới.
Sự đòi hỏi phát triển của lý luận để chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Khi nói
về vai trò mở đường của lý luận khoa học đối với việc cách mạng hóa hiện
thực, cách đây hơn một thế kỷ, Ph.Ăngghen cho rằng, nếu trước kia cách
mạng bắt đầu trong đầu óc của những người thầy tu, thì bây giờ cách mạng
bắt đầu trong đầu óc của các nhà triết học. Xét về phạm vi bao quát, tầm sâu
sắc của những biến đổi cần đạt được trong sự phát triển xã hội, có thể xem
công cuộc đổi mới đất nước theo mục tiêu XHCN mà chúng ta đang thực hiện
là một cuộc cách mạng. Để đưa cuộc cách mạng đó tới thắng lợi hoàn toàn,
thì phát triển lý luận trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, bởi công
cuộc cách mạng XHCN và xây dựng CNXH theo đường lối đổi mới ở nước ta
đang đứng trước nhiều vấn đề phức tạp, to lớn và khó khăn mà lý luận và thực
tiễn trước đây chưa đặt ra. Trong khi đó, trình độ lý luận của một bộ phận
không nhỏ đảng viên, cán bộ nhìn chung chưa theo kịp được sự phát triển và
yêu cầu của cách mạng. Nhiều vấn đề đặt ra chưa có câu trả lời thoả đáng và
kịp thời. Bước vào thời kỳ phát triển mới của cách mạng, lãnh đạo xây dựng
CNXH trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng đứng trước hàng loạt vấn đề
mới, những mâu thuẫn mới chưa bao giờ gặp phải, cả về lý luận và thực tiễn,
những vấn đề mới đặt ra. Chẳng hạn, các vấn đề như CNXH có kết hợp được
với kinh tế thị trường hay kinh tế thị trường tự nó sẽ triệt tiêu CNXH? Trong
thực tế, kinh tế Nhà nước có thể đóng vai trò chủ đạo được trong nền kinh tế
thị trường không? Làm gì và làm như thế nào để nâng cao tính hiệu quả của
các doanh nghiệp nhà nước? Cần phải sắp xếp lại, thậm chí có thể giảm tỷ

6


trọng của khu vực kinh tế Nhà nước, nhưng giảm đến mức nào là phù hợp mà
vẫn giữ được định hướng XHCN trong nền kinh tế? Có thể cho phép kinh tế
tư bản tư nhân phát triển đến mức nào? Hay không hạn chế? Vấn đề đảng
viên làm kinh tế tư nhân...?
Sau gần 6 năm thực hiện đổi mới, từ những thành tựu đã đạt được cũng
như từ những vấn đề đang đặt ra, ngày 28-3-1992, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết số 01-NQ/TW Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay. Từ khi có
Nghị quyết số 01 nêu trên, công tác lý luận của Đảng ta đã có nhiều thành tựu
rất quan trọng.
Việc thực hiện Nghị quyết đó đã góp phần quyết định trong việc tạo ra
sự thống nhất trên những điểm căn bản liên quan tới quan niệm về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong quá trình đổi
mới vừa qua, Đảng ta luôn phải giải quyết nhiều vấn đề mới về nguyên tắc,
chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Từ thực tiễn giải quyết những vấn đề đó,
Đảng ta đã mang lại những phát triển có giá trị đối với một số vấn đề lý luận
liên quan tới quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến lại chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh trong bối
cảnh quốc tế có không ít diễn biến phức tạp. Nhờ vậy, quan niệm về một số
vấn đề căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, của quá
trình đổi mới nói riêng ngày càng rõ nét và đúng đắn hơn.
Trong giai đoạn hiện nay, dân tộc ta bước vào thế kỷ mới, bước vào
thiên niên kỷ mới với hành trang đã được tạo ra sau 80 năm cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là những thành tựu to lớn mà nhân dân ta đạt
được trong những năm đổi mới vừa qua. Mặt khác, Đảng và dân tộc ta cũng
đang đứng trước không ít thử thách cam go: kinh tế phát triển chưa vững
chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh còn rất thấp; nhiều vấn đề văn hóa - xã hội
bức xúc chậm được giải quyết; một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên

thoái hóa, biến chất; bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa
7


VII của Đảng nêu ra đang diễn biến phức tạp.
Không thể phủ nhận thực tế là, qua thực tiễn đổi mới và học tập lý luận,
năng lực lý luận của Đảng, của dân tộc ta đã được nâng lên; quan niệm về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
làm rõ hơn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta đã có
bước trưởng thành về nhiều mặt, chẳng những đã tổ chức thực hiện có hiệu
quả các nhiệm vụ chính trị, mà còn góp phần hoạch định ra đường lối, chủ
trương đổi mới đúng đắn. Song chúng ta cũng thấy rằng để đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo,
đạt mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" thì
không ít vấn đề mới đã xuất hiện mà việc giải đáp chúng còn rất chậm trễ.
Công cuộc đổi mới càng tiến lên, càng làm xuất hiện nhiều vấn đề mới
về nguyên tắc. Chẳng hạn, tiếp theo thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đất nước ta sẽ phải trải qua những chặng đường nào nữa mới có thể
kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa sẽ thay đổi ra sao để ra đời nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với
nội dung đích thực của nó? Nền kinh tế độc lập, tự chủ trong xu hướng khu
vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng gia tăng, cả thế giới là một thị trường
sẽ có diện mạo ra sao và làm cách nào để đạt được một nền kinh tế độc lập, tự
chủ? Bằng cách nào để loại bỏ tình trạng quan liêu, tham nhũng trong một bộ
phận cán bộ của bộ máy Đảng và Nhà nước, nhằm làm cho Đảng ta thực sự
trở thành biểu tượng về danh dự, về lương tâm, về trí tuệ của thời đại và Nhà
nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, làm thế nào để hội nhập
kinh tế quốc tế, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển đất nước mà vẫn giữ
vững, tăng cường bản sắc văn hóa dân tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc
gia - trong khi nhiều "luật chơi" của toàn cầu hóa, nhiều định chế kinh tế quốc

tế mà chúng ta đã và sẽ tham gia được ra đời dưới tác động của chủ nghĩa tư
bản, là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản? Để giữ vững định hướng xã hội chủ
8


nghĩa, ngoài tiền đề chính trị (giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường
hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân...), trên lĩnh vực kinh tế, kinh tế nhà nước phải nắm vai trò chủ đạo. Song,
"chủ đạo" nghĩa là thế nào? Làm thế nào để kinh tế nhà nước nắm được vai
trò chủ đạo trong khi hiện nay, hiệu quả của nó không cao? Phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước phải được thay đổi như thế nào. Gần đây, thế
giới có những biến động rất phức tạp, làm nảy sinh nhiều vấn đề mới mà việc
giải đáp chúng có quan hệ mật thiết tới cả việc hoạch định và hoàn thiện
đường lối phát triển đất nước.
Trong khi tình hình đất nước và thế giới đòi hỏi phải nắm vững, bảo vệ
và phát triển không ngừng học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, để
tìm ra con đường phát triển đất nước đúng đắn, làm thất bại mọi âm mưu
chống phá của kẻ thù, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại dưới mọi hình
thức, thì năng lực lý luận của chúng ta lại tỏ ra có nhiều điểm bất cập. Nhiều
vấn đề mới nảy sinh chậm được giải đáp về lý luận. Không ít vấn đề quan
trọng, mà lý luận chưa làm được vai trò mở đường, phần nào bị thực tiễn vượt
qua, đi theo sau thực tiễn. Khi thực tiễn mới xuất hiện, lý luận chưa có sự giải
thích đầy đủ nhằm định hướng cho sự vận động của thực tiễn đó. Thậm chí,
do năng lực lý luận bị hạn chế, đôi khi đã thay sự luận chứng khoa học bằng
việc lấy những kết luận của Nghị quyết, lấy Văn kiện Đại hội để minh họa
cho những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn mới. Nhiều vấn đề nảy sinh trong
công cuộc đổi mới chưa được làm sáng tỏ về phương diện lý luận. Nhiều vấn
đề kinh tế - xã hội còn thiếu những dự báo khoa học. Việc tổng kết thực tiễn
bị xem nhẹ. Tình trạng chậm trễ trong một số lĩnh vực lý luận và khoa học xã
hội chưa được khắc phục.

Việc giải quyết những vấn đề đó và nhiều vấn đề khác không thể chỉ trông
chờ vào những kinh nghiệm của ngày hôm qua, mặc dù những kinh nghiệm
đó là rất quan trọng. Trong không ít trường hợp, việc giải đáp nhiều vấn đề
9


mới như vậy đòi hỏi phải có sự đột phá về lý luận. Trước tình hình đó, công
tác lý luận cần đạt tới chất lượng cao hơn và thiết thực hơn, góp phần tích cực
vào việc giải quyết những vấn đề lý luận do sự nghiệp cách mạng trong thời
kỳ mới của dân tộc đặt ra.
Vai trò của khoa học đối với sự phát triển của đất nước
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, khoa học xã hội có vai trò rất to lớn
trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, góp phần quan trọng
vào công tác tư tưởng của Đảng, đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay
ở nước ta.
Đảng ta luôn coi trọng nghiên cứu khoa học xã hội, gắn chặt việc
nghiên cứu khoa học xã hội đối với tổng kết thực tiễn nhằm không ngừng
phát triển khoa học xã hội đưa cách mạng nước ta tiến lên vững chắc.
Đặc biệt trong lĩnh vực lý luận chính trị, Nghị quyết hội nghị Trung
ương 5 (khoá IX) của đảng ta nhấn mạnh về phương hướng và nhiệm vụ chủ
yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Một trong sáu nhiệm
vụ chủ yếu mà Nghị quyết TW 5 (khoa IX) nhấn mạnh là "Đẩy mạnh tổng kết
thực hiện và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên CNXH ở nước ta". Đồng thời Đảng ta cũng nhấn
mạnh tới việc chú trọng mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, coi
đó là một trong những nguyên tắc và là điều then chốt để đẩy mạnh công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, thúc đẩy hoạt đọng lý luận, nghiên cứu lý luận là
một bộ phận của khoa học xã hội.
Việc tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua hai mươi năm đổi
mới nhằm khẳng định những thành tựu tiến bộ, chỉ ra những hạn chế và thiếu

sót trong quá trình phát triển tư duy, lý luận của Đảng ta, phân tích nguyên
nhân, rút ra kinh nghiệm, phát hiện những nhân tố mới và những vấn đề mới
về lý luận trong quá trình đổi mới; làm sáng tỏ hơn lý luận về một số vấn đề chủ
yếu như chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
10


1.3. Khoa học xã hội xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho sự
phát triển của đất nước
Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định cho sự phát triển đất nước. Con
người được coi là chủ thể là mục tiêu, là động lực, là nhân tố của sự phát triển
vì vậy luôn phải coi trọng, chăm sóc và phát huy nhân tố con người.
Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ tương, đường lối,
chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của. Có thể là lợi
ích lâu dài, lợi ích trước mắt, lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai
cấp, tầng lớp và cá nhân.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, toàn thể đồng bào song trước hết là giai cấp công nhân và nông dân.
Con người là động lực chỉ có thể được thực hiện khi hoạt động có tổ chức, có
lãnh đạo. Vì vậy cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Giữa con người mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cùng
chăm lo con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người động
lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người động
lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Như vậy khoa học xã hội trong việc phát triển một nguồn nhân lực tốt
phục vụ cho sự phát triển của đất nước bằng việc huy động và sử dụng các
nguồn lực.
Để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển kinh tế
hiện nay đến năm 2020, cần xây dựng những quan điểm thích hợp trên
phương diện phát huy động lực tinh thần nhằm đáp ứng mục tiêu huy động và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.

Tóm lại, Nâng cao năng lực cạnh tranh nguồn nhân lực nước ta để đáp
ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức là một
yêu cầu khách quan. Vì vậy, nội dung phát triển cần hướng tới những vấn đề
về số lượng, chất lượng và cơ cấu của nguồn nhân lực trong đó chú trọng đặc
11


biệt đến vấn đề khai thác, trọng dụng và sử dụng nhân lực tri thức; kết hợp
chặt chẽ giữa trọng thị, trọng dụng và trọng đãi nhân tài. Ba khâu này liên
quan chặt chẽ với nhau trong từng thời điểm, từng lĩnh vực, những khâu này
có thế mạnh, yếu khác nhau nhưng không được bỏ qua khâu nào. Việc trọng
dụng sẽ là động lực quan trọng thu hút nhân lực tri thức. Thật sự trọng dụng
là biểu hiện tốt đẹp của trọng thị. Trọng đãi là sự trả công xứng đáng cho
đóng góp của nhân tài đối với cơ quan sử dụng. Cụ thể hóa 3 khâu trọng thị,
trọng dụng và trọng đãi nhân tài sẽ tạo ra được các giải pháp tổng thể cho thu
hút nhân tài. Những nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ và làm tiền đề cho
nhau và không được coi nhẹ mặt nào. Sự phát triển vừa mang tố chất dân tộc,
vừa mang tố chất của thời đại nhất định sẽ tạo ra một bước ngoặc lớn trong
quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh nguồn nhân lực của nước ta so với các
nước trong khu vực và thế giới trong thời gian tới.
1.4. Khoa học xã hội thực hiện vai trò tư vấn chính sách cho sự phát
triển của đất nước ở những giác độ khác nhau.
Người tư vấn phải có năng lực thuyết phục, có trình độ, có trí tuệ, có kĩ
năng và phải biết chia sẻ. Mặt khác từ các cơ quan thực hiện đường lối chủ
trương chính sách cũng phải có tinh thần cầu thị để rút ra phương hướng trong
việc hoạch định đường lối, chính sách, cần tạo ra cơ chế giữa nhà khoa học và
người quản lý. Thực tiễn cho thấy khoa học xã hội ở Việt Nam đang từng
bước tích cực thực hiện vấn đề này.
Ví dụ trong bảy nhóm chủ trương, chính sách, giải pháp lớn chủ yếu tại
Đại hội IX có sự tư vấn đặc biệt của khoa học xã hội đề ra những nội dung cơ

bản sau:
- "Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh
nghiệp và công dân đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh.

12


Phấn đấu trong vòng 5 năm (2001 – 2005) hoàn thành cơ bản việc
chuyển đổi cơ cấu, sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả,
năng lực cạnh tranh của kinh doanh Nhà nước; hoàn thành việc chuyển đổi
các hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã.
- Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển hoàn thiện các loại thị
trường đi đôi với việc xây dựng các khuôn khổ pháp lý và thể chế cần thiết để
thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi
trường cạnh tranh lành mạnh, có giải pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian
lận thương mại.
- Tăng cường hiệu lực của các công cụ, chính sách quản lý vi mô, tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại.
- Có chính sách phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ.
- Tiếp tục đổi mới chính sách xã hội, chính sách bảo vệ môi trường.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy Nhà nước trong
sạch vững mạnh"(6).
Tất cả những chủ trương chính sách đều được khoa học xã hội tư vấn,
dựa trên những luận cứ khoa học nhất định. Như vậy khoa học xã hội đã góp
phần quan trọng trong việc đổi mới tư duy lý luận, thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết là đổi

mới tư duy lý luận trên tất cả các lĩnh vực của sự phát triển xã hội nhất là đổi
mới tư duy về kinh tế đồng thời trực tiếp đề xuất kiến nghị và tham gia xây
dựng nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
1.5. Khoa học xã hội truyền bá và phổ biến tri thức về khoa học xã
hội Việt Nam với các nước trên thế giới

13


Việt Nam trong quá trình hội nhập sâu và rộng. Trên thế giới cuộc cách
mạng khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin đã có những bước
phát triển nhảy vọt dẫn đến những thay đổi to lớn trong lịch sử xã hội loài
người. Nhân loại đang bước vào nền văn minh trí tuệ mà lại đặc trưng cơ bản
là xã hội thông tin và kinh tế tri thức; cách mạng khoa học và công nghệ là
động lực xuyên quốc gia, làm cơ sở cho quá trình toàn cầu hoá trong cuộc
cạnh tranh để tồn tại và phát triển; xu hướng liên kết hợp tác đang diễn ra
mạnh mẽ với nhiều cấp độ cả về nhiều mặt giữa các nước khác nhau.
Khoa học xã hội sẽ đóng góp vai trò quan trọng trong việc tiếp biến,
tiếp nhận và truyền bá ra thế giới và khu vực các thành tựu của khoa học xã
hội để thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Bằng các cuộc hội thảo khoa học
và xã hội Việt Nam hội nhập và phát triển các sách báo dịch ta tiếng nước
ngoài. Khoảng 5 triệu người Việt Nam ở nước ngoài cũng là một kênh truyền
bá khoa học xã hội Việt Nam ra thế giới và tiếp nhận thành tựu khoa học xã
hội của nhân loại để đưa Việt Nam từng bước hội nhập và phát triển trong xu
hướng đa phương hoá, toàn cầu hoá.
Đại hội X ( 4/2006) nêu rõ: “Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn … Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng
cũng chứa đựng những yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn
cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn
vốn, công nghệ … giữa các nước ngày cành gay gắt. Khoa học và công nghệ

sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn …Các mẫu thuẫn lớn của thời
đại vẫn rất gay gắt. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các
tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm
nước giàu và nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng dân
di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi
trường tự nhiên bị huỷ hoại, khí hậu diễn biến ngày càng xấu, kem theo
14


những thiên tai khủng khiếp, các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia
có chiều hướng tăng”(7). Đảng ta cũng phân tích kỹ hơn và nhận thức rõ hơn
về cục diện Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương, những tiềm năng
cũng như những thách thức nảy sinh trong khu vực này: “ở khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, xu thế hoà bình, hợp
tác và phát triển tiếp tục gia tăng, nhưng luồn tiềm ẩn những nhân tố gây bất
ổn định như: Tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ
biến đảo, tài nguyên giữa các nước; những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội
ở một số nước … “(8).
Những nhận định đánh giá một cách toàn diện chuẩn xác những chuyển
biến mới trong sự vận động của tình hình thế giới là một trong những cơ sở để
hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đảng
tiếp tục khẳng định việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa là đặc trưng của chính sách đối ngoại rộng mở.
Kết luận
Với những đóng góp của mình, khoa học xã hội đã góp phần quan trọng
giúp đổi mới tư duy lý luận. Đặc biệt trong công cuộc hội nhập và phát triển
kinh tế đất nước, khoa học xã hội đã cung cấp những luận cứ xã hội cho việc
xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa trước hết là đổi mới tư duy lý luận trên tất cả các lĩnh vực

phát triển xã hội nhất là đổi mới tư duy về kinh tế đồng thời trực tiếp đề xuất
kiến nghị và tham gia xây dựng nhiều chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2009), trang 108, NXBKTQD Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), tr252 - 253, NXB CTQG, Hà Nội.
3. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, khóa IX, trang 134.
4. Báo cáo tổng kết "Một số vấn đề lý luận thực tiễn qua 20 năm đổi mới,
trang 19.
5. Báo cáo tổng kết "Một số vấn đề lý luận thực tiễn qua 20 năm đổi mới",
tr19 - 20.
6. Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX, NXB CTQG, Hà Nội 2004, tr 92 - 93.
7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, tr73 - 74, 112 NXB CTQG, Hà Nội 2006.

16



×