Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

ĐỀ TÀI: PHÁP LUẬT VIỆT NAM về HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.85 KB, 35 trang )

Contents

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Khuyến mại là một trong những công cụ quan trọng trong hệ thống

hoạt động xúc tiến thương mại của doanh nghiệp, theo đó muốn tồn tại và
đứng vững trên thương trường thì các doanh nghiệp đều cần phải tổ chức các
hoạt động khuyến mại. Thực tế đặt ra là muốn có những chương trình khuyến
mại hiệu quả mà đúng đắn để mang lại lợi ích chung cho xã hội thì cần có sự
kết hợp tốt giữa doanh nghiệp, người tiêu dùng và hệ thống pháp lý.
Có thể nói hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay cùng với
sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cùng với sự hộ trợ tích
cực của các kênh thông thì công tác kiểm tra giám sát của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với hoạt động khuyến mại của thương nhân đã và
đang được từng bước hoàn thiện.
Nhìn chung các chương trình khuyến mại hiện nay đều đã được các
thương nhân thực hiện một cách nghiêm túc đúng pháp luật , tôn trọng và bảo
vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng . Tuy nhiên bên cạnh các doanh
nghiệp thực hiện một cách nghiêm túc các chương trình khuyến mại thì vẫn
còn một số doanh nghiệp đã vi phạm các quy định của pháp luật về hoạt động
khuyến mại làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác, ảnh hưởng đến quyền
lợi người tiêu dùng. Trong khi đó, các quy định của pháp luật vẫn chưa thật
sự hoàn thiện vẫn còn có những điểm bất cập gây khó khăn cho doanh nghiệp
hoặc gây khó khăn cho việc quản lý hoạt động này.


Chính vì những lý do trên chúng tôi quyết định thực hiện đề tài “Hoạt
động khuyến mại theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam. Thực


trạng và giải pháp”. Thông qua đề tài này chúng tôi sẽ cung cấp cái nhìn khái
quát về thực trạng khuyến mại hiện nay của nước ta để từ đó đi sâu vào phân
tích những bất cập của pháp luật Việt Nam về khuyến mại, qua đó chúng tôi
mạnh dạn đưa ra những kiến nghị hoàn thiện.
2.

Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về hoạt động khuyến mại

hiện này vẫn chưa có nhiều công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề
này, hiện nay mới chỉ có một số đề tài nghiên cứu về một số vấn đề như đề
tài “Pháp luật về khuyến mại một số vướng mắc về lý luận và thực tiễn” _Tạp
chí luật học số 7/2007 của Tiến sĩ Nguyễn Thị Dung, hoặc một số bài viết
không rõ tác giả như “thực trạng hoạt động khuyến mại ở nước ta”; đề tài
“bất cập trong quy định của pháp luật về khuyến mại”; đề tài “bất cập trong
quy định của pháp luật về hoạt động khuyến mại và giải pháp hoàn thiện các
quy định đó”; đề.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài mà chúng tôi lựa chọn là các quy

định của pháp luật về hoạt động khuyến mại tại Việt Nam thực trạng áp dụng
và hướng giải quyết
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi thực hiện trong tổng thể các
quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động khuyến mại tại Việt Nam
4.

Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên


cứu sau:
+ Phương pháp thống kê nhằm đưa ra các số liệu về tình hình hoạt
động khuyến mại của các doanh nghiệp, đưa ra các số liệu về sự ảnh hưởng
của hoạt động khuyến mại đến người tiêu dùng


+ Phương pháp so sánh, phân tích các quy định của pháp luật liên quan
và việc thực thi pháp luật khuyến mại trên thực tế của các chủ thể liên quan.
+ Qua đó bằng phương pháp tổng hợp có chiều sâu chúng tôi đưa ra
được những hạn chế, bất cập và những giải pháp mang tính cấp thiết.
5.

Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung được chia thành 2

chương chính:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khuyến mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động khuyến mại ở nước ta hiện nay,
nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHUYẾN MẠI
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của khuyến mại

1.1.1.

Khái niệm của khuyến mại
Khuyến mại là một trong các hình thức xúc tiến thương mại được các


thương nhân sử dụng để thúc đẩy việc mua bán hàng hóa của mình. Vậy để
hiểu thế nào là khuyến mại trước tiên chúng tôi xin đề cập đến khái niệm về
hoạt động xúc tiến thương mại. Có nhiều cách hiểu khác nhau về hoạt động
xúc tiến thương mại. Ở góc độ ngôn ngữ “xúc tiến thương mại là hoạt động
xúc tiến việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ”, ở góc độ kinh tế theo
định nghĩa của Viện nghiên cứu thương mại – Viện nghiên cứu phát triển tư
vấn phát triển kinh tế xã hội nông thôn và miền núi (2003) thì xúc tiến thương
mại được hiểu là “tất cả các biện pháp có tác động khuyến khích phát triển
thương mại”.Còn ở góc độ pháp lý, hoạt động xúc tiến thương mại được định
nghĩa cụ thể tại Khoản 3 Điều 10 luật thương mại năm 2005 theo đó: “ Xúc
tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và
cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại,
trưng bày, giới thiệu hàng hóa dịch vụ và hội chợ triển lãm thương mại”.


Trong phạm vi của đề tài chúng tôi chỉ thực hiện nghiên cứu về một
trong các hoạt động được xem là xúc tiến thương mại đó là hoạt động khuyến
mại. Vậy khuyến mại là gì? Khái niệm về hoạt động khuyến mại lần đầu tiên
xuất hiện khi luật thương mại năm 1997 ra đời khi đó hoạt động khuyến mại
được hiểu là “Khuyến mại là hành vi thương mại của thương nhân nhằm xúc
tiến việc bán hàng, cung ứng dịch vụ trong phạm vi kinh doanh của thương
nhân bằng cách dành những lợi ích nhất định cho khách hàng”. Đến ngày 14
tháng 6 năm 2005 Quốc hội đã ban hành luật thương mại 2005 có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2006 thay thế cho Luật thương mại năm 1997 trong đó
có quy định về hoạt động khuyến mại. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 88
Luật thương mại 2005 thì “khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của
thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa cung ứng dịch vụ bằng
cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”.
1.1.2. Đặc điểm của khuyến mại

Theo khái niệm đã nêu trong quy định của luật thương mại thì khuyến
mại có những đặc điểm cơ bản sau:
Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân. Vậy thương
nhân ở đây là ai? Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại năm
2005: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh”. Như vậy, qua định nghĩa về thương nhân thì: cá nhân, pháp
nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện để trở thành
một thương nhân thì có thể thực hiện các hoạt động khuyến mại. Để tăng
cường cơ hội thương mại, thương nhân được phép tự mình thực hiện việc
khuyến mại, cũng có thể lựa chọn dịch vụ khuyến mại cho thương nhân khác
để kinh doanh, quan hệ dịch vụ này hình thành trên cơ sở hợp đồng dịch vụ
khuyến mại giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại và thương nhân kinh
doanh dịch vụ.


Cách thức xúc tiến thương mại bằng hình thức khuyến mại là dành cho
khách hàng những lợi ích nhất định. Tùy thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến
mại, tùy thuộc vào trạng thái cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên
thương trường, tùy thuộc vào điều kiện kinh phí dành cho khuyến mại, lợi ích
mà thương nhân dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng
thử, mua hàng giảm giá.. hoặc là lợi ích phi vật chất khác, khách hàng dùng
thử có thể là người tiêu dùng hoặc các trung tâm phân phối.
Mục đích của khuyến mại là xúc tiến mua bán hàng và cung ứng dịch
vụ. Để thực hiện mục đích này các đợt khuyến mại có thể hướng đến mục tiêu
lôi kéo hành vi mua sắm, sử dụng dịch vụ của khách hàng, giới thiệu một sản
phẩm mới, kích thích trung gian phân phối chú ý hơn đến hàng hóa của doanh
nghiệp, tăng lượng hàng đặt mua…thông qua đó tăng thị phần của doanh
nghiệp trên thị trường hàng hóa, dịch vụ.
1.2. Các hình thức khuyến mại theo Luật thương mại 2005

Có nhiều hình thức khác nhau để thương nhân dành cho khách hàng
những lợi ích nhất định, lợi ích mà khách hàng nhận được có thể là lợi ích vật
chất hoặc lợi ích phi vật chất như cung ứng dịch vụ miễn phí. Theo quy định
tại điều Điều 92 Luật thương mại 2005 thì thương nhân được sử dụng các
hình thức khuyến mại sau:
Một là, Đưa hàng hoá mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng
thử không phải trả tiền.
Thực hiện cách thức này, thương nhân đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ
để khách hàng dùng thử không phải trả tiền. Thông thường, hàng mẫu được
sử dụng khi thương nhân cần giới thiệu một sản phẩm mới hoặc một sản
phẩm đã cải tiến, do vậy hàng mẫu để dùng thử là hàng đang bán hoặc sẽ
được bán trên thị trường. Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 37/2006/
NĐ-CP Nghị định hướng dẫn chi tiết Luật thương mại năm 2005 về hoạt động
xúc tiến thương mại (sau đây viết tắt là Nghị định số 37/2006/NĐ-CP)


+ Hàng mẫu đưa cho khách hàng, dịch vụ mẫu cung ứng cho khách
hàng dùng thử phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp mà
thương nhân đang hoặc sẽ bán, cung ứng trên thị trường.
+ Khi nhận hàng mẫu, dịch vụ mẫu, khách hàng không phải thực hiện
bất kỳ nghĩa vụ thanh toán nào.
+ Thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại theo hình thức đưa
hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu phải chịu trách nhiệm về chất lượng của
hàng mẫu, dịch vụ mẫu và phải thông báo cho khách hàng đầy đủ thông tin
liên quan đến việc sử dụng hàng mẫu, dịch vụ mẫu.
Hai là, Tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu
tiền.
Thương nhân được phép tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách
hàng không thu tiền để thực hiện mục tiêu xúc tiến thương mại, tặng quà được
thực hiện đối với khách hàng có hàng vi mua sắm hàng hóa hoặc sử dụng dịch

vụ của thương nhân. Hàng hóa, dịch vụ dùng làm quà tặng có thể là hàng hóa,
dịch vụ mà thương nhân đang kich doanh hoặc là hàng hóa dịch vụ của
thương nhân khác để khuyến mại khuyến khích sự liên kết xúc tiến thương
mại của các thương nhân nhằm khai thác lợi ích tối đa, việc tặng quà trong
trường hợp này không chỉ có ý nghĩa kích thích hành vi mua sắm, sử dụng
dịch vụ của khách hàng mà các thương nhân còn có cơ hội quảng cáo, giới
thiệu về hàng hóa, dịch vụ của nhau.
Thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại bằng hình thức tặng
hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không tiền, không kèm theo việc
mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Phải chịu trách nhiệm về chất lượng
của hàng hóa, tặng cho khách hàng, dịch vụ không thu tiền và phải thông báo
cho khách hàng đầy đủ thông tin liên quan đến việc sử dụng hàng hóa, dịch
vụ đó.


Ba là, bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá
cung ứng dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng
ký hoặc thông báo. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quản
lý giá thì việc khuyến mại theo hình thức này được thực hiện theo quy định
của Chính phủ.
Giảm giá là hành vi bán hàng, cung ứng dịch vụ trong thời gian khuyến
mại với giá thấp hơn giá bán, giá cung ứng dịch vụ bình thường trước đó
được áp dụng để khuyến mại mà thương nhân đã đăng kí hoặc thông báo cho
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu hàng hóa dịch vụ thuộc diện nhà nước
quản lý thì hoặt động hoạt động khuyến mại này được thực hiện theo quy định
của Chính phủ. Khi khuyến mại dưới dình thức này để đảm bảo môi trường
cạnh tranh lành mạnh, chống hành vi bán phá giá, pháp luật thường có quy
định giới hạn mức độ đối với từng hàng hóa, dịch vụ. Việc giới hạn này là rất
cần thiết đê đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp xúc tiến thương mại, của
người tiêu dùng, khách hàng và của thương nhân. Theo quy định tại Điều 9

Nghị định số 37/2006/NĐ-CP:
+ Trong trường hợp thực hiện khuyến mại bằng hình thức giảm giá thì
mức giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại trong thời gian khuyến mại
tại bất kỳ thời điểm nào phải đảm bảo mức giảm tối đa đối với hàng hóa, dịch
vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay
trước thời gian khuyến mại.
+ Không được giảm giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trong
trường hợp giá bán hàng hóa, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quy định giá cụ
thể.
+ Không được giảm giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ xuống thấp
hơn mức giá tối thiểu trong trường hợp giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch
vụ thuộc diện Nhà nước quy định khung giá hoặc quy định giá tối thiểu.


+ Tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mại bằng cách giảm
giá đối với một loại nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ không được vượt quá 90
(chín mươi) ngày trong một năm; một chương trình khuyến mại không được
vượt quá 45 (bốn mươi lăm) ngày.
+ Nghiêm cấm việc lợi dụng hình thức khuyến mại này để bán phá giá
hàng hóa, dịch vụ.
Bốn là, bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu
sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định.
Theo các chương trình này, khách hàng có thể được hưởng những lợi
ích nhất định theo những phương thức khác nhau, thông thường phiếu mua
hàng sẽ được phát cho khách hàng khi khách hàng đến mua hàng tại công ty,
phiếu mua hàng thường có ý nghĩa giảm giá hoặc có mệnh giá nhất định để
thanh toán cho những lần mua hàng sau trong hệ thống bán hàng của thương
nhân. Ngòai ra hiện nay phiếu mua hàng có thể được phát qua đường bưu
điện, gói vào trong hay kèm theo một sản phẩm khác hoặc cũng có thể là
phiếu được in trên tạp chí… Phiếu sử dụng dịch vụ có thể cho phép sử dụng

dịch vụ miễn phí, theo điều kiện do nhà cung cấp dịch vụ đưa ra. Khác với
điều này phiếu dự thi có thể mang lại giải thưởng hoặc không mang lại lợi ích
gì cho khách hàng, phụ thuộc vào kết quả dự thi của họ.
Khi khuyến mại dưới hình thức này thương nhân phải tuân thủ các quy
định tại Điều 10 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP bao gồm:
+ Phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ kèm theo hàng hóa được bán,
dịch vụ được cung ứng là phiếu để mua hàng hóa, nhận cung ứng dịch vụ của
chính thương nhân đó hoặc để mua hàng hóa, nhận cung ứng dịch vụ của
thương nhân, tổ chức khác.
+ Giá trị tối đa của phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ được tặng
kèm theo một đơn vị hàng hóa được bán, dịch vụ được cung ứng trong thời
gian khuyến mại phải tuân thủ quy định hạn mức tối đa về giá trị vật chất


dùng để khuyến mại quy định tại Điều 5 Nghị định này đó là “Giá trị vật chất
dùng để khuyến mại cho một đơn vị hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại
không được vượt quá 50% giá trị của đơn vị hàng hóa, dịch vụ được khuyến
mại đó trước thời gian khuyến mại,”
“Tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại mà thương nhân
thực hiện trong một chương trình khuyến mại không được vượt quá 50% tổng
giá trị của hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại, trừ trường hợp khuyến mại
bằng hình thức Đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng
thử không phải trả tiền”
Nội dung của phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ phải bao gồm các
thông tin liên quan được quy định tại Điều 97 Luật Thương mại
Năm là, bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách
hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.
Nội dung của phiếu dự thi phải bao gồm các thông tin liên quan được quy
định tại 97 Luật thương mại.
+ Nội dung của chương trình thi không được trái với truyền thống lịch

sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam.
+ Việc tổ chức thi và mở thưởng phải được tổ chức công khai, có sự
chứng kiến của đại diện khách hàng và phải được thông báo cho Sở Thương
mại nơi tổ chức thi, mở thưởng.
+ Thương nhân thực hiện khuyến mại phải tổ chức thi và trao giải
thưởng theo thể lệ và giải thưởng mà thương nhân đã công bố.
Sáu là, bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương
trình mang tính may rủi mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua
hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham
gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.


Chương trình khuyến mại mang tính may rủi có phát hành vé số dự
thưởng phải tuân thủ các quy định sau đây theo quy định tại các Khoản 3,4,5
Điều 12 Nghị định số 37/2006 /NĐ-CP:
+ Vé số dự thưởng phải có hình thức khác với xổ số do nhà nước độc
quyền phát hành và không được sử dụng kết quả xổ số của nhà nước để làm
kết quả xác định trúng thưởng;
+ Vé số dự thưởng phải in đủ các nội dung về số lượng vé số phát hành,
số lượng giải thưởng, giá trị từng loại giải thưởng, địa điểm phát thưởng, thời
gian, địa điểm mở thưởng và các nội dung liên quan quy định tại Điều 97
Luật Thương mại:
+ Việc mở thưởng chỉ áp dụng cho các vé số đã được phát hành.
+ Tổng thời gian thực hiện khuyến mại đối với một loại nhãn hiệu hàng
hóa, dịch vụ không được vượt quá 180 (một trăm tám mươi) ngày trong một
năm, một chương trình khuyến mại không được vượt quá 90 (chín mươi)
ngày.
+ Trong thời hạn 30 (ba mươi) ngày kể từ ngày hết thời hạn trao giải
thưởng, giải thưởng không có người trúng thưởng của chương trình khuyến
mại mang tính may rủi phải được trích nộp 50% giá trị đã công bố vào ngân

sách nhà nước theo quy định tại Khoản 4 Điều 96 Luật Thương mại.
Bảy là, tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, theo đó việc
tặng thưởng cho khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc trị giá mua hàng hóa,
dịch vụ mà khách hàng thực hiện được thể hiện dưới hình thức thẻ khách
hàng, phiếu ghi nhận sự mua hàng hoá, dịch vụ hoặc các hình thức khác.
Tám là, tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa,
nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại.
Các sự kiện này được tổ chức gắn liền hoặc tách rời với việc mua hàng
hóa, sử dụng dịch vụ của khách hàng, ví dụ các chương trình mang tính may
rủi mà khách hàng trúng thưởng hoàn toàn do sự may mắn. Bốc thăm cào số


trúng thưởng, bóc, mở sản phẩm chúng thưởng, vé số dự thưởng .. là các sự
kiện gắn liền với hành vi mua sắm, tổ chức cho khách hàng tham gia các
chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí… có thể là lợi ích phi vật chất mà
thương nhân dành khuyến mại cho khách hàng, cũng có thể nhằm hướng tới
khách hàng mục tiêu của thương nhân. Ngoài các sự kiện trên đây, thương
nhân có thể tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, các sự kiện khác
vì mục đích khuyến mại.
Ngoài ra các thương nhân có thể sử dụng các hình thức khuyến mại
khác nếu được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp thuận.
1.3. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân tham gia hoạt động khuyến mại
1.3.1. Quyền của thương nhân khi thực hiện hoạt dộng khuyến mại
Quyền tự do kinh doanh cho phép các thương nhân được sử dụng các
biện pháp kỹ thuật thuyết phục khác nhau để tăng cường cơ hội bán hàng và
cung ứng dịch vụ, khi tổ chức họat động khuyến mại thương nhân có quyền:
+ Lựa chọn hình thức, thời gian, địa điểm khuyến mại.
+ Quy định những lợi ích cụ thể mà khách hàng được hưởng theo đúng
quy định tại Khoản 4 Điều 94 Luật thương mại và hướng dẫn tại Nghị định số
37/2006/NĐ-CP.

+ Thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc
khuyến mại cho mình
+ Tự mình tổ chức thực hiện các hình thức khuyến mại theo quy định
của pháp luật
1.3.2. Nghĩa vụ của thương nhân tổ chức khuyến mại
Thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật để
thực hiện các hình thức khuyến mại bao gồm các thủ tục được quy định tại
Nghị định số 37/2006/NĐ-CP: Trước khi thực hiện khuyến mại thương nhân
đăng ký tại cơ quan nhà nước về thương mại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương nơi thương nhân tổ chức khuyến mại về thời gian, hình thức khuyến


mại. Kết thúc đợt khuyến mại, thương nhân phải thông báo kết quả đợt
khuyến mại cho cơ quan này. Đối với những hình thức mà pháp luật quy định
phải xin phép, thương nhân chỉ được thực hiện khuyến mại khi được sự chấp
thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thông báo công khai các nội dung, thông tin về hoạt động khuyến mại
cho khách hàng. Khi áp dụng các hình thức khuyến mại, để tránh gian lận, lừa
dối khách hàng, pháp luật đòi hỏi sự minh bạch của thương nhân. Tại nơi bán
hàng, nơi cung ứng dịch vụ, trên bao bì sản phẩm hoặc dưới bất kì hình thức
nào khác nhưng phải đính kèm theo hàng hóa được bán.. thương nhân phải
công khai hóa các vấn đề liên quan đến hoạt động khuyến mại. Đối với các
hình thức khuyến mại thương nhân thực hiện khuyến mại phải công khai các
nội dung sau :
+ Tên của hoạt động khuyến mại;
+ Giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ khuyến mại và các chi phí có
liên quan để giao hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại cho khách hàng;
+ Tên, địa chỉ, số điện thoại của thương nhân thực hiện khuyến mại;
+ Thời gian khuyến mại, ngày bắt đầu, ngày kết thúc và địa bàn hoạt
động khuyến mại;

+ Trường hợp lợi ích của việc tham gia khuyến mại gắn với các điều
kiện cụ thể thì trong thông báo phải nêu rõ hoạt động khuyến mại đó có kèm
theo điều kiện và nội dung cụ thể của các điều kiện.
Ngoài các thông tin quy định trên đây, thương nhân còn phải thông báo
công khai các thông tin liên quan đến hoạt động khuyến mại sau đây:
+ Giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ được tặng cho khách hàng
đối với hình thức khuyến mại tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch
vụ không thu tiền
+ Trị giá tuyệt đối hoặc phần trăm thấp hơn giá bán hàng hóa, giá cung
ứng dịch vụ bình thường trước thời gian khuyến mại đối với hình thức khuyến


mại bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung ứng
dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc
thông báo.
+ Giá trị bằng tiền hoặc lợi ích cụ thể mà khách hàng được hưởng từ
phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ; địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ
và các loại hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng có thể nhận được từ phiếu mua
hàng, phiếu sử dụng dịch vụ đối với hình thức khuyến mại Bán hàng, cung
ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách
hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định.
+ Loại giải thưởng và giá trị của từng loại giải thưởng; thể lệ tham gia
các chương trình khuyến mại, cách thức lựa chọn người trúng thưởng đối với
các hình thức khuyến mại Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi
cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công
bố, bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình
mang tính may rủi mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng
hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia
theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.
Các chi phí mà khách hàng phải tự chịu đối với các hình thức khuyến

mại tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, tổ chức cho khách hàng
tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì
mục đích khuyến mại
Thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo và các cam kết
với khách hàng.
Đối với một số hình thức khuyến mại bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm
theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi mà việc tham gia
chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ và việc trúng
thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã


công bố thì thương nhân phải trích 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào
ngân sách nhà nước trong trường hợp không có người trúng thưởng.
Tuân thủ các thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ khuyến mại nếu
thương nhân thực hiện khuyến mại là thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến
mại.
1.4. Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại
Khuyến mại là quyền của thương nhân trong hoạt động kinh doanh. Cơ
hội thương mại mà thương nhân thực hiện khuyến mại có được là vấn đề nhạy
cảm vì có thể tạo ra những khó khăn cho những thương nhân khác hoặc có thể
đụng chạm tới lợi ích của khách hàng và tính lành mạnh của môi trường kinh
doanh. Để ngăn ngừa những tác động tiêu cực này, một số hoạt động khuyến
mại sau đây bị nhà nước ngăn cấm, các quy định cấm này được quy định tại
Điều 100 Luật thương mại 2005:
+ Khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch
vụ hạn chế kinh doanh; hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa
được phép cung ứng.
+ Sử dụng hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hóa, dịch vụ
cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa chưa được
phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng.

+ Khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới
18 tuổi.
+ Khuyến mại hoặc sử dụng thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên
để khuyến mại dưới mọi hình thức.
+ Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ
để lừa dối khách hàng.
+ Khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá kém chất lượng, làm phương hại
đến môi trường, sức khoẻ con người và lợi ích công cộng khác.


+ Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân.
+ Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng.
+ Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
+ Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến
mại vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến
mại quá mức tối đa quy định tại Khoản 1, 2 Điều 5 Nghị định số 37/2006/NĐCP “Giá trị vật chất dùng để khuyến mại cho một đơn vị hàng hóa, dịch vụ
được khuyến mại không được vượt quá 50% giá trị của đơn vị hàng hóa, dịch
vụ được khuyến mại đó trước thời gian khuyến mại”; “Tổng giá trị của hàng
hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại mà thương nhân thực hiện trong một
chương trình khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị của hàng
hóa, dịch vụ được khuyến mại, trừ trường hợp khuyến mại bằng hình thức
Đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải
trả tiền”.
Nhìn chung pháp luật về khuyến mại của nước ta đã khá bao quát và
chi tiết thông qua nhiều điều luật. Vậy điều đặt ra ở đây là việc vận dụng làm
sao cho hợp lý, hiệu quả những quy định đó vào nền kinh tế xã hội nước ta
hiện nay.



Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI Ở NƯỚC TA

HIỆN NAY. NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT
2.1.

Những mặt tích cực của hoạt động khuyến mại hiện nay
Thứ nhất, trước khi luật thương mại 1997 ra đời thì ở nước ta chưa có

văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về hoạt động khuyến mại của các
thương nhân, kể từ khi Luật thương mại 1997 và luật thương mại 2005 được
ban hành thì các chế định về hoạt động khuyến mại đã được luật hóa tạo hành
lang pháp lý cơ sở cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động khuyến mại, các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể quản lí hoạt động khuyến mại của các
thương nhân được rễ ràng hơn.
Thứ hai, tác động của khuyến mại đến người tiêu dùng. Khuyến mại là
một trong các hình thức xúc tiến thương mại được các doanh nghiệp sử dụng
nhằm kích thích tiêu dùng thúc đẩy người tiêu dùng mua nhiều hơn. Theo một
nghiên cứu của Vnreseach nghiên cứu về sự ảnh hưởng của các chương trình
quảng cáo khuyến mại (thời gian khảo sát từ ngày 01 tháng 9 năm 2013 đến
ngày 10 tháng 9 năm 2013), bao gồm 1064 mẫu khảo sát thì mức độ quan tâm
đến các chương trình khuyến mại tại Việt Nam cứ 100 người được hỏi thì gần
83 người cho biết có quan tâm đến các chương trình khuyến mại. Đến 82,5%
số người được phỏng vấn cho biết có quan tâm đến các chương trình khuyến
mại nói chung ( rất quan tâm + quan tâm ) bên cạnh đó chỉ có khoảng 6.3% số
người không quan tâm đến các chương trình khuyến mại (rất không quan tâm
+ không quan tâm).
Cũng theo kết quả nghiên cứu của công ty này thì phần lớn người được
hỏi đồng ý với nhận định các đợt khuyến mại là cơ hội tốt nhất để họ mua
hàng (chiếm 73.8% số người được hỏi). Tất cả các số liệu trên đây cho thấy

rằng trong thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay dưới tác động của lạm


phát chỉ số gia tiêu dùng tăng cao, hàng năm người tiêu dùng luôn phải chống
đỡ với giá cả leo thang thì các đợt khuyến mại cuả các doanh nghiệp là cơ hội
để họ mua sắm các đồ dùng thiết yếu trong gia đình để phục vụ sinh hoạt
hàng ngày.
Một yếu tố kinh tế khác mà người tiêu dùng phải xem xét cẩn thận khi
mua hàng hóa và dịch vụ chính là mức thu nhập của họ. Hầu hết mọi người
đều có thu nhập từ công việc mà họ thực hiện dù họ là bác sĩ, giáo viên, thợ
sửa ống nước, công nhân lắp ráp hay thư ký trong các cửa hàng bán lẻ…một
người có mức thu nhập hàng tháng 3, 4 hay 5 triệu đều phải tính toán cho mỗi
lần mua hàng của họ, họ không thể có trong tay 5 triệu mà cứ thế sử dụng 5
triệu đó để mua một đồ dùng có giá trị tương đương số tiền họ có, hàng ngày
họ còn phải chi cho rất nhiều các khoản khác như tiền ăn uống, tiên điện, tiền
nước, tiền xăng xe... Do vậy các chương trình khuyến mại của các doanh
nghiệp sẽ là cơ hội để người tiêu dùng nâng cao chất lượng cuộc sống.
Thứ ba, nhìn vào tổng thể nền kinh tế thì hoạt động khuyến mại đã góp
phần kích cầu nền kinh tế, giúp cho thị trường trở nên sôi động hơn. Chiến
lược phát triển kinh tế quốc gia không chỉ đơn thuần là đẩy mạnh xuất khẩu,
nhập khẩu nhất là trong tình hình kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn như
hiện nay vì vậy sức mua của thị trường nội địa có một vai trò rất quan trọng.
Hiện nay tiềm lực thị trường tại Việt Nam là rất lớn với gần 90 triệu người
nhưng không phải ai cũng có điều kiện để mua hàng chính vì vậy các chương
trình khuyến mại của các doanh nghiệp sẽ có tác dụng rất lớn làm tăng sức
mua của người dân. Khi sức mua của người dân được kích thích sẽ thúc đẩy
thị trường nội địa hoạt động tích cực, sôi nổi và hiệu quả hơn làm cho toàn bộ
nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững hơn.
2.2.


Những bất cập trong quy định của pháp luật về hoạt động khuyến
mại


Bên cạnh những mặt tích cực mà các hoạt động khuyến mại mang lại
thì hoạt động khuyến mại ở nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập
trên các mặt pháp luật và thực tiễn, để hiểu rõ hơn về vấn đề này sau đây
chúng tôi xin đưa ra một số tồn tại hạn chế mà pháp luật về khuyến mại cần
phải hoàn chỉnh trong thời gian tới:
Thứ nhất, việc đăng ký để được phép thực hiện hoạt động khuyến mại
cuả các doanh nghiệp nhiều khi gặp nhiều khó khăn do phải nộp hồ sơ trực
tiếp đến cơ quan có thẩm quyền, nhìn chung việc nộp hồ sơ trực tiếp đến cơ
quan quản lý nhà nước về hoạt động này tại thời điểm năm 2005 thời điểm
ban hành Luật thương mại có thể xem là hợp lý, nhưng với sự bùng nổ của
công nghệ thông tin hiện nay thì việc phải nộp hồ sơ trực tiếp như hướng dẫn
tại Nghị định số 37/2006/ NĐ-CP xem như không còn phù hợp nữa, việc phải
nộp trực hồ sơ trực tiếp đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền gây khó khắn
cho doanh nghiệp như: mất nhiều thời gian, nhân công, mất nhiều chi phí cho
doanh nghiệp, làm tăng thời gian thực hiện các thủ tục hành chính của doanh
nghiệp không phù hợp với công cuộc cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
Cũng liên quan đến vấn đề đăng ký của các doanh nghiệp thực hiện
hoạt động khuyến mại. Tại Điều 16 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP quy định
về việc thực hiện cac chương trình khuyến mại bằng hình thức bán hàng, cung
ứng dịch vụ có kèm theo việc tham gia các chương trình mang tính may rủi,
khi thương nhân thực hiện hoạt động này ở hai tỉnh trở lên phải đăng kí và
phải được sự chấp nhận của Bộ thương mại, trong khi đó nếu thực hiện
khuyến mại ở trên địa bàn một tỉnh thì chỉ cần đăng ký với Sở thương mại cấp
tỉnh. Việc này theo đánh giá của chúng tôi là không thật sự hợp lý, gây khó
khăn cho các doanh nghiệp.
Thứ hai, Việc ấn định mức giảm giá hoặc tặng quà trong các trương

trình khuyến mại theo hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định số
37/2006/NĐ-CP là “Giá trị vật chất dùng để khuyến mại cho một đơn vị hàng


hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá của đơn vị hàng
hoá, dịch vụ được khuyến mại đó trước thời gian khuyến mại”. Việc ấn định
mức giảm giá hoặc tặng quà là 50% giá trị của một đơn vị hàng hóa như vậy
nhiều khi gây khó khăn cho các doanh nghiệp muốn thực hiện hoạt động
khuyến mại. Vì đôi khi vì một lí do khách quan nào đó mà các doanh nghiệp
không thể bán hết được các mặt hàng sản xuất ra hoặc các mặt hàng nhập về
để kinh doanh dẫn đến các doanh nghiệp cần phải và muốn bán số hàng đó
trước khi chúng hết hạn, nếu quy định như vậy thì nhiều khi doanh nghiệp đã
giảm giá đến mức độ đó mà vẫn không bán được sẽ gây thiệt hại trước tiên nó
ảnh hưởng trực tiếp cho nhà sản xuât, nhà phân phối sau đó nữa là ảnh hưởng
gián tiếp đến nền kinh tế đất nước như gây lãng phí tài sản, ô nhiễm môi
trường do phải tiêu hủy số hàng đó.v.v.
Thứ ba, là về hình thức đưa hàng mẫu cung ứng dịch vụ mẫu để khách
hàng dùng thử không phải trả tiền
Luật thương mại 2005 và các văn bản liên không có quy định cụ thể
những vấn đề này nên khi các thương nhân tiến hành hoạt động phát hàng
mẫu họ không biết bắt đầu tư đâu để có thể đưa sản phẩm của mình đến tay
người tiêu dùng. Tuy nhiên, có thể thấy các biện pháp phổ biến mà thương
nhân sử dụng hiện nay là phát hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu tại nơi bán
hàng, nơi cung ứng dịch vụ; tổ chức phân phát đến tận tay khách hàng. Các
biện pháp cũng bộc lộ một số nhược điểm. Như việc tổ chức phân phát đến
tận ta người tiêu dùng nhiều hoạt động lừa đảo hay cung cấp sản phẩm kém
chất lượng đã được sử dụng qua hình thức này. Do đó pháp luật cần có thêm
những quy định rõ ràng hơn trong việc tổ chức các hoạt động kiểm định trước
khi phát hành hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu nhằm đảm bảo cho hoạt động
khuyến mại phục vụ mục đích kinh doanh của các thương nhân cũng như góp

phần đảm bảo quyền lợi cho khách hàng.


Thứ tư, là về hình thức bán hàng, cung cấp dịch vụ kèm theo việc tham
dự các chương trình may rủi.
Đây là một trường hợp điển hình. Chương trình khuyến mại sản phẩm
sơn trang trí mang thương hiệu SPEC do Công ty sơn 4Oranges sản xuất dịp
30/9/2014 có trường hợp của anh Nguyễn Ngọc Huy ở Bình Lục – Hà Nam
đã may mắn sở hữu tấm phiếu trúng thưởng giải đặc biệt, nhưng thực tế khách
hàng này đã không nhận được giải thưởng này vì một lý do không thuyết
phục từ phía ban tổ chức. Trong phiếu ghi rõ thời hạn tiếp nhận thông báo
trúng thưởng từ khách hàng trúng thưởng: “Muộn nhất là sau 07 ngày khi
công bố khách hàng trúng thưởng bằng cách gọi điện thoại, niêm yết thông tin
tại cửa hàng nếu người trúng thưởng không đem đầy đủ giấy tờ liên quan đến
để nhận thưởng coi như người trúng thưởng, không có nhu cầu lấy giải
thưởng và đơn vị tổ chức khuyến mại sẽ không giải quyết các khiếu nại, thắc
mắc của người trúng thưởng sau đó”. Nhưng trong quá trình diễn ra bốc thăm
trúng thưởng thì ban tổ chức đã đột ngột thay đổi thể lệ bốc thăm, theo đó chỉ
áp dụng trao phần thưởng cho những người có mặt trực tiếp tham dự buổi bốc
thăm trúng thưởng. Chính điều này đã gây nên sự bức xúc từ phía anh Huy và
đại bộ phận khách hàng khác. Được biết việc tổ chức lễ rút thăm trúng thưởng
trên không có sự quản lý của Nhà nước. Như vậy, từ ví dụ trên ta thấy được
nhà nước ta đang còn lỏng lẻo trong việc quản lý, giám sát hoạt động khuyến
mại, để các thương nhân lợi dụng thực hiện hành vi phạm pháp luật.
Thứ năm, theo khoản 4 của Điều 9 Nghị định 37/2006/NĐ- CP thì
“tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mại không được vượt quá 90
ngày trong một năm; một chương trình khuyến mại không được vượt quá 45
ngày”. Quy định này phần nào làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của các
doanh nghiệp, trong khi đó mỗi doanh nghiệp lại có những đặc điểm riêng
biệt.



Thứ sáu, về chất lượng hàng hóa, dịch vụ dùng cho khuyến mại.
Theo quy định của pháp luật thì việc khuyến mại để tiêu thụ hàng hóa
kém chất lượng, làm phương hại đến môi trường, sức khỏe của con người và
lợi ích công cộng khác là hoàn toàn bị cấm. Mua hàng hóa mà được được
khuyến mại thì ai cũng thích nhưng không phải tất cả sản phẩm khuyến mại
nào cũng tốt. Nhiều cửa hàng đã làm biến tướng hình thức này và đã có
những sai phạm nghiêm trọng về đạo đức kinh doanh. Đề cử là việc có rất
nhiều công ty, cửa hàng kinh doanh thông báo khuyến mại rất rầm rộ nhưng
khi khách đến mua hàng thì mới vỡ lẽ hàng hóa được khuyến mại có thể cùng
chủng loại nhưng chất lượng thì không được như hàng chính hang. Doanh
nghiệp thì dùng nhiều các chương trình khuyến mại để tăng kích cầu, tăng
doanh thu thực tiễn cho thấy một số doanh nghiệp đã lợi dụng các chương
trình khuyến mại để đưa hàng giả, hàng kém chất lượng hàng đã qua thời hạn
sử dụng hoặc chuẩn bị hết hạn sử dụng vào để khuyến mại. Theo đánh giá
chung, không ít hàng hóa khuyến mãi là hàng kém chất lượng, không rõ
nguồn gốc xuất xứ, thậm chí có nguồn gốc nhập lậu.
Thứ bảy nhiều doanh nghiệp có sự vi phạm các quy định của pháp luật
về giảm giá bán đối với các chương trình khuyến mại.
Theo quy định tại Khoản 10 Điều 100 Luật thương mại năm 2005 quy
định về các hành vi bạn cấm trong hoạt động khuyến mại quy định cấm
“Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại
vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại
quá mức tối đa theo quy định tại khoản 4 Điều 94 của Luật này” tại Nghị
định số 37/2006/NĐ-CP Nghị định quy định chi tiết Luât Thương mại về hoạt
động xúc tiến thương mại tại Khoản 1 Điều 5 của nghị định này có quy định
về hạn mức tối đa về giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại quy định
“Giá trị vật chất dùng để khuyến mại cho một đơn vị hàng hóa, dịch vụ được



khuyến mại không được vượt quá 50% giá của đơn vị hàng hoá, dịch vụ được
khuyến mại đó trước thời gian khuyến mại, trừ trường hợp khuyến mại bằng
các hình thức quy định tại Điều 7, Điều 8, Điều 11, Điều 12, Điều 13 Nghị
định này”. Đó là quy định của pháp luật còn thực tiễn thực hiện thì sao?
Nhiều doanh nghiệp đã thực hiện các chương trình khuyến giảm giá tới 60,70
thậm chí tới 80% giá trị của hàng hóa, dịch vụ bất chấp các quy định của pháp
luật.
Mới đây nhất là vụ việc của Tập đoàn Kangaroo Là một trongnhững
doanh nghiệp hàng đầu về ngành gia dụng Việt Nam, tập đoàn Kangaroo là
một địa chỉ tin cậy được nhiều người tiêu dùng tin tưởng và lựa chọn. Vậy
nhưng, Kangaroo Hà Nội, nhà phân phối chính thức của tập đoàn Kangaroo,
lại đang có dấu hiệu vi phạm các quy định trong Luật Thương mại.
Trong

phần

quảng

cáo

của

mình

trên

trang

web


www.kangaroohanoi.vn, khách hàng sẽ được giảm giá tới 80% so với giá
niêm yết, áp dụng đối với các sản phẩm hàng mẫu trưng bày. Việc giảm giá
chỉ dành cho khách hàng đến mua hàng trực tiếp tại hệ thống các showroom
của Kangaroo tại Hà Nội. Đó là các showroom tại 231 phố Trần Đại Nghĩa,
quận Hai Bà Trưng; số 2 phố Trần Duy Hưng, phường Trung Hòa, quận Cầu
Giấy và ngõ 7 Ô Chợ Dừa, số 11 phố Đông Các, quận Đống Đa. Những mặt
hàng được giảm giá llần này là cây nước nóng lạnh, bếp ga, quạt điện đa
năng, quạt phun sương,....Ví dụ như sản phẩm cây nước nóng lạnh có model
KG34C có mức giá niêm yết là 2.950.000 đồng/chiếc nay được giảm xuống
còn 1.237.500 đồng/chiếc, giảm 58%. Sản phẩm bếp đôi điện từ hồng ngoại
KG356i có mức giảm giá sâu tới 67%, giá khuyến mại của sản phẩm đang là
9.999.000 đồng/chiếc trong khi giá niêm yết là 30.550.000 đồng/chiếc. Quạt
phun sương của Kangaroo là một trong những sản phẩm được nhiều người
tiêu dùng biết đến, lần này cũng nằm trong danh sách giảm giá.Giá niêm yết


quạt phun sương HYB50 là 3.050.000 đồng/chiếc, giá khuyến mại chỉ có
1.347.500 đồng/chiếc. Mức giảm giá đối với sản phẩm này là 56%.
Hoạt động khuyến mại như trên theo chúng tôi là đã vi phạm quy định
của pháp luật về hoạt động khuyến mại được quy định trong luật thương mại
năm 2005 và nghị định số 37/ 2006/ NĐ-CP nghị định hướng dẫn luật thương
mại về hoạt động xúc tiến thương mại bởi theo quy định tại Khoản 1 Điều 5
Nghị định số 37/2006/NĐ-CP quy định về hạn mức tối đa của giá trị hàng
hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại thì “Giá trị vật chất dùng để khuyến mại cho
một đơn vị hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá
của đơn vị hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại đó trước thời gian khuyến
mại” mà trong trường hợp trên doanh nghiệp này đã thực hiện việc khuyến
mại giảm giá từ 56% đến 80% gia trị sản phẩm.
Thứ tám, theo quy định tại Khoản 9 Điều 100 Luật thương mại 2005

quy định về các hành vi bị cấm trong hoạt động thương mại có quy định
“Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh” tuy nhiên hiện này nhiều
doanh nghiệp thực hiện hoạt động khuyến mại có hiện tượng vi phạm các quy
định của pháp luật về cạnh tranh thương mại.
Để hiểu thế nào là cạnh tranh không lành mạnh chúng ta hãy cùng xem
định nghĩa về cạnh tranh không lành mạnh. Nhìn chung cạnh tranh không
lành mạnh là hành vi đi ngược lại với các nguyên tắc của xã hội, tập quán và
truyền thống kinh doanh, xâm phạm các lợi ích của các chủ thể kinh doanh
khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội, cạnh tranh
không lành mạnh luôn có bản chất của nó là không đẹp, bất chính nhằm vào
đối thủ cạnh tranh nào đó, nó là những hành vi gây cản trở hoặc gây thiệt hại
trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ thể kinh doanh khác.
Hiện nay các doanh nghiệp thường sử dụng các hình thức khuyến mại
như đưa hàng hóa để khách hàng dùng thử mà không phải trả tiền, tặng hàng
hóa, giảm giá bán…cho dù được tổ chức ở hình thức nào đi chăng nữa thì các


hình thức mà khách hàng nhận được chỉ là các biện pháp kích thích tiêu thụ
sản phẩm và luôn có một giới hạn nhất định về thời gian, không gian, thị
trường và giá trị của chương trình khuyến mại.
“Hiện nay để điều chỉnh khuyến mại chúng ta có Luật thương mại năm
2005 và các văn bản liên quan điều chỉnh về hình thức, tổ chức hoạt động
khuyến mại của thương nhân. Dưới góc độ lý thuyết cạnh tranh, khuyến mại
là một trong những cách thức thu hút, tranh giành và tạo thói quen tiêu dùng
cho khách hàng bằng những chiến dịch khuyến mại do vậy trong lĩnh vực này
xuất hiện nhiều khả năng tranh giành khách hàng không lành mạnh theo quy
định tại Điều 46 luật cạnh tranh 2004 quy định các hành vi bị cấm trong hoạt
động khuyến mại bao gồm:
+ Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;
+ Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch

vụ để lừa dối khách hàng;
+ Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ
chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
+ Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách
hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng
đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình; Các hoạt động khuyến mại khác
mà pháp luật có quy định cấm.
Dưới góc độ lý thuyết các hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh
mang bản chất:
“Lừa dối khách hàng bằng cách đưa các thông tin gian dối về giải
thưởng, không trung thực về hàng hóa dịch vụ hoặc gây nhầm lẫn để lừa dối
người tiêu dùng. Trong trường hợp này bản chất lừa dối của hành vi khuyến
mại khác với sự lừa dối trong quảng cáo ở chỗ quảng cáo lừa dối là doanh
nghiệp không trung thực khi đưa ra các thông tin trực tiếp về giá, số lượng,
chất lượng của hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo. Trong khi đó lừa dối trong


khuyến mại là việc các doanh nghiệp đã không trung thực với các lợi ích mà
khách hàng sẽ được hưởng hoặc dùng các lợi ích đó để tạo ra sự nhận thức sai
lệch về hàng hóa, dịch vụ của khách hàng. Trong trường hợp này, những hành
vi như thế như tổ chức và công bố công khai giải thưởng xong không có giải
thưởng hoặc giải thưởng không đúng với những gì đã công bố hoặc hành vi tổ
chức khuyến mại bằng cách đưa hàng mẫu cho khách hàng dùng thử với chất
lượng cao gấp nhiều lần so với hàng háo được dùng để mua bán hòng làm cho
khách hàng bị nhầm lẫn về chất lượng hàng hóa
Phân biệt đối xử không chính đáng, xự phân biệt đối xử trong khuyến
mại sẽ cấu thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi thỏa mãn điều kiện
là khách hàng với cùng một điều kiện giao dịch nhưng ở những địa bàn khác
nhau lại đã được hưởng những lợi ích không giống nhau trong cùng một
chương trình khuyến mại. Ví dụ: cùng một điều kiện là có đủ 3 nắp chai bia

các khách hàng ở nông thôn và thành thị sẽ có cơ hội trúng những giải thưởng
khác nhau với giá trị khác nhau.
Xóa bỏ thói quen tiêu dùng của khách hàng với những sản phẩm của
doanh nghiệp khác một cách không chính đáng. Khi tham gia vào thị trường
các doanh nghiệp được phép tác động đến nhu cầu của khách hàng bằng cách
giành lợi ích vật chất hoặc cung cấp thông tin về sản phẩm của mình để khách
hàng có thể lựa chọn chúng trong vô số các sản phẩm cùng loại khác. Trước
rất nhiều sản phẩm có khả năng đáp ứng được nhu cầu cảu người tiêu dùng
doanh nghiệp chỉ có thể làm nổi bật sản phẩm của mình trước khách hàng để
cạnh tranh. Mọi toan tính đề cao sản phẩm của mình bằng cách hạ thấp giá trị
chất lượng sản phẩm của người khác thì đều được coi là cạnh tranh không
lành mạnh. Trong khuyến mạnh hành vi tặng hàng hóa cho khách hàng nhưng
lại yêu cầu đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuât mà khách
hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình được xem như là toan tính


×