Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phat trien san pham tai cong ty co phan sua viet nam vinamilk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.55 KB, 18 trang )

1
LỜI MỞI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài:
Một công ty đang thành công với một sản phẩm nhất định trên thị trường có thể dễ
dàng lâm vào phá sản ngày mai nếu công ty này không tiếp tục thay đổi mẫu mã sản phẩm
theo các cách khác nhau hoặc tìm kiếm một sản phẩm mới một khi các điều kiện của thị
trường biến đổi. Một trong những hoạt động đang diễn ra ở mỗi doanh nghiệp là theo dõi
sự biến đổi của thị trường: ở cả khía cạnh cạnh tranh cũng như thị hiếu mới của người tiêu
dùng. Sản phẩm mới là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển và tồn tại của công ty.
Do liên tục phải đối mặt với thị trường cạnh tranh gay gắt, với nhu cầu thường xuyên thay
đổi của khách hàng và với những tiến bộ trong công nghệ nên một công ty phải có chiến
lược tung ra sản phẩm mới cũng như cải tiến những sản phẩm hiện tại để ổn định doanh
thu. Việc phát triển và tung sản phẩm mới ra thị trường vốn vô cùng tốn kém và không
phải sản phẩm nào cũng có khả năng bám trụ được.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên em mạnh dạn chọn đề tài: “P hát
triển sản phẩm của Công ty Cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở hệ thống lý luận chung về phát triển sản phẩm, tiểu luận phân tích, đánh
giá thực trạng hoạt động phát triển sản phẩm sữa của Công ty Cổ phần sữa Việt Nam, từ
đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển sản phẩm sữa của Công ty Cổ phần sữa
Việt Nam cho phù hợp hơn với nhu cầu đa dạng trên thị trường Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu chung về phát triển sản phẩm của Doanh nghiệp.
Các vấn đề cần lưu ý khi phát triển sản phẩm của Doanh nghiệp.
Đánh giá xu hướng phát triển thị trường sữa Việt Nam trong tương lai và mục tiêu
của Công ty Cổ phần sữa Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển sản phẩm cho Công ty trong
tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động nghiên cứu thị trường và hoạt động phát triển sản
phẩm của Công ty Cổ phần sữa Việt Nam.


Phạm vi nghiên cứu: Công ty Cổ phần sữa Việt Nam sản phẩm sữa nước.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích và các nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài dự kiến sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học sau đây: thống kê, phân tích, tổng hợp, dự báo, khái
quát hóa và nghiên cứu tài liệu.
6. Cấu trúc của tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung


2
chính của tiểu luận gồm 3 chương:
Chương I. Hệ thống lý luận chung về sản phẩm và phát triển sản phẩm
Chương II. Thực trạng chính sách phát triển sản phẩm của Vinamilk
Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển sản phẩm tại Vinamilk

CHƯƠNG I. HỆ THỐNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ SẢN PHẨM VÀ PHÁT TRIỂN


3
SẢN PHẨM
1.1 Khái niệm về sản phẩm và phát triển sản phẩm
1.1.1 Sản phẩm
Theo Giáo sư Philip Kotler, sản phẩm được định nghĩa như sau:
Sản phẩm là những cái gì có thể cung cấp cho thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu hay
ước muốn của thị trường.
Có thể viết ngắn gọn:
sản phẩm (nói chung) = sản phẩm (hữu hình) + sản phẩm (vô hình) hay:
sản
phẩm = hàng hoá và/ dịch vụ
Khái niệm sản phẩm hiện nay đang được mở rộng. Trong xã hội tiêu thụ ở các nước

công nghiệp phát triển cao (Mỹ, Nhật, Anh, Pháp,...), khái niệm sản phẩm hiện nay
thường được mở rộng. Theo giáo sư P.Kotler (Mỹ), ngoài hàng hoá và dịch vụ, sản
phẩm mua bán ở thị trường còn có thể bao gồm cả những tổ chức và cả những ý tưởng.
1.1.2 Phát triển sản phẩm
Phát triển sản phẩm là đưa ra các sản phẩm mới, là những sản phẩm mà lần đầu tiên
doanh nghiệp cung cấp ra thị trường mục tiêu. Sản phẩm đó không chỉ mới đối với doanh
nghiệp mà còn mới đối với các đối thủ trên thị trường. Cũng có thể sản phẩm đó chỉ mới
đối với doanh nghiệp mà không mới đối với các đối thủ trên thị trường (cũ người, mới
ta).
Sản phẩm mới là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển và tồn tại của công ty. Do
liên tục phải đối mặt với thị trường cạnh tranh gay gắt, với nhu cầu thường xuyên
thay đổi của khách hàng và với những tiến bộ trong công nghệ nên một công ty phải có
chiến lược tung ra sản phẩm mới cũng như cải tiến những sản phẩm hiện tại để ổn định
doanh thu.
Việc phát triển và tung sản phẩm mới ra thị trường vốn vô cùng tốn kém và không
phải sản phẩm nào cũng có khả năng bám trụ được. Như Patrick Barwise và Sean
Meehan viết trong cuốn Simply Better: “Đổi mới chỉ vì lợi ích của sự đổi mới là vô
nghĩa, nhưng đổi mới không ngừng để cải thiện hiệu suất dựa trên những ích lợi chung là
yếu tố cần thiết để duy trì sự thành công trong kinh doanh”.
Nhà cung cấp có thể duy trì cảm giác thoải mái và hài lòng của khách hàng bằng
cách liên tục cải thiện sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà cung cấp hãy đem
lại những điều mới lạ cho sản phẩm, để khách hàng cảm thấy thỏa mãn, thú vị và ngạc
nhiên.
Có nhiều cách để duy trì sự hài lòng của khách hàng mà không cần phải tạo ra một
sản phẩm hoàn toàn mới. Việc cải tiến, phát triển sản phẩm thường xuyên sẽ giúp sản
phẩm của bạn tốt hơn và giữ chân khách hàng lâu dài hơn nếu bạn tập trung vào những
điều thực sự có ý nghĩa với khách hàng .
Việc phát triển sản phẩm mới rất rủi ro và tốn kém nhưng đó là điều cần thiết để bù



4
đắp tổn thất doanh thu từ các sản phẩm hiện hữu trong suốt giai đoạn suy tàn của một
vòng đời sản phẩm. Các công ty có thể trì hoãn những tổn thất này bằng cách liên tục cải
thiện sản phẩm họ đang cung cấp cho khách hàng.
1.1.3 Sự cần thiết của hoạt động phát triển sản phẩm
Nhu cầu và thị hiếu của khách hàng luôn thay đổi theo thời gian. Do đời sống người
dân ngày càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng cũng tăng lên, họ không chỉ cần những hàng
hoá bình thường mà còn mong muốn những sản phẩm ngày càng được hoàn thiện về chất
lượng, thẩm mỹ, dịch vụ.. Ngoài ra, tâm lý chung của khách hàng thường thích sự mới
mẻ, thay đổi.
Phát triển sản phẩm mới để đáp ứng tốt hơn những nhu cầu chưa được thoả mãn của
khách hàng, nói rộng hơn, đổi mới sản phẩm giúp doanh nghiệp nắm bắt cơ hội từ môi
trường kinh doanh. Và bên cạnh đó, đổi mới sản phẩm giúp doanh nghiệp tạo dựng sự
khác biệt với đối thủ và phát huy lợi thế cạnh tranh của mình. Tất nhiên, việc đổi mới sản
phẩm không thể nằm ngoài mục đích gia tăng lợi nhuận hoặc cắt giảm chi phí.
Chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng ngắn lại: Bất kỳ một sản phẩm nào cũng có
một chu kỳ sống nhất định và doanh nghiệp phải tìm kiếm những sản phẩm thay thế khi
sản phẩm cũ đã đến giai đoạn suy thoái. Mặt khác, với sự cạnh tranh gay gắt như hiện
nay thì khi một sản phẩm mới ra đời và thành công, nó lập tức bị sao chép và sản xuất ồ
ạt khiến cho nhu cầu trở nên nhanh chóng bão hoà và chu kỳ sống của sản phẩm bị rút
ngắn lại. Do đó, việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới cần phải được tiến hành
thường xuyên và có hiệu quả trong mỗi doanh nghiệp.
Do công nghệ luôn phát triển và đổi mới: Ngày nay sự phát triển của công nghệ diễn
ra nhanh chóng. Khi công nghệ mới xuất hiện và tạo ra những sản phẩm mới có tính ưu
việt hơn thì sản phẩm cũ sẽ khó mà tồn tại trên thị trường, chính vì vậy, một công ty
muốn duy trì và phát triển trong tương lai cần nghiên cứu và ứng dụng những công nghệ
mới để tạo ra những sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Do cạnh tranh trong nước và nước ngoài tăng lên: Xu hướng toàn cầu hoá làm cho sự
cạnh tranh gay gắt hơn, các công ty không chỉ cạnh tranh trên thị trường nội địa mà phải
đối mặt với những đối thủ từ nước ngoài. Để cạnh tranh thắng lợi, công ty phải không

ngừng đổi mới và hoàn thiện, trong đó phát triển sản phẩm mới là một yêu cầu tất yếu.
1.2 Các chiến lược phát triển sản phẩm
1.2.1.Bắt chước sản phẩm của đối thủ
Hướng bắt chước này thường được áp dụng phổ biến đối với các công ty nhỏ ở các
nước đang phát triển do sự hạn chế về lực tài chính và công nghệ. Bắt chước thường đối
với những sản phẩm mới của đối thủ đang được bán chạy trên thị trường với mức lợi
nhuận hấp dẫn. Bắt chước sản phẩm của đối thủ có thể tiến hành theo hai cách sau:
a) Bắt trước nguyên mẫu sản phẩm của đối thủ
Theo cách này, doanh nghiệp giữ nguyên hiện trạng sản phẩm của đối thủ, không có


5
sự sửa đổi nào.
b) Bắt chước có đổi mới (sao chép thông minh)
Theo các này, doanh nghiệp bắt chước ý tưởng, những chức năng chung về cấu trúc
sản phẩm và đổi mới một số chi tiết cụ thể.
1.2.2.Cải tiến sản phẩm sẵn có
Việc cải tiến sản phẩm sẵn có có đặc điểm là dựa trên sản phẩm hiện hữu của doanh
nghiệp, từ các kết quả của hoạt động nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp thực hiện
những cải tiến nhỏ cho thỏa mãn hơn với nhu cầu khách hàng, hoặc nâng cao khả năng
cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Do cải tiến từ các sản phẩm hiện hữu nên các cải tiến thường là đơn giản, hoặc cải
tiến nhỏ, có thể kế thừa nhiều từ bản thiết kế của sản phẩm hiện hữu, quá trình cải tiến
cũng có thể dựa trên hệ thống dây chuyền hiện tại, cũng có thể kế thừa phần lớn nguyên
vật liệu, hoặc các bán thành phẩm có sẵn.
Tuy nhiên, doanh nghiệp cần lưu ý, việc cải tiến sản phẩm hiện hữu cần phải nghiên
cứu kỹ, lập luận chứng kinh tế, kỹ thuật vì trong nhiều trường hợp việc cải tiến không
mang lại hiệu quả hoặc đạt được kỳ vọng như dự tính ban đầu của doanh nghiệp.
1.2.3.Sáng chế sản phẩm mới hoàn toàn
a) Vai trò của sáng chế sản phẩm mới hoàn toàn

Sáng chế sản phẩm hoàn toàn mới được đánh giá là hướng tích cực nhất, mang tính
chất cách mạng nhất và cũng đem lại hiệu quả cao nhất. Các công ty quốc tế cỡ lớn
thường có nhiều lợi thế hơn khi theo đuổi hướng này vì nó đòi hỏi lớn về tiềm lực tài
chính và công nghệ, trước hết là vốn đầu tư. Khi nhu cầu giảm mạnh, các hãng lớn
thường chú trọng hướng này và thiết kế lại toàn bộ sản phẩm gốc để tạo ra sức mua lớn
trên toàn cầu. Tóm lại, hướng phát triển này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, hiệu quả rất cao một
khi thành công, nhưng ngược lại cũng thất bại lớn nếu rủi ro xảy ra. Theo cách nói,
“được ăn cả, ngã về không”, cho nên cần tuân thủ quy tắc nghiêm ngặt.
b) Quy trình sáng chế sản phẩm mới hoàn toàn (9 bước)
Bước 1: Hình thành ý tưởng sản phẩm mới
Bước 2: Tuyển chọn ý tưởng
Bước 3: Lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật
Bước 4: Thiết kế mẫu sản phẩm mới
Bước 5: Tuyển chọn mẫu sản phẩm mới
Bước 6: Sản xuất thử (theo mẫu)
Bước 7: Bán thử sản phẩm
Bước 8: Sản xuất hàng loạt sản phẩm hoàn toàn mới
Bước 9: Thương mại hoá sản phẩm
Trên đây là toàn bộ 9 bước trong quy trình sáng chế sản phẩm hoàn toàn mới, được
tóm lược ở hình 1. Doanh nghiệp cần phải tiến hành cẩn trọng từng bước nhằm giảm


6
thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn cao trong kinh doanh.
1.3. Chu kỳ sống của sản phẩm và các vấn đề cơ bản trong chiến lược sản phẩm
1.3.1 Chu kỳ sống của sản phẩm
Chu kỳ sống của sản phẩm là thuật ngữ mô tả trạng thái vận động của việc tiêu thụ
một loại sản phẩm trên thị trường kể từ khi nó xuất hiện đến khi nó không bán được nữa.
Đây cũng là quá trình biến đổi của doanh thu, chi phí và lợi nhuận theo thời gian của loại
sản phẩm.

Sản phẩm nào cũng có chu kỳ sống riêng của nó và chu kỳ sống này có ảnh hưởng tất
yếu đến sự sống còn của cả một doanh nghiệp.Chu kỳ sống của một sản phẩm có thể được
chia làm bốn (4) giai đoạn với các đặc điểm sau:
- Giai đoạn giới thiệu sản phẩm ra thị trường
- Giai đoạn phát triển
- Giai đoạn bão hòa
- Giai đoạn suy thoái

Doanh số và lợinhuận theo chu kỳ sống của sản phẩm
1.3.2 Phân tích các giai đoạn của sản phẩm và các chiến lược marketing theo từng
giai đoạn
Giai đoạn giới thiệu sản phẩm ra thị trường: đây là thời kỳ sản phẩm mới được đưa
ra bán trên thị trường, khách hàng chưa biết về sản phẩm, mức tiêu thụ tăng chậm và do
phải chi phí nhiều nên doanh nghiệp không có lãi.
Từ những đặc điểm và mục tiêu marketing, doanh nghiệp sẽ xác lập và lựa chọn
chiến lược giới thiệu sản phẩm thích hợp như:
- Chiến lược hớt váng sữa nhanh: Đưa sản phẩm ra bán với mức giá cao, đồng thời
xúc tiến mạnh nhằm thuyết phục thị trường về lợi ích của sản phẩm.
- Chiến lược hớt váng từ từ: Đưa sản phẩm ra bán ngay từ đầu với mức giá cao nhưng
với hoạt động xúc tiến yếu. Giá cao và chi phí marketing thấp sẽ mang lại lợi nhuận cao
ngay từ đầu.
- Chiến lược thâm nhập nhanh: Đưa sản phẩm ra bán ngay từ đầu với mức giá thấp,
nhưng vẫn đầu tư nhiều cho các hoạt đồng xúc tiến. Chiến lược này có thể giúp doanh


7
nghiệp chiếm được thị trường lớn trong thời gian ngắn. Doanh nghiệp có thể chịu thua lỗ
hoặc không có lợi nhuận trong giai đoạn này.
- Chiến lược thâm nhập từ từ: Đưa sản phẩm ra bán trên thị trường ra bán với mức
giá thấp và với mức chi phí xúc tiến thấp. Giá thấp và chi phí thấp sẽ bảo đảm mức lãi cho

doanh nghiệp trong thời gian giới thiệu sản phẩm.
Giai đoạn tăng trưởng: Giai đoạn này bắt đầu khi thị trường đã chấp nhận sản phẩm
mới. Lượng bán và lợi nhuận tăng lên nhanh chóng trong giai đọn tăng trưởng do thị
trường bắt đầu chấp nhận sản phẩm. Nhu cầu thị trường tăng lên nhanh chóng. Lúc này
bắt đầu xuất hiện các đối thủ cạnh tranh do thấy cơ hội thị trường. Mục tiêu của doanh
nghiệp trong giai đoạn này là nhanh chóng mở rộng thị phần để chiếm vị trí dẫn đầu trên
thị trường. Trong giai đoạn này, doanh nghiệp có thể thực hiện các chiến lược và các
phương thức duy trì hoạt động sau:
- Cải tiến đặc tính và chất lượng sản phẩm hoặc bổ sung các mẫu mã mới hay các đặc
tính mới
- Tấn công các đoạn thị trường mới
- Phát triển thêm các kênh phân phối mới
- Doanh nghiệp lúc này chuyển từ quảng cáo nhận biết sản phẩm nói chung sang hình
thức quảng cáo xây dựng hình ảnh, uy tín cho thương hiệu riên của họ
- Giá bán cần điều chỉnh để thu hút khách hàng và hạn chế các đối thủ cạnh tranh
Giai đoạn bão hòa: Tới giai đoạn này, lượng bán không tăng nữa, mức độ cạnh tranh
trở nên quyết liệt, lợi nhuận của doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm đầu tiên không giữ
được tỷ lệ mong muốn so với lượng bán. Trong giai đoạn bão hóa, doanh nghiệp có thể áp
dụng các dạng chiến lược marketing chủ yếu sau:
- Thay đổi thị trường: Nghiên cứu các khả năng mở rộng thị trường- tăng lượng bán
bằng cách thay đôit hai biến số trong công thức:
Khối lượng bán = Số lượng người sủ dụng x tỷ lệ người sử dụng
Thứ nhất, doanh nghiệp có thể tăng số người sử dụng sản phẩm bằng cách: Thuyết
phục những người chưa sử dụng mua và sử dụng sản phẩm; thâm nhập vào các đoạn thị
trường mới; thu hút khách hàng của các đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai là tăng tỉ lệ sử dụng bằng các cách: tăng tần suất sử dụng làm cho khách
hàng sử dụng sản phẩm thường xuyên hơn; tăng lượng tiêu dùng trong mỗi lần; tiềm kiếm
những công dụng mới đối với sản phẩm và thuyết phục khách hàng sủ dụng sản phẩm theo
những cách khác nhau.
- Thay đổi sản phẩm: Nhằm thu hút những người sử dụng mới hoặc tang việc sử dụng

bởi khách hàng hiện tại bằng các cánh:
+ Cải tiến chất lượng nhằm hoàn thiện các chức năng của sản phẩm như độ bền, độ
tin cậy, tốc độ…với điều kiện: chất lượng sản phẩm được có thể được cải tiến thực sự;


8
thông tin về cải tiến chất lượng có độ tin cậy đối với khách hàng; đa số người mua nhận
cảm được về chất lượng tốt hơn.
+ Bổ sung những đặc tính mới như: tăng tính linh hoạt khi sử dụng, độ an toàn và
tiện lợi của sản phẩm. Điều kiện áp dụng: Tạo cho doanh nghiệp hình ảnh người dẫn đầu
luôn đổi mới; sử dụng linh hoạt; doanh nghiệp có lợi thế trên một số đoạn thị trường;
quảng cáo không mất tiền; kích thích nhiệt tình của nhừng người phân phối và đại diện
bán.
+ Tìm kiếm mẫu mã mới: làm tăng sức hấp dẫn về hình thức của sản phẩm như thay
đổi kiểu dáng hay bao gói.
- Thay đổi marketing hỗn hợp: Doanh nghiệp chủ động thay đổi một hay một vài biến
số của marketing hỗn hợp nhằm tăng lượng bán. Những hướng thay đổi chính có thể là:
+ Giảm giá nếu điều này thu hút được khách hàng mới hay người tiêu dùng nhạy cảm
với giá giảm
+ Phát triển kênh phân phối mới
+ Xem xét thay đổi nội dung và phương thức quảng cáo
+ Đẩy mạnh hoạt động khuyến mãi với nhiều hình thức mới
+ Tìm kiếm phương thức bán hàng trực tiếp
+ Bổ sung thêm những dịch vụ hấp dẫn khách hàng
Giai đoạn suy thoái: Giai đoạn suy thoái xuất hiện khi lượng bán sụt giảm, hàng hóa
ứ đọng trong các kênh phân phối, nhiều doanh nghiệp trong ngành bị thu lỗ, một số doanh
nghiệp nhỏ bắt đầu rút lui khỏi thị trường. Chiến lược marketing cho giai đoạn suy thoái
có thể theo những hướng chủ yếu sau:
- Chuyển hướng khai thác thị trường, cũng cố vị trí cạnh tranh chọn lọc
- Duy trì mức đầu tư hiện tại khi vẫn còn những khách hàng trung thành

- Giảm có chọn lọc hoạt động kinh doanh, rút khỏi các đoạn thị trường không còn
hiệu quả, tập trung đầu tư cho những đoạn thị trường hiệu quả
- Thị hoạch để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh những thiệt hại do ứ đọng sản phẩm
hay giảm uy tín của doan nghiệp
- Loại bỏ sản phẩm hay giải thể đơn vị kinh doanh, chuyển sang khai thác cơ hội
khác. Khi doanh nghiệp quyết định loại bỏ sản phẩm, có thể lựa chọn một trong số các giải
pháp sau đây:
+ Bán hay chuyển nhượng cho người khác hoặc loại bỏ hoàn toàn
+ Quyết định thời điểm dừng sản xuất và đưa ra thị trường sản phẩm thay thế
+ Đảm bảo phục vụ được khách hàng chung thủy, tránh làm thiệt hại cho họ
1.3.3 Các vấn đề cơ bản trong chiến lược sản phẩm
1.3.3.1 Cấp độ của sản phẩm
Theo quan điểm Marketing, sản phẩm có cả các yếu tố vô hình và hữu hình và
được chia thành ba cấp độ như sau:


9
a) Cấp độ cơ bản - sản phẩm cối lõi (cấp 1)
Cấp độ này sẽ trả lời câu hỏi: Về thực chất sản phẩm này sẽ mang lại những lợi ích
cốt lõi gì cho khách hàng hàng?
Cùng một sản phẩm có thể mang lại các lợi ích cơ bản khác nhau cho các khách
hàng khác nhau. Muốn xác định được các lợi ích cơ bản nào cần cho khách hàng nào,
công ty phải nghiên cứu thị trường để xác định. Nhiều khi bản thân khách hàng cũng
không biết được một sản phẩm mang lại các lợi ích cơ bản gì cho mình. Nhiệm vụ của
người tiếp thị là phải phát hiện ra các nhu cầu ẩn giấu đằng sau mỗi thứ hàng hoá và bán
những lợi ích mà nó đem lại cho khách hàng. Một công ty mỹ phẩm tuyên bố: "Tại nhà
máy chúng tôi sản xuất mỹ phẩm. Tại cửa hàng chúng tôi bán niềm hy vọng".
b) Cấp độ hai - sản phẩm hiện thực
Cấp này bao gồm những yếu tố phản ánh sự tồn tại của sản phẩm như: các chỉ tiêu
phản ánh chất lượng, các đặc tính, bố cục bên ngoài, nhãn hiệu, tên nhãn hiệu, bao

bì. Thông qua các yếu tố này công ty có thể giúp khách hàng phân biệt được sản phẩm của
mình với sản phẩm cạnh tranh. Khách hàng cũng căn cứ vào các yếu tố của cấp độ này để
lựa chọn trong các sản phẩm cùng loại (tức là các sản phẩm mang lại cùng lợi ích cơ bản).
c) Cấp độ 3 - sản phẩm bổ sung (nâng cao)
Cấp độ này bao gồm các yếu tố dịch vụ khách hàng (customer service), và cao hơn
nữa là chăm sóc khách hàng (customer care) nhằm giúp cho khách hàng tiện lợi hơn, hài
lòng hơn. Đó là các dịch vụ như bảo hành, sửa chữa, hình thức thanh toán, giao hàng tại
nhà, lắp đặt, huấn luyện cũng như thái độ thân thiện, cởi mở, nhiệt tình, thân thiện. Cấp độ
này chính là vũ khí cạnh tranh của công ty. Các dịch vụ của lớp này sẽ ngày càng phong
phú cùng với mức độ cạnh tranh trên thị trường. Cạnh tranh hiện nay không phải là cạnh
tranh về những cái mà công ty làm ra tại nhà máy của mình, mà về những cái làm cho sản
phẩm hoàn chỉnh như bao gói, dịch vụ khách hàng (phương thức thanh toán, giao hàng, tư
vấn, bảo hành, sửa chữa...)
1.3.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến chiến lược sản phẩm
Đánh giá các nguồn lực hiện tại và tiềm năng của doanh nghiệp
- Khả năng tài chính
- Khả năng sử dụng nguyên vật liệu
- Nhà xưởng và thiết bị
- Nhân lực hoạt động sản xuất
- Quản lý
- Các kỹ năng về máy móc và kỹ thuật
- Các bằng độc quyền sáng chế
Các phương phát đáp ứng các thị trường hiện tại
- Các sản phẩm tương tự
- Các thay đổi theo chủng loại, kích thước, bao gói của sản phẩm hiện có


10
- Những sản phẩm mới thay thế hay bổ sung cho những sản phẩm hiện có
- Loại bỏ sản phẩm

Các phương phát tiếp cận tới thị trường tiềm năng hoặc thị trường mới
- Mở rộng thị trường trong nước theo khu vực địa lý
- Nhằm vào các nhóm khách hàng mới
- Mở ra thị trường ngoài nước
- Những ứng dụng mới của sản phẩm hiện tại
- Hàng hóa bổ sung
- Hợp nhất thành nhó sản phẩm đáp ứng thị trường
Thực trạng cạnh tranh
- Những doanh nghiệp mới thâm nhập vào ngành
- Sự bắt chước/sao chép sản phẩm
- Sự hợp nhất hay liên minh trong cạnh tranh
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CỦA
VINAMILK
2.1 Giới thiệu về Vinamilk
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Tên doanh nghiệp phát hành: Công ty cổ phần sữa Việt Nam
Tên Tiếng Anh: Vietnam Dairy Products Joint Stock Company
Tên viết tắt: VINAMILK
Trụ sở chính: 10 Tân Trào, phường Tân Phú, Quận 7, TP Hồ Chí Minh
Điện thoại: (84-8) 54 155 555
Fax: (84-8) 54 161 262
Website:
Vốn điều lệ: 12.006.621.930.000 đồng
Vinamilk là nhà sản xuất sữa hàng đầu tại Việt Nam.Từ khi bắt đầu đi vào hoạt động
năm 1976, Công ty đã xây dựng hệ thống phân phối rộng nhất tại Việt Nam và đã làm đòn
bẩy để giới thiệu các sản phẩm mới như nước ép, sữa đậu nành, nước uống đóng chai và
cafe cho thị trường. Sau gần 40 năm ra mắt người tiêu dùng, đến nay Vinamilk đã xây
dựng được 13 nhà máy, 2 xí nghiệp kho vận, với sự đa dạng về sản phẩm, Vinamilk hiện
có trên 200 mặt hàng sữa và các sản phẩm từ sữa. Ngoài việc phân phối mạnh trong nước
với mạng lưới 243 nhà phân phối và gần 212.000 điểm bán lẻ, sản phẩm Vinamilk còn

được xuất khẩu sang 40 quốc gia, vùng lãnh thổ như Mỹ, Pháp, Canada, Ba Lan, Đức,
khu vực Trung Đông, Đông Nam Á...
Tầm nhìn: trở thành biểu tượng mang tầm vóc Thế Giới trong lĩnh vực thực phẩm và
thức uống, nơi mà tất cả mọi người đặt trọn niềm tin vào sản phẩm an toàn và dinh dưỡng.


11
Sứ mệnh: Mang đến cho cộng đồng nguồn dinh dưỡng giá trị nhất bằng tất cả sự trân
trọng, tình yêu và có trách nhiệm với cuộc sống.
Giá trị cốt lõi: CHÍNH TRỰC – TÔN TRỌNG – CÔNG BẰNG – TUÂN THỦ- ĐẠO
ĐỨC.
2.1.2 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh đến năm 2015
2.1.2.1 Báo cáo hoạt động kinh doanh
Theo số liệu được Vinamilk công bố trong báo cáo thường niên năm 2015, từ năm
2005 đến năm 2015, công ty luôn có sự tăng trưởng ổ định về quy mô tổng tài sản và
doanh thu (mức tăng trưởng bình quân từ năm 2005 – 2015 là 22%). Năm 2015, tổng
doanh thu đạt 40.223 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 7.770 tỷ đồng

2.1.2.2 Sản phẩm
Vinamilk hiện có trên 200 sản phẩm bao gồm: sản phẩm chủ lực là sữa nước và sữa
bột; sản phẩm có giá trị cộng thêm như sữa đặc, yoghurt ăn và yoghurt uống, kem và pho
mát. Vinamilk cung cấp cho thị trường một danh mục các sản phẩm, hương vị và qui cách
bao bì có nhiều lựa chọn nhất.
Các sản phẩm hiện có:
- Sữa đặc (Ông Thọ, Ngôi sao Phương Nam)
- Sữa bột (Dielac), Ridielac ...dành cho trẻ em, bà mẹ và người lớn tuổi.
- Bột dinh dưỡng.
- Sữa tươi, đặc biệt là Công ty đầu tiên đưa ra thị trường sản phẩm SỮA TƯƠI
100% rất được ưa chuộng.
- Kem, sữa chua (Sữa chua ăn, Sữa chua uống, Sữa chua men sống - PROBI), Phô–

mai (nhãn hiệu BÒ ĐEO NƠ).


12
- Sữa đậu nành, nước giải khát (nước ép trái cây: Đào ép, Cam ép, Táo ép...). Mang
nhãn hiệu VFresh.
- Cà phê hòa tan, cà phê rang xay mang nhãn hiệu CAFE MOMENT.
- Nước uống đóng chai mang nhãn hiệu ICY.
- Bia Zorok (liên doanh)
Trong khuôn khổ bài thảo luận, em xin đi vào nghiên cứu và phân tích dòng sản phẩm
sữa tươi Vinamilk.
2.1.2.3 Phát triển nguồn nguyên liệu sữa tươi
Chiến lược phát tiển vùng nguyên liệu sữa tươi của Vinamilk là “thiết lập hệ thống các
trang trại bò sữa công nghệ cao nhằm cung cấp nguồn sữa tươi nguyên liệu chất lượng tốt,
an toàn thực phẩm, từng bước đáp ứng nhu cầu của các nhà máy chế biến nhằm sản xuất
các loại sản phẩm sữa đa dạng của Vinamilk. Bên cạnh việc phát triển các trang trại bò
sữa quy mô công nghiệp, Vinamilk tiếp tục tập trung hoàn thiện hệ thống thu mua, đảm
bảo bao tiêu sản phẩm sữa tươi cho bà con nông dân trên địa bàn cả nước”
Sản lượng sữa tươi nguyên liệu thu mua năm 2015 là 216.485 tấn. Trong đó, sữa tươi
nguyên liệu thu mua từ hộ dân là 178.890 tấn, các trang trại bò sữa của Vinamilk cung
cấp là 37.595 tấn. Hiện tại, công ty có tổng đàn bò 110.000 con, cung cấp 600 tấn sữa tươi
nguyên liệu mỗi ngày.
2.2 Chiến lược phát triển sản phẩm của Vinamilk
2.2.1 Thực trạng chiến lược sản phẩm của Vinamilk
2.2.1.1 Cải tiến và phát triển sản phẩm mới
Xét trên diện tổng quát, sản phẩm của Vinamilk rất đa dạng phong phú về chủng loại
với trên 200 mặt hàng sữa và các sản phẩm từ sữa: Sữa đặc, sữa bột, bột dinh dưỡng, sữa
tươi, Kem, sữa chua, Phô – mai. Và các sản phẩm khác như: sữa đậu nành, nước ép trái
cây, bánh, Cà phê hòa tan, nước uống đóng chai, trà, chocolate hòa tan.
Xét riêng dòng sản phẩm sữa tươi Vinamilk, công ty có 2 chủng loại: sữa tươi cho

người lớn và sữa tươi cho trẻ em. Trong mỗi loại sản phẩm lại được phân nhỏ tiếp thành
các loại không đường, có đường, hoặc được bổ sung thêm hương vị. Tổng cộng công ty
có 15 loại sản phẩm sữa tươi cho người lớn. Đó là 1 con số khá ấn tượng cho 1 dòng sản
phẩm trong rất nhiều dòng sản phẩm khác nhau của công ty.
Với số lượng sản phẩm nhiều như thế, công ty có thể thoả mãn được nhu cầu của hầu
hết các độ tuổi, hầu hết các loại khẩu vị. Hơn nữa, nếu có ai đó thấy ngại vị béo và ngậy
của sữa, Vinamilk cũng có những lựa chọn về hương vị rất phong phú, đủ làm hài lòng
những khẩu vị cơ bản của người tiêu dùng. Đó là vị dâu và vị sôcôla, không đường và có
đường. Cách điều chỉnh này làm Vinamilk có thể đáp ứng được nhiều nhất có thể những
nhu cầu của khách hàng, qua đó mở rộng được thị trường, có thêm khách hàng, từ đó sẽ
có thêm doanh thu.


13
Đặc biệt, Vinamilk là doanh nghiệp tiên phong trong việc đóng sữa thành những bịch
fino (sữa túi). Xét trong điều kiện cụ thể tại Việt Nam, doanh nghiệp được 2 điểm lợi.
Thứ nhất, chi phí cho bao bì túi rẻ hơn so vơi bao bì hộp, giúp giảm giá thành sản xuất.
Thứ hai, điều quan trọng là đã giảm được giá bán sữa cho người tiêu dung so với bao bì
hộp. Điều này là rất quan trọng vì mặt bằng giá bán sữa ở Việt Nam còn cao so với thu
nhập của người dân, việc giảm được giá bán mà chất lượng không đổi là 1 thành công. Nó
vừa góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho công ty, mặt khác nó cũng bước đầu đem
sản phẩm sữa mang thương hiệu Vinamilk thâm nhập tới những khách hàng thu nhập
trung bình có nhu cầu sử dụng các sản phẩm sữa có chất lượng.
Đây thực sự là 1 lựa chọn thông minh, kinh tế của những bà nội trợ Việt, vừa có thể
đáp ứng nhu cầu sử dụng của gia đình, vừa tiết kiệm. Vì thế, loại sản phẩm sữa đóng bịch
fino là 1 thành công trong chính sách sản phẩm của Vinamilk, nhất là so với đối thủ cạnh
tranh trực tiếp là Dutch Lady.
Với nhiều chủng loại sản phẩm,Vinamilk thực sự đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng
của khách hàng và góp phần phân tán rủi ro cho công ty. Sản phẩm này không có được
doanh số cao như ý muốn thì đã có những sản phẩm khác thay thế hoặc hỗ trợ.

Sữa là một mặt hàng mà bất cứ đối tượng nào cũng có nhu cầu tiêu dùng, vì thế bất cứ
nhóm khách hàng nào cũng có thể trở thành nhóm khách hàng tiêu điểm. Vì thế, chính
sách cơ cấu mà bề rộng chủng loại sản phẩm lớn cho thấy Vinamilk đang hướng tới chiếm
lĩnh thị trường sữa tại Việt Nam. Với cơ cấu, chủng loại sản phẩm đa dạng như vậy, khả
năng thoả mãn khách hàng là rất cao, vì thế mục tiêu chiếm lĩnh thị trường là hoàn toàn có
thể.
2.2.1.2 Chính sách về chất lượng sản phẩm
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, Vinamilk đã không ngừng đổi
mới công nghệ, nâng cao công tác quản lý và chất lượng sản phẩm.
Năm 1999, Vinamilk đã áp dụng thành công Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn quốc tế ISO 9002 và hiện đang áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn quốc tế 9001:2000.
Ngoài 2 hệ thống quản lý chất lượng ISO trên, Vinamilk còn đáp ứng được các hệ
thống quản lý chất lượng khác như:
- Hệ thống đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm - HACCP (Hazard Analysis of
Critical Control Point). Ðây là một hệ thống quản lý chất lượng rất quan trọng đặc
biệt áp dụng đối với các Xí Nghiệp chế biến lương thực và thực phẩm. Hệ thống
này tìm những điểm nào yếu nhất về việc đảm bảo vệ sinh trong xí nghiệp để giải
quyết các điều đó.
- VINA CONTROL: Cơ quan quản lý chất lượng chủ yếu của Việt Nam.


14
Hiện các sản phẩm Vinamilk đều đạt chất lượng cao, được các tổ chức quốc tế kiểm
định. Việc này đã xua tan phần nào khoảng cách chất lượng so vơi sữa ngoại nhập và làm
tăng lòng tin, uy tín của công ty trên thị trường cạnh tranh.
Một trong các chiến dịch nâng cao chất lượng sản phẩm được cho là có tầm ảnh hưởng
đó là việc hợp tác với Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Theo đó chất lượng sản phẩm Vinamilk
sẽ được đảm bảo bằng uy tín Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Việc này sẽ tạo ra được lòng tin
đối với người sử dụng khiến việc tiêu thụ hàng hóa trở nên nhanh hơn.

2.2.2 Những vấn đề cần lưu ý khi phát triển sản phẩm mới tại Vinamilk
2.2.2.1 Vấn đề nguồn nguyên liệu đầu vào
Trong năm 2006 và 2007, một loạt doanh nghiệp kinh doanh sữa tại Việt Nam rơi vào
vụ việc cung cấp sữa hoàn nguyên mà lại ghi trên nhãn là sữa tươi, trong đó có Vinamilk.
Sự khác biệt cơ bản giữa sữa hoàn nguyên và sữa tươi nguyên chất như sau: Sữa tươi
nguyên chất là sản phẩm được chế biến từ 100% nguyên liệu sữa bò tươi. Sữa hoàn
nguyên là sản phẩm được chế biến từ sữa bột được bổ sung nước.
Trong thực tế, các doanh nghiệp được lợi rất nhiều trong việc dùng sữa hoàn nguyên để
chế biến vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, doanh nghiệp không phải tốn chi phí nào trong việc đầu tư, trang bị hệ thống
bảo quản khi thu mua sữa tươi, đào tạo, huấn luyện con người,… tốn kém rất rất nhiều chi
phí.
Thứ hai, nhanh chóng, tiện lợi dễ sản xuất chỉ cần mua sữa bột về pha chế, chi phí cho
sữa bột cũng thấp hơn chi phí cho việc thu mua sữa tươi
Vì một lí do nào đó, có lẽ là do lợi nhuận, các doanh nghiệp đã bỏ rơi chất lượng để
chạy theo lợi nhuận. Sự cố vỡ lở đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và doanh thu
của Vinamilk. Điều đó đòi hỏi công ty phải quyết tâm hơn nữa trong khâu mở rộng vùng
nguyên liệu sữa tươi trong quá trình sản xuất sản phẩm của mình. Tuy nhiên, việc đầu tư
vào vùng nguyên liệu sữa tươi cũng sẽ gặp những trở ngại nhất định về vốn và công
nghệ,...
2.2.2.2 Vấn đề dinh dưỡng của sản phẩm
Hàng triệu người Việt Nam, người lớn, trẻ em đang tiêu dùng sữa tươi của nhà sản xuất
trong nước, ai ai cũng đinh ninh rằng, uống sữa tươi, họ sẽ nhận được các chất dinh
dưỡng cần thiết cho cơ thể: như chất béo, các khoáng chất, canxi, sắt, potassium, vitamin
A, B… có từ sữa bò tươi nguyên chất.
Nhưng nào họ có biết, có tới 78% lượng sữa nước sản xuất tại Việt Nam (theo Cục
Chăn nuôi) được làm từ bột sữa gầy (skim milk powder) hay còn gọi là sữa hoàn nguyên
(Recombined milk products) nhập khẩu. Loại sữa bột này đã bị tách chất béo, đường và
các phụ gia.
Đáng lẽ, để bổ sung chất béo AFM (anhydrous milk fat) từ sữa bò nguyên chất vào sản

phẩm sữa nước, thì các nhà sản xuất đã vì lợi nhuận rẻ gấp 6 lần, họ đã thay AFM bằng


15
dầu cọ! Vì vậy mà sản phẩm sữa nước đã thiếu hẳn hàng loạt chất khoáng quan trọng có
trong sữa tươi nguyên chất.
Thiếu khoảng chất cần thiết, cơ thể người dùng sẽ mắc các bệnh thiếu vi chất. Ví dụ:
thiếu côban sẽ không sản sinh được B12, thiếu kẽm, mannhe… sẽ làm thiếu enzym dẫn
đến ngất xỉu, tê dại chân tay… Người chịu thiệt không ai khác, đó là hàng triệu người tiêu
dùng.
Đối với những sản phẩm là lương thực, thực phẩm thì các công ty đều phải rất cẩn
trọng trong việc bảo quản, đảm bảo vệ sinh an tòan thực phẩm theo tiêu chuẩn, nhất là 1
công ty lớn và có uy tín lâu năm như Vinamilk.
2.2.2.3 Sản phẩm của đối thủ cạnh tranh
Trong việc phát triển sản phẩm sữa nước, Vinamilk phải đối mặt với sự cạnh tranh gay
gắt từ các đối thủ: TH True Milk, Dutch Lady,…
Hiện tại, xét về quy mô phát triển đàn bò sữa tập trung, TH True Milk đang chiếm vị trí
dẫn đầu trong ngành sữa, sản lượng sữa tươi các trang trại của TH True Milk cung cấp
khoảng 400.000 lít sữa/ ngày. Với mong muốn mang lại nguồn sản phẩm sữa nước có
chất lượng tốt hoàn toàn tự nhiên, TH True Milk đã tiến hành dự án Chăn nuôi bò sữa
trong chuồng trại tập trung và chế biến sữa với quy mô 1 tỷ 200 triệu đô-la Mỹ, với tổng
đàn bò sữa dự kiến đến năm 2020 là 137.000, trên diện tích 37.000 hecta đất, là nhà máy
có công suất lớn nhất Đông Nam Á với công suất dự kiến 1.700.000 lít sữa/ngày. Khi
hoàn thành sẽ đáp ứng 50% nhu cầu sản phẩm sữa của thị trường trong nước, trở thành
nhà cung cấp sữa sạch và sữa tươi tiệt trùng của Việt Nam.
Bên cạnh đó, các đối thủ cạnh tranh của Vinamilk cũng thường xuyên cho ra đời các
sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM
TẠI VINIMILK
3.1 Xu hướng phát triển thị trường trong tương lai

Là quốc gia đông dân với mức tăng trưởng dân số cao, khoảng 1,2%/năm, Việt Nam
được đánh giá là thị trường tiềm năng cho các hãng sản xuất sữa. Với tỷ lệ tăng trưởng
GDP 6-8%/năm, thu nhập bình quân đầu người tăng 14,2%/năm cùng với xu hướng cải
thiện sức khỏe và tầm vóc của người Việt khiến nhu cầu sử dụng các loại sữa và các sản
phẩm từ sữa luôn ở mức cao.
Theo dự báo của Hiệp hội Sữa Việt Nam (VDA), lượng sữa tiêu thụ bình quân đầu
người tại Việt Nam vào năm 2010 đạt 15 lít/năm và sẽ tăng gần gấp đôi, lên mức 28
lít/năm vào năm 2020.
Hãng Nghiên cứu Thị trường Euromonitor International cho biết, trong năm 2014,
doanh thu ngành sữa Việt Nam đạt 75.000 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2013 và
dự báo sẽ tăng lên mức 92.000 tỷ đồng trong năm 2015, tăng 23% so với năm 2014. Trong


16
đó, tăng trưởng doanh thu ngành sữa chủ yếu đến từ mảng sữa bột và sữa nước, các sản
phẩm của hai mảng này chiếm 74% tổng giá trị thị trường. Tuy nhiên, điều đáng lưu tâm
là năng lực sản xuất sữa và các sản phẩm từ sữa trong nước được dự báo sẽ không theo kịp
nhu cầu tiêu thụ, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất sữa tươi. Tồn tại lớn nhất của ngành
sữa Việt Nam là thiếu nguyên liệu sữa tươi. Lượng sữa tươi nguyên liệu trong nước chỉ
đáp ứng được 30% nhu cầu sử dụng. Trong khi đó, chất lượng sữa thấp, không ổn định do
nguồn cung chủ yếu từ các hộ chăn nuôi nhỏ, năng suất thấp.
Theo Quy hoạch phát triển ngành Công nghiệp chế biến sữa Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2025, sản lượng sữa tươi sản xuất trong nước sẽ đạt 660 triệu lít, đáp
ứng 35% nhu cầu tới năm 2015, 1 tỷ lít đáp ứng 38% nhu cầu tới năm 2020 và 1,4 tỷ lít
đáp ứng 40% nhu cầu tới năm 2025. Trên thực tế, từ trước đến nay, 70% sữa nước được
sản xuất tại Việt Nam là từ sữa hoàn nguyên. Trong khi đó, nhu cầu về sữa tiệt trùng và
sữa thanh trùng (sữa nước, sản xuất từ sữa tươi) ngày càng tăng cao do thay đổi nhận thức
của người tiêu dùng đối với các sản phẩm bổ dưỡng hơn. Bên cạnh đó, mức tiêu thụ các
sản phẩm khác được sản xuất từ sữa tươi ở mức tốt, đặc biệt là sữa chua cũng đẩy nhu cầu
về sữa tươi lên cao.

Với mức tăng trưởng cao, nhu cầu trên thị trường chưa được đáp ứng hết, đặc biệt là
tại các nhóm hàng nhỏ - thị trường ngách như sữa chua, bơ - phô mai… ngành công
nghiệp chế biến sữa Việt Nam được nhiều chuyên gia đánh giá có tiềm năng phát triển tốt,
đem lại mức sinh lời cao; tuy nhiên, áp lực cạnh tranh trong ngành sẽ tăng cao trong thời
gian tới do sự xuất hiện của nhiều thương hiệu mới trong và ngoài nước.
3.2 Giải pháp phát triển sản phẩm mới của Vinamilk
3.2.1 Phát triển vùng nguyên liệu sữa tươi
Theo như dự kiến, Vinamilk sẽ đưa tổng số đàn bò từ các trang trại và của các nông hộ
lên khoảng 140.000 con vào năm 2017, 160.000 – 180.000 con vào năm 2020. Sản lượng
nguyên liệu đến năm 2020 dự kiến từ 1.000 – 2.000 tấn/ngày. Việc này sẽ làm cho nguồn
cung cấp nguyên liệu trong nước tăng từ 30% đến 40% trong 5 năm tới, góp phần giảm tỷ
lệ phụ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
3.2.1 Cải tiến sản phẩm sẵn có
Từ nhận định, đánh giá Vinamilk là công ty tiến hành nhiều những đổi mới cho sản
phẩm hiện tại. Trong khi đó những đối thủ rất linh hoạt trong việc này, phần nào cũng làm
tăng thêm khả năng cạnh tranh về sản phẩm sữa trên thị trường Việt Nam. Hiện nay, các
dòng sữa tươi nguyên chất 100% đang tiếp tục cải tiến mới bổ sung nhiều hàm lượng chất
mới dành cho trẻ em đến trường cần thêm nhiều hàm lượng chất có năng lượng và tăng
chiều cao.
3.2.3 Sáng chế ra sản phẩm mới hoàn toàn
Tiếp tục tập trung nghiên cứu những sản phẩm thị trường Việt Nam chưa có hoặc
những sản phẩm hiện tại chưa đáp ứng được thị trường Việt Nam: cụ thể ý tưởng là nên


17
phát triển dòng sữa gắn liền hoặc pha trộn được với hương vị thiên nhiên có lợi cho sức
khỏe, chống ung thư, chống lão hóa, thanh lọc cơ thể. Ví dụ như có thể kết hợp tạo nên
dòng sữa chua và bơ và những loại hoa quả mà các hãng khác chưa có.

KẾT LUẬN

Vinamilk đã rất thành công trong các chiến lược sản phẩm của mình. Các chiến lược
đưa ra đều dựa trên nhu cầu thực tế của thị trường nên có hiệu quả tức thì. Thêm vào đó
ngân sách chi cho quảng cáo, giới thiệu sản phẩm mới rất lớn tạo điều kiện thuận lợi cho
việc đưa thông tin tới người dùng. Chất lượng sản phẩm vinamilk cũng rất được chú trọng
và đã tạo được lòng tin với khách hàng. Bao gói Vinamilk đơn giản nhưng đầy đủ và đẹp
mắt nên cũng gây được sự sự chú ý của đông đảo người tiêu dùng.
Cùng với sự phát triển, đổi mới của đất nước, tính tới nay Công ty cổ phần sữa Việt
Nam Vinamilk đã thành lập được gần 40 năm. Dấu ấn sâu đậm nhất của chặng đường này
chính là đã tạo dựng được một thương hiệu Vinamilk không chỉ mang tầm quốc gia, mà
còn vươn ra thị trường thế giới.


18
Công ty đã đưa ra những chiến lược kinh doanh của riêng mình, phù hợp với tiềm lực
của mình và thị trường hướng tới. Trong đó, chiến lược marketing của công ty đã khá
thành công. Điều đó được phản ánh rõ qua con số doanh thu mà mỗi năm công ty thu về.
Mong rằng công ty Vinamilk sẽ có những thay đổi về chiến lược kinh doanh cũng như
chiến lược marketing sao cho phù hợp nhất, đưa công ty ngày càng phát triển.



×