Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Vi phạm pháp luật về tác giả nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.93 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Tiểu luận môn học:

PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Đề tài:
Vi phạm pháp luật về tác giả nước ta hiện nay- Thực
trạng và giải pháp
Thành viên nhóm :


MỤC LỤC

CHƯƠNG 1 - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH........... 3
1.1. Chủ thể của quyền tác giả. ............................................................3
1.2. Đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả. .......................... 6
1.3. Căn cứ phát sinh quyền tác giả. ...................................................12
1.4. Nội dung quyền tác giả. ..............................................................12
1.5. Giới hạn quyền tác giả.................................................................17
1.6. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả. ................................................... 18
CHƯƠNG 2 - XÁC ĐỊNH HÀNH VI VÀ THỰC TRẠNG XÂM
PHẠM QUYỀN NHÂN THÂN CỦA TÁC GIẢ.. .......20
2.1. Xác định các hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả. ...20
2.2. Thực trạng xâm phạm quyền nhân thân của tác giả. ...................25
CHƯƠNG 3 - XÁC ĐỊNH HÀNH VI VÀ THỰC TRẠNG XÂM
PHẠM QUYỀN TÀI SẢN CỦA TÁC GIẢ.. ...............34
3.1. Xác định các hành vi xâm phạm quyền tài sản của tác giả. ........34


3.2. Thực trạng xâm phạm quyền tài sản của tác giả. ........................ 41


CHƯƠNG 4 - NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THỰC TRẠNG XÂM
PHẠM
QUYỀN TÁC GIẢ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ........................ 50
4.1. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng xâm phạm quyền tác giả. .......50
4.2. Một số kiến nghị .........................................................................53
4.1.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định chung về quyền tác giả. ...
..................................53
4.1.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định về xử lý hành vi xâm phạm
quyền tác giả ........................................................................ 55
4.1.3. Kiến nghị hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tác giả. 59
LỜI KẾT....................................................................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


4

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
1

. Chủ thể của quyền tác giả
Theo Điều 4 Luật SHTT, quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Và chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá
nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ. Như vậy, chủ
thể của quyền tác giả có thể là chính tác giả (đồng tác giả), hoặc chủ sở

hữu quyền tác giả hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu quyền tác giả
chuyển giao quyền tác giả.
- Tác giả là cá nhân trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học từ lao động trí óc. Theo Điều 8
Nghị định 100/2006/NĐ- CP, tác giả có thể là :

+ Cá nhân Việt Nam có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả;
+ Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình
thức vật chất nhất định tại Việt Nam;
+ Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt
Nam;
+ Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều
ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.
Tổ chức, cá nhân làm công việc hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu
cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả.
Theo Điều 37 Luật SHTT : “Tác giả sử dụng thời gian, tài chính,
cơ sở vật chất- kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm có các quyền
nhân thân quy định tại Điều 19 và các quyền tài sản quy định tại Điều 20
của Luật này”. Tác giả có thể đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả hoặc


5

không. Nếu tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả thì sẽ có quyền
theo quy định tại Điều 37 như trên. Trong trường hợp tác giả không đồng
thời là chủ sở hữu quyền tác giả thì tác giả có các quyền nhân thân tại
khoản 1, 2 và 4 Điều 19 Luật SHTT, và quyền được hưởng tiền nhuận
bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác theo thỏa thuận với chủ sở hữu
quyền tác giả.


 Các đồng tác giả :
Các đồng tác giả là những người cùng nhau trực tiếp sáng tạo ra
tác phẩm. Họ sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất- kỹ thuật của
mình để cùng sáng tạo ra tác phẩm, vì vậy họ có chung các quyền tại
Điều 19 và Điều 20 Luật SHTT đối với tác phẩm đó.
Có thể phân chia các đồng tác giả làm hai loại :
 Loại thứ nhất : Những người cùng sáng tạo ra tác phẩm thống nhất mà
phần sáng tác của mỗi người không thể tách ra để sử dụng riêng, vì nó sẽ làm
phương hại đến phần của các đồng tác giả khác. Ví dụ, trong một tác phẩm điện
ảnh thống nhất có các đồng tác giả là các diễn viên, đạo diễn, người quay phim,
dựng phim… Các đồng tác giả thuộc loại này thường xuất hiện trong các tác
phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu. Điều 19 Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy
định về quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu:
“1. Tác phẩm điện ảnh, sân khấu được sáng tạo bởi tập thể tác giả.
Những người tham gia sáng tạo tác phẩm điện ảnh, sân khấu quy định tại
khoản 1 Điều 21 của Luật Sở hữu trí tuệ được hưởng các quyền nhân thân đối
với phần sáng tạo của mình theo quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của
Luật Sở hữu trí tuệ.
Nhà sản xuất, đạo diễn, tác giả kịch bản có thể thoả thuận về việc thực
hiện các quyền đặt tên tác phẩm điện ảnh quy định tại khoản 1 Điều 19 của


6

Luật Sở hữu trí tuệ và việc sửa chữa kịch bản tác phẩm điện ảnh quy định tại
khoản 4 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ.”
 Loại thứ hai : Những người cùng sáng tạo ra tác phẩm thống nhất
mà phần sáng tác của mỗi người có thể tách ra để sử dụng riêng mà
không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác. Ví dụ như
một bài hát được phổ nhạc có hai đồng tác giả cùng nhau sáng tạo nên:

tác giả phần thơ và tác giả phần nhạc. Trong trường hợp này, họ sẽ có
các quyền tại Điều 19 và Điều 20 Luật SHTT đối với phần riêng biệt đó.
- Chủ sở hữu quyền tác giả là cá nhân, tổ chức nắm giữ một, một
số hoặc toàn bộ các quyền tài sản quy định tại Điều 20 Luật SHTT. Theo
Điều 27 Nghị định 100/2006/NĐ- CP, chủ sở hữu quyền tác giả bao
gồm :


Tổ chức, cá nhân Việt Nam;



Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được sáng tạo và thể hiện
dưới hình thức vật chất nhất định tại Việt Nam;



Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu
tiên tại Việt Nam;



Tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt
Nam theo Điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành
viên.
Theo quy định của Luật SHTT, chủ sở hữu quyền tác giả có thể

là :

 Tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp

đồng với tác giả có các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19
Luật SHTT, trừ trường hợp có thoả thuận khác.


7

 Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả theo quy định của
pháp luật về thừa kế có các quyền tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 Luật
SHTT.

 Tổ chức, cá nhân được chuyển giao một, một số hoặc toàn bộ
các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 Luật SHTT theo thoả
thuận trong hợp đồng có các quyền được chuyển giao theo thỏa thuận
trong hợp đồng đó.
Tổ chức, cá nhân đang quản lý tác phẩm khuyết danh được hưởng
quyền của chủ sở hữu cho đến khi danh tính của tác giả được xác định.

 Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả đối với:
. Tác phẩm khuyết danh, trừ trường hợp tác phẩm khuyết danh
đang được tổ chức, cá nhân quản lý theo quy định tại khoản 2 Điều 41
Luật SHTT;
. Tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả
chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc
không được quyền hưởng di sản;
. Tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở
hữu cho Nhà nước.
1.2. Đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả
Đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm sáng tạo
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được thể hiện bằng bất kỳ
phương tiện hay hình thức nào, không phân biệt nội dung, giá trị và

không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào.
Theo Điều 14 Luật SHTT và hướng dẫn tại Nghị định
100/2006/NĐ-CP, tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo
hộ phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà
không sao chép từ tác phẩm của người khác. Bao gồm:


8

- Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác
phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
Trong đó, tác phẩm thể hiện dưới dạng ký tự khác là tác phẩm
được thể hiện bằng các ký hiệu thay cho chữ viết như chữ nổi cho người
khiếm thị, ký hiệu tốc ký và các ký hiệu tương tự khác mà các đối tượng
tiếp cận có thể sao chép được bằng nhiều hình thức khác nhau.
- Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác: là loại hình tác phẩm
thể hiện bằng ngôn ngữ nói và phải được định hình dưới một hình thức
vật chất nhất định.
- Tác phẩm báo chí bao gồm các thể loại: phóng sự, ghi nhanh,
tường thuật, phỏng vấn, phản ánh, điều tra, bình luận, xã luận, chuyên
luận, ký báo chí và các thể loại báo chí khác nhằm đăng, phát trên báo in,
báo nói, báo hình, báo điện tử hoặc các phương tiện khác.
- Tác phẩm âm nhạc: là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc
nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác có hoặc không có lời,
không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn.
- Tác phẩm sân khấu: là tác phẩm thuộc các loại hình nghệ thuật
biểu diễn, bao gồm kịch (kịch nói, nhạc vũ kịch, ca kịch, kịch câm), xiếc,
múa, múa rối và các loại hình tác phẩm sân khấu khác.
- Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp
tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh): là những tác phẩm

được hợp thành bằng hàng loạt hình ảnh liên tiếp tạo nên hiệu ứng
chuyển động kèm theo hoặc không kèm theo âm thanh, được thể hiện
trên một chất liệu nhất định và có thể phân phối, truyền đạt tới công
chúng bằng các thiết bị kỹ thuật, công nghệ, bao gồm loại hình phim
truyện, phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình và các loại hình
tương tự khác.


9

- Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
Tác phẩm tạo hình là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc,
hình khối, bố cục như: Hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt và các
hình thức thể hiện tương tự, tồn tại dưới dạng độc bản. Riêng đối với loại hình
đồ hoạ, có thể được thể hiện tới phiên bản thứ 50, được đánh số thứ tự có chữ
ký của tác giả.
Tác phẩm mỹ thuật ứng dụng là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét,
màu sắc, hình khối, bố cục với tính năng hữu ích có thể gắn liền với một đồ vật
hữu ích, được sản xuất hàng loạt bằng tay hoặc bằng máy như: biểu trưng; hàng
thủ công mỹ nghệ; hình thức thể hiện trên sản phẩm, bao bì sản phẩm.
- Tác phẩm nhiếp ảnh: là tác phẩm thể hiện hình ảnh của thế giới
khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh
được tạo ra hay có thể được tạo ra bằng bất cứ phương pháp kỹ thuật nào
(hoá học, điện tử hoặc phương pháp khác). Hình ảnh tĩnh được lấy ra từ
một tác phẩm điện ảnh hay tương tự như điện ảnh không được coi là tác
phẩm nhiếp ảnh mà là một phần của tác phẩm điện ảnh đó.
- Tác phẩm kiến trúc: là các bản vẽ thiết kế dưới bất kỳ hình thức
nào thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng, quy
hoạch không gian (quy hoạch xây dựng) đã hoặc chưa xây dựng. Tác
phẩm kiến trúc bao gồm các bản vẽ thiết kế về mặt bằng, mặt đứng, mặt

cắt, phối cảnh, thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình, tổ hợp
công trình kiến trúc, tổ chức không gian, kiến trúc cảnh quan của một
vùng, một đô thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị, khu dân cư nông
thôn.
Mô hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không
gian được coi là tác phẩm kiến trúc độc lập.


10

Theo quy định trên, tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ kiến trúc, chứ
không phải là một tòa nhà có hình khối kiến trúc. “Việc sao chép bản vẽ
thành nhiều bản để nộp lên cơ quan xin phép xây dựng, đưa cho nhà thầu
xây dựng, đưa cho nhà cung cấp v.v… lại bị coi là xâm phạm quyền tác
giả. Chủ sở hữu quyền tác giả có quyền cấm sao chụp bản vẽ và cấm sử
dụng các bản vẽ sao chép từ bản vẽ của mình (dù là chép tay hay
photocopy). Điều này sẽ dẫn đến cùng một hệ quả là người sao chép
không thể xây dựng một ngôi nhà giống với ngôi nhà của chủ sở hữu bản
vẽ kiến trúc. Việc chụp ảnh một toà nhà, sau đó căn cứ vào đấy để xây
dựng một toà nhà khác giống hệt chưa phải là cơ sở để kết luận hành vi
xâm phạm quyền tác giả, trước khi trả lời câu hỏi: toà nhà là tác phẩm
thể loại gì và có thể được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả không.”1
- Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến
trúc, công trình khoa học bao gồm họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên
quan đến địa hình, các loại công trình khoa học và kiến trúc.
- Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
Theo Điều 23 Luật SHTT, tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm hoặc các cá
nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc
điểm văn hoá và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền

bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác. Tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian bao gồm:
+ Truyện, thơ, câu đố: là các loại hình nghệ thuật ngôn từ như
truyện tiếu lâm, ngụ ngôn, sử thi, thần thoại, truyền thuyết, giai thoại,
thơ, ca dao, tục ngữ, câu đố và các hình thức thể hiện tương tự khác.
+ Điệu hát, làn điệu âm nhạc;
1

/>%E1%BB%81n-tac-gi%E1%BA%A3


11

+ Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi : là các loại hình nghệ
thuật biểu diễn như tuồng, chèo, cải lương, điệu hát, làn điệu âm nhạc;
điệu múa, vở diễn, trò chơi dân gian, hội làng, các hình thức nghi lễ dân
gian và các hình thức thể hiện tương tự khác.
+ Sản phẩm nghệ thuật đồ hoạ, hội hoạ, điêu khắc, nhạc cụ, hình
mẫu kiến trúc và các loại hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ
hình thức vật chất nào. Đây là các loại hình nghệ thuật tạo hình như đồ
họa, hội họa, điêu khắc, nhạc cụ; hình mẫu kiến trúc và các hình thức thể
hiện tương tự khác.
Tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ
gìn giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Tuy
nhiên, Điều 23 Luật SHTT cần giải thích rõ hơn nữa khái niệm “giá trị
đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian” để quy định thêm
dễ hiểu, dễ vận dụng trong thực tế.
- Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
Theo Điều 22 Luật SHTT, chương trình máy tính là tập hợp các

chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ
dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc được, có
khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt được
một kết quả cụ thể.
Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học, dù
được thể hiện dưới dạng mã nguồn hay mã máy.
Sưu tập dữ liệu là tập hợp có tính sáng tạo thể hiện ở sự tuyển
chọn, sắp xếp các tư liệu dưới dạng điện tử hoặc dạng khác. Việc bảo hộ
quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu không bao hàm chính các tư liệu đó,
không gây phương hại đến quyền tác giả của chính tư liệu đó.


12

- Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn
ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải,
tuyển chọn. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định trên nếu
không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để
làm tác phẩm phái sinh.
Các tác phẩm nêu trên để được bảo hộ quyền tác giả thì phải có
tính nguyên gốc. Nghĩa là ý tưởng, nội dung của tác phẩm không nhất
thiết phải mới, nhưng hình thức thể hiện của tác phẩm đó phải do tác giả
tự mình sáng tạo ra mà không phải sao chép từ một hoặc nhiều tác phẩm
khác.
So với Điều 747 BLDS 1995, Điều 14 Luật SHTT cũng quy định về đối
tượng thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả theo dạng liệt kê. Tuy nhiên,
BLDS 1995 còn có quy định tại điểm p về “tác phẩm khác do pháp luật
quy định” cũng thuộc đối tượng được bảo hộ quyền tác giả, mà Điều 14
Luật SHTT không hề có quy định này. Việc quy định các đối tượng được
bảo hộ quyền tác giả theo dạng liệt kê khiến cho điều luật rõ ràng, dễ

hiểu, nhưng cũng làm cho điều luật không có tính dự báo, dễ bị sửa đổi,
bổ sung khi có đối tượng mới xuất hiện. Vì vậy, khoản 1 Điều 14 Luật
SHTT nên được bổ sung thêm điểm“n) Tác phẩm khác do pháp luật quy
định” để phù hợp với điều kiện thực tế đang ngày càng phát triển hiện
nay.
Về nội dung của tác phẩm được bảo hộ, nếu như Điều 749 BLDS 1995
có quy định về việc Nhà nước không bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm có nội dung không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước 2, thì
Luật SHTT đã bỏ quy định này, mà bảo hộ các tác phẩm có tính sáng tạo
2

Điều 749. Tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ

1- Nhà nước không bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm có nội dung sau đây:
a) Chống lại Nhà nước Việt Nam, phá hoại khối đoàn kết toàn dân;


13

không phân biệt nội dung, giá trị của chúng, bởi lẽ, có những tác phẩm
rất có tính sáng tạo, có nội dung không phù hợp với điều kiện đất nước
vào một thời điểm nhất định, nhưng lại có tư tưởng có thể phù hợp với
điều kiện đất nước ở thời điểm khác, những tác phẩm này vẫn cần được
bảo hộ quyền tác giả.
Luật SHTT cũng liệt kê các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ
quyền tác giả tại Điều 15, bao gồm:
- Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin: là các thông tin báo chí ngắn hàng
ngày, chỉ mang tính chất đưa tin không có tính sáng tạo.
- Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc
lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó, bao gồm: văn bản của

cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trịxã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức kinh
tế, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý,
số liệu.
Nếu như tin tức thời sự thuần túy đưa tin và các văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản
dịch chính thức của văn bản đó vẫn được Nhà nước bảo hộ theo quy định
tại Điều 748 BLDS 1995, thì Luật SHTT lại liệt kê chúng vào nhóm đối
tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả tại Điều 15. Quy định
của Luật SHTT là hợp lý, bởi lẽ những tin tức thời sự thuần túy đưa tin là
b) Tuyên truyền bạo lực, chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước; truyền bá tư
tưởng, văn hoá phản động, lối sống dâm ô đồi trụỵ, các hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan,
phá hoại thuần phong mỹ tục;
c) Tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại, bí mật đời tư của cá nhân và
các bí mật khác do pháp luật quy định;
d) Xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm vĩ nhân, anh hùng dân tộc; vu khống, xúc phạm
uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân.


14

những thông tin không có tính sáng tạo nên không được bảo hộ như
những tác phẩm; còn những văn bản nói trên là văn bản của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, cần được phổ biến cho người dân để nâng cao hiểu
biết pháp luật trong nhân dân, việc đưa những văn bản này ra khỏi phạm
vi đối tượng bảo hộ quyền tác giả đã giúp người dân dễ dàng tiếp cận với
các quy định của pháp luật.
3

Căn cứ phát sinh quyền tác giả


Theo khoản 1 Điều 6 Luật SHTT, quyền tác giả được phát sinh kể từ khi
tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định,
không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã
công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký. Riêng đối với tác
phẩm văn học, nghệ thuật dân gian tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 23 Luật SHTT,
bao gồm: truyện, thơ, câu đố, điệu hát, làn điệu âm nhạc, điệu múa, vở diễn,
nghi lễ và các trò chơi, được bảo hộ không phụ thuộc vào việc định hình.
4

Nội dung quyền tác giả
Theo Điều 18 Luật SHTT, nội dung của quyền tác giả đối với tác
phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
* Quyền nhân thân
Theo Điều 19 Luật SHTT, quyền nhân thân của tác giả gồm các
quyền:
- Quyền đặt tên cho tác phẩm (khoản 1)

Quyền đặt tên cho tác phẩm tồn tại độc lập với các quyền tài sản, chỉ
thuộc về tác giả- người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, cho dù tác giả có đồng
thời là chủ sở hữu quyền tác giả hay không. Quyền đặt tên cho tác phẩm không
áp dụng đối với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.
Đối với chương trình máy tính, khoản 4 Điều 22 Luật SHTT quy định cho
phép tác giả chương trình máy tính và các nhà đầu tư sản xuất chương trình


15

máy tính có thể thoả thuận về việc đặt tên và việc chỉnh sửa, nâng cấp, phát
triển các chương trình máy tính.

- Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên
thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng (khoản 2)
- Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác
phẩm (khoản 3): Quyền này chỉ dành cho chủ sở hữu quyền tác giả. Nếu
tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả thì quyền này thuộc về tác
giả đó. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng quyền này phải xin phép
và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu
quyền tác giả.
Theo khoản 2 Điều 22 Nghị định 100/2006/NĐ-CP, quyền công bố tác phẩm
hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến
công chúng với số lượng bản sao đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng
tuỳ theo bản chất của tác phẩm, do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện
hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả. Công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm
sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát
sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công
trình từ tác phẩm kiến trúc.
- Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa
chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả, trừ trường hợp có thỏa
thuận với tác giả (khoản 4).
Các quyền nhân thân tại Điều 19 Luật SHTT không phải là các
quyền nhân thân không gắn với tài sản, mà là các quyền nhân thân gắn
với tài sản. Bởi lẽ, quyền nhân thân không gắn với tài sản là các quyền
đối với tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm… được quy định từ


16

Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005. “Các quyền nhân thân không gắn với

tài sản này được công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và
suốt đời, không phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị hay mức
độ tài sản của người đó. Các quyền nhân thân này thể hiện giá trị tinh
thần của chủ thể đối với chính bản thân mình, luôn gắn với chính bản
thân người đó và không dịch chuyển được sang chủ thể khác”3. Trong khi
đó, các quyền nhân thân gắn với tài sản chỉ phát sinh từ khi có sự ra đời
của một tài sản vô hình, đối chiếu với các quyền nhân thân tại Điều 19
Luật SHTT, ta thấy đây đều là những quyền phát sinh khi có sự ra đời và
tồn tại của tác phẩm- tài sản vô hình.
* Quyền tài sản
- Theo khoản 1 Điều 20 Luật SHTT, quyền tài sản bao gồm:
+ Làm tác phẩm phái sinh;
BLDS 1995 không quy định về quyền “làm tác phẩm phái sinh”, mà chỉ
quy định về quyền “dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể” tại điểm c
khoản 2 Điều 751. Thay vì quy định như vậy, Luật SHTT đã quy định
quyền “làm tác phẩm phái sinh”. Quy định của Luật SHTT có tính khái
quát cao và hợp lý hơn.
Quyền làm tác phẩm phái sinh bao gồm quyền dịch, phóng tác, cải
biên, chuyển thể, tuyển tập, chú giải. Quyền làm tác phẩm phái sinh
thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả. Khi một người muốn làm tác phẩm
phái sinh thì phải được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả đối với
tác phẩm gốc. Điểm i khoản 1 Điều 25 Luật SHTT còn quy định một
trường hợp làm tác phẩm phóng tác không phải xin phép, không phải trả
tiền nhuận bút, thù lao, đó là trường hợp “Chuyển tác phẩm sang chữ nổi
hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị”.
3

TS. Bùi Đăng Hiếu- Trường Đại học Luật Hà Nội/ Khái niệm và phân loại quyền nhân thân/ Tạp chí
Luật học số tháng 7/2009 ( />


17

+ Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
Đây là một quyền tài sản mới của tác giả được quy định trong Luật SHTT
2005 so với BLDS 1995. Luật SHTT 2005 quy định bổ sung quyền này nhằm
mở rộng hơn nữa khả năng của chủ thể quyền đối với các tác phẩm. Quyền biểu
diễn tác phẩm trước công chúng do chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực
hiện hoặc cho phép người khác thực hiện biểu diễn tác phẩm một cách trực tiếp
hoặc thông qua các chương trình ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ
thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
Việc biểu diễn tác phẩm trước công chúng bao gồm việc biểu diễn tác
phẩm tại bất cứ nơi nào ngoại trừ tại gia đình.
+ Sao chép tác phẩm:
Quyền sao chép là một trong các quyền tài sản độc quyền thuộc quyền tác
giả, do chủ sở hữu thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra
bản sao tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc
tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử.
Sao chép tác phẩm có thể là sao chép một phần hoặc toàn bộ tác phẩm.
Sao chép tác phẩm khác trích dẫn tác phẩm. Việc trích dẫn tác phẩm chỉ là sử
dụng một phần của tác phẩm, không nhằm mục đích kinh doanh, không làm ảnh
hưởng đến việc sử dụng bình thường tác phẩm và phải nêu rõ nguồn gốc tác
phẩm. Các hành vi sử dụng không phải là trích dẫn đều có thể bị coi là sao chép
và phải được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả.
Ngoài ra, Điều 25 Luật SHTT còn quy định những trường hợp sao chép
tác phẩm đã công bố mà không phải xin phép, không phải trả tiền thù lao như
sau:
“a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học,
giảng dạy của cá nhân;



18

đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích
nghiên cứu;”
Riêng đối với chương trình máy tính, theo khoản 3 Nghị định
85/2011/NĐ-CP quy định bổ sung Điều 19a của Nghị định
100/2006/NĐ-CP, theo đó, tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng hợp pháp
bản sao chương trình máy tính có thể làm không quá một bản sao dự
phòng, để thay thế khi bản sao đó bị mất, bị hư hỏng hoặc không thể sử
dụng được.
+ Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
Quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm là quyền của chủ sở hữu
quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện bằng bất
kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để
bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác
phẩm. Đối với tác phẩm tạo hình, tác phẩm nhiếp ảnh thì quyền phân phối còn
bao gồm cả việc trưng bày, triển lãm trước công chúng.
+ Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu
tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật
nào khác;
Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến,
vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác là
quyền độc quyền thực hiện của chủ sở hữu quyền tác giả hoặc cho phép người
khác thực hiện để đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng mà
công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn.
+ Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình
máy tính.


19


Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình
máy tính do chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người
khác thực hiện việc cho thuê để sử dụng có thời hạn.
Không áp dụng quyền cho thuê đối với chương trình máy tính, khi bản
thân chương trình đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê như chương
trình máy tính gắn với việc vận hành bình thường các loại phương tiện giao
thông cũng như các máy móc, thiết bị kỹ thuật khác.
- Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có độc quyền thực hiện hoặc cho
phép người khác thực hiện các quyền tại khoản 1 Điều 20 Luật SHTT
như trên theo quy định của Luật SHTT. Tổ chức, cá nhân khi khai thác,
sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền trên phải xin phép và trả
tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền
tác giả.
- Riêng đối với việc sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải
tuân theo Điều 23 Luật SHTT và Điều 20 Nghị định 100/2006/NĐ-CP.
Cụ thể:
+ Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian được bảo hộ không phụ
thuộc vào việc định hình bao gồm các tác phẩm tại điểm a, b, c khoản 1
Điều 23 Luật SHTT như sau:


Truyện, thơ, câu đố;



Điệu hát, làn điệu âm nhạc;




Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi.
+ Sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là việc nghiên
cứu sưu tầm, giới thiệu giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian. Người sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
phải thoả thuận về việc trả thù lao cho người lưu giữ tác phẩm văn học,


20

nghệ thuật dân gian và được hưởng quyền tác giả đối với phần nghiên
cứu sưu tầm, giới thiệu của mình.
+ Tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị
đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Trong đó, dẫn chiếu xuất
xứ loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là việc chỉ ra địa danh của
cộng đồng cư dân nơi tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian được hình thành.
1.5. Giới hạn quyền tác giả
Theo Điều 7 Luật SHTT, giới hạn của quyền tác giả được quy định
như sau:
- Chủ thể quyền tác giả chỉ được thực hiện quyền của mình trong
phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của Luật SHTT.
- Việc thực hiện quyền tác giả không được xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có
liên quan
- Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh,
dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội quy định tại Luật
SHTT, Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền tác giả thực
hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền tác giả phải cho phép tổ
chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những

điều kiện phù hợp;
1.6. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Điều 27 Luật SHTT quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả.
Theo đó:..............
- Các quyền nhân thân quy định tại khoản 1, 2 và 4 Điều 19 Luật
SHTT dưới đây được bảo hộ vô thời hạn:


21


Quyền đặt tên cho tác phẩm ;



Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút
danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng ;



Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén
hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự
và uy tín của tác giả.
- Quyền nhân thân tại khoản 3 Điều 19 Luật SHTT và các quyền tài sản tại
Điều 20 Luật SHTT, bao gồm:



Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm ;




Quyền làm tác phẩm phái sinh ;



Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng ;



Quyền sao chép tác phẩm ;



Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm ;



Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô
tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác ;



Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Các quyền trên được bảo hộ theo thời hạn do pháp luật quy định, cụ thể là:
+ Tác phẩm điện ảnh, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là
75 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
Đối với tác phẩm điện ảnh chưa được công bố trong thời hạn 25
năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là 100 năm,
kể từ khi tác phẩm được định hình.

Đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất
hiện thì có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo
năm tác giả chết; nếu tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm
dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;


22

+ Đối với tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, thời
hạn bảo hộ là 50 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
Trong thời hạn 50 năm, nếu tác phẩm chưa công bố thì thời hạn bảo hộ là
50 năm, kể từ khi tác phẩm được định hình.
+ Tác phẩm không thuộc loại hình quy định như trên có thời hạn
bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết;
trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào
năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
 Thời hạn bảo hộ theo các quy định trên chấm dứt vào thời điểm
24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác
giả.
+ Đối với tác phẩm di cảo (tác phẩm được công bố lần đầu sau khi
tác giả đã chết), thời hạn bảo hộ quyền tài sản và quyền nhân thân gắn
với tài sản là 50 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.

CHƯƠNG 2
XÁC ĐỊNH HÀNH VI VÀ THỰC TRẠNG XÂM PHẠM QUYỀN
NHÂN THÂN CỦA TÁC GIẢ
2.1. Xác định các hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác
giả



23

Theo Điều 5 Nghị định 105/2006/NĐ- CP, hành vi bị coi là xâm phạm
quyền SHTT nói chung, và xâm phạm quyền nhân thân của tác giả nói
riêng phải có đủ bốn căn cứ:
Thứ nhất, đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang
được bảo hộ quyền tác giả.
Theo khoản 7 Điều 3 Nghị định 105/2006/NĐ- CP, đối tượng bị
xem xét được hiểu là đối tượng bị nghi ngờ và bị xem xét nhằm đưa ra
kết luận có phải là đối tượng xâm phạm hay không.
Mặt khác, Điều 28 Luật SHTT quy định về những hành vi xâm phạm
quyền nhân thân của tác giả như sau:
“Điều 28. Hành vi xâm phạm quyền tác giả........
1. Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
2. Mạo danh tác giả.
3. Công bố ... tác phẩm mà không được phép của tác giả.
4. Công bố ... tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả
đó.
5. Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.”
Như vậy, theo quy định trên, và đối chiếu với Điều 28 Luật SHTT, các
đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ
quyền nhân thân của tác giả bao gồm:


Tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học bị nghi ngờ và và bị xem xét nhằm
đưa ra kết luận có phải là tác phẩm chiếm đoạt quyền tác giả hay không.




Tác phẩm bị nghi ngờ và bị xem xét nhằm đưa ra kết luận có phải là là tác
phẩm mạo danh tác giả hay không.



Tác phẩm bị nghi ngờ và bị xem xét nhằm đưa ra kết luận có phải là tác phẩm
được công bố mà không được phép của tác giả hay không.


24


Tác phẩm bị nghi ngờ và bị xem xét nhằm đưa ra kết luận có phải là tác phẩm
có đồng tác giả được công bố mà không được phép của đồng tác giả đó hay
không.



Tác phẩm bị nghi ngờ và bị xem xét nhằm đưa ra kết luận có phải là tác phẩm
bị sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại
đến danh dự và uy tín của tác giả hay không.
Theo điều 6 Nghị định 105/2006/NĐ-CP, việc xác định đối tượng
được bảo hộ được thực hiện bằng cách xem xét các tài liệu, chứng cứ
chứng minh căn cứ phát sinh, xác lập quyền theo Điều 6 Luật SHTT.
- Đối với quyền tác giả không đăng ký bảo hộ tại cơ quan có thẩm
quyền (Cục bản quyền tác giả), thì quyền này được xác định trên cơ sở
bản gốc tác phẩm và các tài liệu liên quan (nếu có). Nếu bản gốc tác
phẩm và các tài liệu liên quan không còn tồn tại, quyền tác giả được xem
là có thực dựa trên cơ sở các thông tin về tác giả được thể hiện thông
thường trên các bản sao được công bố hợp pháp.

- Đối với quyền tác giả đã được đăng ký bảo hộ tại cơ quan có
thẩm quyền, thì việc xác định đối tượng được bảo hộ dựa vào Giấy
chứng nhận đăng ký quyền tác giả và các tài liệu kèm theo.
Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.
Khoản 5 Điều 3 Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định yếu tố xâm
phạm là yếu tố được tạo ra từ hành vi xâm phạm. Như vậy, yếu tố xâm
phạm là kết quả của hành vi xâm phạm. Theo khoản 1 Điều 7 Nghị định
105/2006/NĐ- CP, yếu tố xâm phạm quyền nhân thân của tác giả là: Tác
phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm đoạt quyền
tác giả. Sản phẩm có yếu tố xâm phạm trên bị coi là sản phẩm xâm phạm
quyền tác giả. Căn cứ xác định yếu tố xâm phạm quyền tác giả là phạm


25

vi bảo hộ quyền tác giả được xác định theo hình thức thể hiện bản gốc
tác phẩm.
Theo Điều 28 Luật SHTT, những hành vi sau đây là hành vi xâm phạm
quyền nhân thân của tác giả:


Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học
(khoản 1).



Mạo danh tác giả (khoản 2).




Công bố tác phẩm mà không được phép của tác giả (khoản 3).



Công bố tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó
(khoản 4).



Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả (khoản 5).
Đối chiếu quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định 105/2006/NĐ-CP với
Điều 28 Luật SHTT, ta thấy:
- Hành vi chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học tại khoản 1 Điều 28 Luật SHTT có yếu tố xâm phạm là
“tác phẩm chiếm đoạt quyền tác giả”.
- Hành vi mạo danh tác giả tại khoản 2 Điều 28 Luật SHTT có yếu
tố xâm phạm là “tác phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh tác
giả”.
Tuy nhiên, đối với các hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả tại
các khoản 3, 4 và 5 Điều 28 Luật SHTT, yếu tố xâm phạm trong đối
tượng bị xem xét không được pháp luật quy định cụ thể. Thiếu sót của
Nghị định 105/2006/NĐ-CP có thể dẫn đến khó khăn trong thực tế khi
xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả nói riêng và quyền sở hữu trí
tuệ nói chung. Vì vậy, quy định về yếu tố xâm phạm quyền tác giả tại
Điều 7 Nghị định 105/2006/NĐ- CP nên được bổ sung như sau:


×