Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

“Đánh giá tình hình lập hồ sơ địa chính, đăng ký đất đai, cấp đổi GCNQSDĐ trên địa bàn Huyện Đô Lương –Nghệ An giai đoạn 2010 – 2015”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.02 KB, 86 trang )

LỜI CẢM ƠN
Nhằm tạo điều kiện cho sinh viên áp dụng lý thuyết đã được học vào thực
tiễn, củng cố và hoàn thiện những kiến thức, kỹ năng được trang bị. Dưới sự
nhất trí của Trường Đại Học Vinh, Khoa Địa lý - Quản lý đất đai, tôi đã được
tạo điều kiện đến thực tập tốt nghiệp tại Văn phòng đăng ký đất đai và giao đất
huyện Đô Lương, đồng thời tiến hành thực hiện nghiên cứu đề tài
“Đánh giá tình hình lập hồ sơ địa chính, đăng ký đất đai, cấp đổi
GCNQSDĐ trên địa bàn Huyện Đô Lương –Nghệ An giai đoạn 2010 –
2015”
thời gian kể từ ngày 12/02/2016 đến 22/04/2016, trong khoảng thời gian này
ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình
của Giáo viên hướng dẫn cùng với với các cán bộ Văn phòng đăng ký đất đai và
giao đất huyện Đô Lương.
Nhân dịp này, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu trường,
quý thầy cô giáo trong khoa Địa Lý và quản lý đất đai trường Đại học Vinh, tập
thể cán bộ Văn phòng đăng ký đất đai và giao đất huyện Đô Lương. Đặc biệt
là cô giáo Trần Thị Tuyến đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện đề tài.
Do thời gian thực tập có hạn cũng như tiến hành còn nhiều hạn chế nên
không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp
của các thầy, cô giáo và các bạn để bài thực tập này hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Đô Lương, ngày tháng năm 2016
Sinh viên thực hiện

Sommany Souksavanh

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết đề tài
Đối với tất cả đất đai các quốc gia trên thế giới, đất đai là tài nguyên vô
cùng quý giá là bộ phận hợp thành môi trường sống, là tư liệu sản xuất đặc biệt



1


quan trọng và không có gì có thể thay thế được trong sản xuất nông, lâm nghiệp,
là địa bàn phân bố và tổ chức các hoạt động kinh tế xã hội. Bằng cách sử dụng
các biện pháp canh tác, khai thác đất, con người đã làm ra lương thưc, thực
phẩm… để phục vụ cho cuộc sống của mình.
Đất đai càng thể hiện rõ tầm quan trọng của mình trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiên đại hóa, phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước ta hiên
nay. Việc sử dụng đất của chúng ta hiện nay còn chưa hiệu quả. Tình hình tranh
chấp, vi phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đã và đang là vấn đề nổi cộm. Mọi
người chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mình mà không quan tâm đến pháp
luật, không chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai. Phổ biến nhất là
tinh trạng lấn chiếm, tranh chấp, mua bán đất trái phép.
Để tiếp tục khai thác, sử dụng và bảo vệ có hiệu quả quỹ đất nhà nước ta
đã xây dựng và không hoàn thiện, bổ sung luật đất đai cho phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Chúng ta đã và đang hoàn thiện hành
lang pháp lý tốt hơn và hợp lý hơn để sử dụng nguồn tài nguyên vô cùng quý giá
nay. Đất đai được sử dụng hiệu quả hơn, đất sử dụng kết cấu hạ tầng, phát triển
công nghiệp, dịch vụ, tăng tương đối nhanh, bộ mặt đô thi thay đổi một bước
theo hướng văn minh và ngày càng hiện đại.
Trong những năm gần đây người sử dụng đất đã gắn bó nhiều hơn với đất.
Quyền sử dụng đất đã là một nguồn vốn của nhà nước và của nhân dân để đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh, tuy nhiên nhũng hành vi, vi phạm pháp luật đất
đai vẫn thường xuyên xẩy ra. Đây cũng là vấn đề quan tâm của các nhà quản lý
các cấp trong việc quản lý đất đai. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của vụ
việc này là do các thửa đất có nguồn gốc sử dụng không rõ ràng, các chủ sử

2



dụng chưa có đủ giấy tờ hợp lệ, chưa có hoặc chưa được cấp GCNQSD đất. Đây
là điều gây nhiều khó khăn cho công tác giải quyết tranh chấp nói riêng và công
tác quản lý đất đai của các cấp nói chung. Muốn công tác quản lý nhà nước về
đất đai đi vào nề nếp chặt chẽ và có hiệu quả thì một trong những việc làm
không thể thiếu đó là công tác đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, lập hồ sơ địa chính, theo đúng quy phạm quy trình.
Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác quản lý Nhà nước về đất đai,
cũng như tình hình thực tế mối thay đổi về quản lý và sử dụng đất đai trong giai
đoạn hiện nay, đồng thời nhân thức được tầm quan trọng của đăng ký đất đai,cấp
đổi GCNQSDĐ. Xuất phát từ thực tế trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá tình hình lập hồ sơ địa chính, đăng ký đất đai, cấp đổi
GCNQSDĐ trên địa bàn Huyện Đô Lương –Nghệ An giai đoạn 2010 –
2015”
1.2. Mục đích
- Tìm hiểu cơ sở lý luận, các văn bản liên quan đến công tác ĐKĐĐ, cấp
đổi GCNQSDĐ tại Huyện Đô Lương – Nghệ An.
- Tìm hiểu và đánh giá công tác ĐKĐĐ, cấp đổi GCNQSDĐ tại Huyện
Đô Lương – Nghệ An từ năm 2010 - 2015.
- Phát hiện những tồn tại trong công tác ĐKĐĐ, Cấp đổi GCNQSDĐ trên
địa bàn nghiên cứu
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện công tác ĐKĐĐ, cấp đổi
GCNQSDĐ trong thời gian tới.

3


1.3. Yêu cầu
-. Nắm vững cơ sở lý luận của công tác đăng ký đất đai, cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất, các văn bản được ban hành bởi các cấp từ trung ương
đến địa phương liên quan đến công tác ĐKĐĐ, cấp đổi GCNQSDĐ.
- Trên cơ sở kết quả điều tra, nghiên cứa đề tài xác định những thuận lợi
và khó khăn của công tác đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất tại Huyện Đô Lương – Nghệ An từ năm 2010-2015, đề xuất một số giải pháp
nhằm giúp công tác ĐKĐĐ, cấp đổi GCNQSDĐ trên địa bàn Huyện được tốt
hơn, hiệu quả hơn.
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung tìm hiểu nghiên cứu đánh giá thực trạng lập hồ sơ địa
chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài
sản khác gắn liền trên đất cho các hộ gia đình và cá nhân trên địa bàn huyện Đô
Lương Tỉnh Nghệ An giai đoạn 2010 - 2015
1.5. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền trên đất cho các hộ gia đình và
cá nhân trên địa bàn huyện Đô Lương Tỉnh Nghệ An giai đoạn 2010-2015
1.6. Nội dung thực hiện đề tài
- Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan môi trường.
- Tìm hiểu các văn bản, nghị định của Đảng và Nhà nước về đất đai và
công tác đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ.
- Tìm hiểu công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ tại Huyện Đô Lương – Nghệ An.
-Tình hình lập và quản lý hồ sơ địa chính trên địa bàn Huyện

4


- Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình kê khai, đăng ký, cấp
GCNQSDĐ.
- Đánh giá kết quả thực hiện công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính trên
địa bàn Huyện.

- Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy nhanh thực hiện công tác ĐKĐĐ, cấp
GCNQSDĐ một số xã trên địa bàn Huyện.
1.7. Phương pháp thực hiện đề tài
1.7.1 Phương pháp điều tra cơ bản
Phương pháp này nhằm thu thập các số liệu, tư liệu cần thiết phục vụ cho
việc nghiên cứu công tác này được thực hiện qua 2 giai đoạn:
- Điều tra nội nghiệp: Nhằm thu thập số liệu, thông tin cần thiết thông qua
các phòng, ban trong huyện, các phương tiện như sách, báo mạng Internet.. các
số liệu thu thập được bao gồm: Điều kiện tư nhiên, kinh tế xa hội của khu vực
nghiên cứu, hiện trạng sử dụng đất, tình hình quản lý sử dụng đất của Huyện,
các văn bản, nghị quyết...
- Điều tra ngoại nghiệp: là công tác khảo sát thực địa nhằm bổ sung, chính
xác hóa các thông tin thu thập trong phòng.
1.7.2. Phương pháp chuyên gia
Tham khảo ý kiến của các nhà chuyên gia nhằm thu thập thông tin về
địa phương.
1.7.3. Phương pháp phân tích, so sánh
Từ những số liệu đã thu thập được tiến hành tổng hợp, phân tích, so sánh
và đánh giá nhằm tìm ra những nguyên nhân tồn tại gây ra, những hạn chế và khó
khăn trong đăng ký ĐĐ, cấp GCNQSDĐ tại địa phương thời gian qua. Từ đó đề
xuất các giài pháp để giải quyết tốt nhất công tác này trong thời gian tới.
1.7.4. Phương pháp thống kê và xử lý số liệu
Tổng hợp toàn bộ các số liệu, tài liệu đã điều tra về đăng ký ĐĐ, Cấp
GCNQSDĐ.

5


1.7.5 Phương pháp ứng dụng công nghệ tin học
Ứng dụng các phần mềm tin học như:

+ Phần mềm MicroStation trong việc in bản đồ hiện trạng sử dụng đất
Huyện.
+ Phần mềm Excel trong việc xử lý số liệu, lập biểu đồ...

6


PHẦN II. TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Lịch sử công tác ĐKĐĐ, cấp đổi GCNQSDĐ
2.1.1. Thời kỳ trước năm 1945
Ở Việt Nam, công tác ĐKĐĐ có từ thế kỷ thứ VI. Nổi bật nhất có các thời
kỳ:
* Thời kỳ Gia Long:
Sổ Địa bạ được lập cho từng xã phân biệt rõ đất công điền và đất tư điền
của mỗi xã; trong đó ghi rõ của ai , diện tích, tứ cận đẳng hạ để tính thuế. Sổ địa
bạ được lập cho 18.000 xã từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau, bao gồm 10.044
tập và có 3 bộ được lưu ở 3 cấp: bản giáp được lưu ở bộ Hạ, bản bính ở dinh Bố
Chánh, bản Đinh ở xã sở tại. Theo quy định 5 năm thì phải đại tu.
* Thời kỳ Minh Mạng
Sổ địa chính được lập tới từng làng xã. Sổ này tiến bộ hơn sổ thời Gia
Long vì nó được lập trên cơ sở đạc điền với chứng kiến của các chức sắc giúp
việc trong làng. Các viên chức trong làng lập sổ mô tả ghi các thửa đất, ruộng
kèm theo sổ Địa bộ có ghi diện tích, loại đất.Quan Kinh Sứ và viên Thơ Lại có
nhiệm vụ ký xác nhận vào sổ mô tả. Quan phủ căn cứ vào đơn thỉnh cầu của
điền chủ khi cần thừa kế, cho, bán hoặc từ bỏ quyền phải xem xét ngay tại chỗ
sau đó trình lên Quan Bộ Chánh và ghi vào sổ địa bộ.
* Thời Kỳ Pháp thuộc:
Trong thời kỳ này Thực dân Pháp thực hiện chính sách chia để trị , chúng
chia nước ta thành 3 kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ với 3 chế độ khác nhau.
- Tại Bắc Kỳ: Do đặc thù đất đai ở miền Bắc manh mún, phức tạp nên mới

chỉ đo đạc được các lược đồ đơn giản tỷ lệ 1:1000 và lập sổ tạm thời để quản lý.

7


- Tại Trung Kỳ: Bắt đầu thực hiện từ năm 1930 theo nghị định 1358 của
tào Khâm Sứ Trung Kỳ, tài liệu được thiết lập gồm có: Bản giải thửa, địa tô,
điền chủ bộ, tài chủ bộ, sổ được thiết lập theo một thủ tục đầy đủ và chặt chẽ.
Sau khi có sự phân biệt xã, cắm mốc và phân ranh giới thửa, đo đạc và lập bản
đồ giải thửa tỷ lệ 1:2000.
- Tại Nam Kỳ: Pháp đã xây dựng được hệ thống bản đồ giải thửa được đo
đạc chính xác và lập sổ điền thổ. Trong sổ điền thổ, mỗi trang sổ thể hiện cho
một lô đất của mỗi chủ đất, trong đó ghi rõ các thông tin về diện tích, nơi tọa
đạc, tình hình biến động của lô đất, tên chủ sử hữu...
2.1.2.Thời kỳ Mỹ Ngụy tạm chiếm miền Nam
* Tân chế độ điền thổ
Theo sắc lệnh 1925 miền Nam Việt nam sử dụng chế độ điền thổ. Đây là
chế độ được đánh giá chặt chẽ có hiệu quả nhất trong thời kỳ Pháp thuộc. Hệ
thống hồ sơ được thiết lập theo chế độ này gồm: diện tích, nơi tọa đạc, giáp
ranh, biến động, tên chủ sử hữu, sổ mục lục theo tên chủ ghi số liệu tất cả các
thửa đất của mỗi chủ. Hệ thống hồ sơ trên được lập thành hai bộ lưu tại Ty Điền
địa và xã sở tại. Chủ sở hữu của mỗi lô đất được cấp một bằng khoán điền thổ.
* Chế độ quản thủ điền địa:
Theo chế độ này, phương pháp đo đạc rất đơn giản các xã có thể tự đo vẽ
lược đồ. Hệ thống hồ sơ gồm: sổ địa bộ được lập theo thứ tự thửa đất, sổ điền
chủ lập theo chủ sở hữu, sổ mục lục ghi tên chủ để tra cứu.
*Giai đoạn 1960-1975:

8



Thiết lập Nha Tổng Địa có 11 nhiệm vụ trong đó có 3 nhiệm vụ chính là:
Xây dựng tài liệu nghiên cứu, tổ chức và điều hành công tác tam giác đạc, Lập
bản đồ, sơ đồ và các văn kiện phụ thuộc.
2.1.3. Thời kỳ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
* Giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến năm 1979:
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đặc biệt là sau cải cách ruộng đất năm
1957, nhà nước đã tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo.
Đến năm 1960 hưởng ứng phong trào hợp tác hóa sản xuất đại bộ phận
nhân dân đã góp ruộng vào hợp tác xã làm cho hiện trạng sử dụng đất có nhiều
biến động. Thêm vào đó là điều kiện đất nước nhiều khó khăn, có nhiều hệ
thống hồ sơ địa chính giai đoạn này chưa hoàn chỉnh cũng như độ chính xác còn
thấp, do vậy không sử dụng được cho các năm tiếp theo. Trước tình hình đó,
ngày 03/7/1958 chính phủ đã ban hành chỉ thỉ 334/TTg cho thí lập hệ thống Địa
chính trong Bộ Tài chính.
Hệ thống tài liệu đất đai trong thời kỳ này chủ yếu là bản đồ giải thửa, đo
đạc thủ công bằng thước dây, và sổ mục kê ruộng đất.
Ngày 09/11/1979, chính phủ ban hành Nghị định 404/CP về việc thành
lập tổ chức quản lý ruộng đất trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng thống nhất quản lý
Nhà nước đối với toàn bộ ruộng đất trên toàn bộ lãnh thổ.
*Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1988:
Hiến pháp 1980 ra đời quy định: “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước thống nhất quản lý”. Nhà nước quan tâm đến công tác quản lý đất đai để
quản chặt và nắm chắc quỹ đất trong cả nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn này

9


công tác quản lý đất đai của toàn quốc còn nhiều hạn chế và chưa có biện pháp

củ thể để quản lý toàn bộ quỹ đất. Nhà nước mới chỉ quan tâm đến việc quản lý
đất nông nghiệp cho nên mới xẩy ra tình trạng giao đất, sử dụng đất tùy tiện đối
với các loại đất khác. Trong giai đoạn này Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều Thông tư, Nghị đinh, Chỉ thị như:
Quyết định số 201/QĐ-CP ngày 01/7/1986 về công tác quản lý đất đai
trong cả nước.
Chỉ thị 299/CT-TTg ngày 1011/1980 của thủ tướng chính phủ về việc
triển khai thực hiện công tác đo đạc, ĐKĐĐ, thống kê đất đai, phân hạng đất.
Quyết định số 56/QĐ-ĐKTK ngày 05/11/1981 về việc điều tra đo đạc, kê
khai đăng ký và lập hồ sơ ĐKĐĐ, Cấp GCNQSDĐ để đáp ứng nhu cầu quản lý
đất đai.
Quyết định số 56/QĐ-ĐKTK ban hành đã làm cho công tác quản lý đất
đai có bước đột phá mới. Công tác ĐKĐĐ có một trình tự khá chặt chẽ. Việc xét
duyệt phải do hội đồng đăng ký thống kê đất đai xã thực hiện, kết quả xét đơn
của xã do UBND Huyện phê duyệt đăng ký, Cấp GCNQSDĐ. Hồ sơ ĐKĐĐ khá
hoàn chỉnh và chặt chẽ. Nó đã đáp ứng được yêu cầu quản lý đất đai trong giai
đoạn đó. Các tài liệu của hệ thống quản lý bao gồm: biên bản xá định địa giới
hành chính, sổ giã ngoại, đơn xin Cấp GCNQSDĐ, bản kê khai ruộng đất tập
thể, bản tổng hợp các hộ gia đình không sử dụng đất hợp pháp, thông báo công
khai hồ sơ đăng ký, biên bản kết thúc công khai, sổ khai báo biến động...
Tuy nhiên, trong giai đoạn này việc xét duyệt được thực hiện chưa
nghiêm túc do đó độ chính xác chưa cao. Hầu hết các trường hợp vi phạm không
bị xử lý mà vẫn được kê khai. Có thể nói, hệ thống hồ sơ địa chính cũng như

10


trình tự thủ tục quản lý khá chặt chẽ nhưng trong quá trình thực hiện chúng lại
không chặt chẽ. Do vậy, hệ thống hồ sơ vẫn chỉ mang tính chất điều tra, phản
ánh hiện trạng sử dụng đất. Trong quá trình thiết lập hệ thống hồ sơ thì tình

trạng sai sót vẫn chiếm tỷ lệ khá cao. Công tác cấp GCNQSDĐ chưa được thực
hiện. Công tác quản lý đất đai giai đoạn này thiếu đồng bộ cũng như độ chặt
chẽ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ cũng như người dân chưa cao.
*Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1993.
Năm 1988, Luật đất đai lần đầu tiên được ban hành nhằm quản lý đất đai
được chặt chẽ và thống nhất. Giai đoạn này thì công tác cấp GCNQSDĐ và
hoàn thiệt hệ thống hồ sơ địa chính là một nhiệm vụ bắt buộc và bức thiết của
công tác quản lý, là cơ sở cho việc tổ chức thực hiện Luật Đất đai. Do đó Tổng
cục quản lý ruộng đất đã ban hành quyết định số 201/ĐKTK ngày 14/7/1989 về
việc ĐKĐĐ, Cấp GCNQSDĐ và Thông tư số 302/TT-ĐKTK ngày 28/10/1989
hướng dẫn thi hành Quyết định số 201. Chính việc ban hành các quyết định này
mà công tác quản lý đất đai đã có những bước phát triển mới, công tác ĐKĐĐ
có thay đổi mạnh mẽ và chúng được thực hiện đồng loạt vào những năm tiếp
theo trên phạm vi cả nước.
Trong quá trình triển khai Luật đất đai 1988, Nhà nước đã ban hành chính
sách khoán 100 theo chỉ thị 100/CT-TW làm cho hiện trạng sự dụng đất có
nhiều thay đổi, do đó công tác ĐKĐĐ gặp nhiều khó khăn, cùng với việc chưa
có hệ thống văn bản hoàn chỉnh chặt chẽ làm cho công tác quản lý đất đai giai
đoạn này kém hiệu quả. Chính vì lý do trên mà công tác quản lý đất đai cũng
như việc lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ giai đoạn này chưa đạt hiệu quả
cao.

11


Đến năm 1993, Cả nước mới cấp được khoảng 1.600.000 GCNQSDĐ cho
các hộ nông dân tại 1.500 xã tập trung chủ yếu vùng đồng bằng sông cửu Long.
Đặc biệt do chính sách đất đai chưa ổn định nên giấy chứng nhận giai đoạn này
chủ yếu là giấy chứng nhận tạm thời, chủ yếu do các xã tự kê khai, có độ chính
xác thấp, sai sót cao trong quá trình cấp.

*Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003:
Luật đất đai đầu tiên năm 1988 đã có những thành công nhất định trong
quá trình quản lý đất đai. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn có những
thiếu sót làm cho công tác quản lý đất đai gặp nhiều khó khăn, bất cập, thiếu
chặt chẽ. Vì vậy, Luật đất đai 1993 ra đời thay thế luật đất đai năm 1988, nhằm
quản lý chặt chẽ đất đai hơn để đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của người dân. Nhà
nước khẳng định đất đai có giá trị và người dân có các quyền sau: chuyển đổi,
chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, thế chấp... Do vậy công tác cấp GCNQSDĐ
trong giai đoạn này là việc làm cấp thiết để người dân khai thác được hiệu quả
nhất từ đất đai. Nhận thấy được tính cấp thiết của vấn đề cấp GCNQSDĐ cho
người dân, cơ quan các cấp, các địa phương đã tập trung chỉ đạo công tác cấp
GCNQSDĐ và coi nó là vấn đề quan trọng trong quản lý đất đai giai đoạn này.
Do vậy công tác cấp giấy chứng nhận được triển khai mạnh mẽ nhất là từ năm
1997. Tuy nhiên công tác cấp GCNQSDĐ vẫn còn nhiều vướng mắc dù nhà
nước đã ban hành nhiều chỉ thị về việc cấp GCNQSDĐ cho người dân và đã
không hoàn thành theo yêu cầu của chỉ thị số 10/1998/CT-TTg và Chỉ thị số
18/1999/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về hoàn thành cấp GCNQSDĐ cho
nông thôn vào năm 2000 và thành thị vào năm 2001.

12


Để hỗ trợ cho luật đất đai năm 1993 nhà nước đã ban hành một số văn bản
dưới luật như sau: Tổng cục địa chính đã ra quyết định số 499/QĐ-TCĐC ngày
27/7/1995 quy định mẫu hồ sơ địa chính thống nhất trong cả nước và Thông tư
346/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 về việc hưỡng dẫn thủ tục ĐKĐĐ, cấp
GCNQSDĐ, lập hồ sơ địa chính. Đến năm 2001, Tổng cục địa chính ban hành
Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 31/11/2001 hưỡng dẫn các thủ tục
ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ, lập hồ sơ địa chính trong cả nước.
Từ khi ban hành Luật đất đai 1993 trong quá trình thực hiện bên cạnh

những tích cực cũng bộc lộ không ít những hạn chế chưa phù hợp, chưa đủ cụ
thể để xử lý những vấn đề mới phát sinh nhất là trong việc chuyển quyền sử
dụng đất, làm cho quan hệ đất đai trong xã hội rất phức tạp gây ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Do vậy Luật đât đai 1993
đã có nhiều lần sửa chữa, bổ sung vào các năm 1998 và 2001 để kịp thời điều
chỉnh những vẫn đề mới phát sinh.
Nói chung, trong 10 năm thực hiện Luật đất đai đã tạo ra sự ổn định tương
đối trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Công tác cấp GCNQSDĐ và hệ
thông hồ sơ địa chính cũng khá hoàn thành. Nhưng Luật đất đai 193 và Luật sửa
đổi, bổ sung năm 1998 và 2001 vẫn bộc lộ những vẫn đề mới phát sinh mà chưa
có định hướng giải quyết cụ thể.
* Giai đoạn từ khi có Luật đất đai 2003 ra đời đến nay:
Ngày 16/11/2003, Luật đất đai 2003 được ban hành và có hiệu lực từ ngày
01/7/2004. Luật đất đai 2003 đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và góp phần giải
quyết những khó khăn vướng mắc mà Luật đất đai trước đó chưa giải quyết
được.

13


Sau khi Luật đất đai 2003 ra đời Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
hành chính dưới luật để củ thể hóa trong quá trình thực hiện:
Chỉ thị số 05/2004/CT-TTg ngày 29/02/2004 của thủ tướng chính phủ về
việc các địa phương phải hoàn thành việc cấp GCNQSDĐ trong năm 2005.
Nghị đinh 181/2004/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 hưỡng dẫn thi hành
Luật đất đai 2003 do chính phủ ban hành.
Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT ngày 01/11/2004 của bộ Tài Nguyên
và Môi trường quy định về GCNQSDĐ.
Thông tư 29/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường về hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính.

Quyết định số 08/2006/QĐ-BTNMT ngày 21/7/2006 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường Quy định về GCNQSDĐ thay cho quyết định số 24/2004/QĐBTNMT ngày 01/11/2004.
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của chính phủ quy định
bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình
tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhà nước thu hồi đất và giải quyết
khiếu nại về đất đai.
Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 15/6/2007 của Bộ Tài Nguyên
Môi trường hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25/05/2007.
Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02/08/2007 của Bộ Tài Nguyên
Môi trường hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính.
Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất.

14


Thông tư 17/2009/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của Bộ Tài Nguyên và
Môi Trường quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Nhìn chung việc cấp GCNQSDĐ giai đoạn này đã thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật về đất đai và đã cấp được 6.2 triệu GCNQSDĐ cho
người dân. Các thủ tục hành chính đã được đơn giản hóa, rút ngắn được thời
gian cấp GCNQSDĐ, đặc biệt nhiều địa phương đã tổ chức được VPĐKQSDĐ.
Tuy nhiên công tác cấp GCNQSDĐ vẫn còn chậm.
2.2. Cơ sở lý luận của ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ
Đất đai là nền tảng của sự sống và mọi của cải vật chất. Đối với mỗi quốc
gia đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng
kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và là tư liệu sản xuất đặc biệt, không gì thay
thế được trong nông nghiệp. Nhu cầu sử dụng đất của con người ngày càng tăng,

trong khi đó đất đai có tính giới hạn về diện tích và cố định về vị trí. Do vậy,
nhiệm vụ quản lý, sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả tài nguyên đất là nhiệm vụ
hàng đầu của tất cả các quốc gia.
*ĐKĐĐ là thủ tục hành chính bắt buộc do cơ quan nhà nước thực hiện
với tất cả tất cả các loại tổ chức hộ gia đình cá nhân sử dụng đất. ĐKĐĐ là công
việc đế thiết lập lên hệ thống hồ sơ địa chính đầy đủ nhất cho tất cả các loại đất
trong phạm vi địa gới hành chính để thực hiện cấp GCNQSDĐ cho các đối
tượng có đủ điều kiện làm, cơ sở để Nhà nước quản lý chặt chẽ nắm chắc đến
từng thửa đất, từng hộ sử dụng đất.

15


* GCNQSDĐ là chứng thực pháp lý chứng nhận quyền sử dụng đất hợp
pháp của người sử dụng đất để họ yên tâm đầu tư, cải tạo và nâng cao hiệu quả
sử dụng đất.
* Hồ sơ địa chính là hệ thống tài liệu, số liệu, sổ sách chứa đựng những
thông tin cần thiết về mặt tự nhiên, kinh tế- xã hội, pháp lý của đất đai được thiết
lập trong quá trình đo đạc, lập bản đồ địa chính, ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ.
Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện để người sử
dụng đất ổn định lâu dài và có hiệu quả. Vì vậy, đòi hỏi phải có nguồn số liệu
đầy đủ, chính xác đến từng vùng đất, từng thửa đất, từng chủ sử dụng. Cho nên
công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ, lập hồ sơ địa chính luôn được chú trọng và tổ
chức thực hiện.
Việc cấp GCNQSDĐ được triển khai thực hiện từ năm 1993. Mặc dù Nhà
nước đã nhiều lần đưa ra các mục tiêu hoàn thành việc cấp GCNQSDĐ nhưng
đến nay vẫn chưa thực hiện được . Hiện nay, đất nước ta đang hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thị trường. Việc đẩy nhanh công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ để
quản lý chặt chẽ quý đất càng được quan tâm hơn bao giờ hết.
2.3. Căn cứ pháp lý của công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ, lập và quản

lý hồ sơ địa chính
Để đảm bảo chặt chẽ, có cơ sở pháp lý cho công tác ĐKĐĐ, cấp
GCNQSDĐ, thì cần hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh. Nhận thức được vấn
đề trên, trong các thời kỳ khác nhau, Nhà Nước ta đã ban hành hệ thống pháp
luật phù hợp với hoàn cảnh thực tế đất nước. Cho đến nay, hệ thống văn bản
pháp luật về công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ đang ngày càng được hoàn thiện

16


giúp cho cơ quan quản lý đất đai và người sử dụng đất có điều kiện tôt để thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Trong thời kỳ trước những năm 1945, ở Việt Nam công tác đăng ký đất
đai có từ thế kỷ VI và nổi bật nhất ở các thời kỳ như: Gia Long, Minh Mạng,
thời kỳ Pháp thuộc.
Trong thời kỳ Mỹ Ngụy tạm chiếm Miền Nam, khi Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công, thì Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập
và đã ban hành các văn bản pháp luật về thống nhất quản lý đất đai, các văn bản
về ruộng đất trước đây đều bị bãi bỏ. Tháng 11/1953, Hội nghị ban chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ V đã nhất trí thông qua Cương lĩnh cải cách ruộng đất.
Tháng 12/1953 Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất nhằm xóa bỏ chế độ
phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện triệt để khẩu hiệu “người cày có
ruộng”.
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959 quy định ba hình
thức sở hữu về đất đai: Sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
Tháng 4/1975 đất nước thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Năm 1976, nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời đã thực hiện
kiểm kê, thống kê đất đai trong cả nước. Chính phủ đã ban hành Quyết định số
169/QĐ-CP ngày 20/06/1977 để thực hiện nội dung đó.
Năm 1980, Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời

khẳng định: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch chung
nhằm đảm bảo đất đai được sử dụng hợp lý, tiết kiệm …” Công tác ĐKĐĐ, cấp
GCNQSDĐ được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo thông qua hệ thống
các văn bản pháp luật sau:

17


- Ngày 01/07/1980 Chính phủ ra Quyết định số 201/QĐ-CP về việc thống
nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước.
- Ngày 10/11/1980 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 299-TTg
với nội dung đo đạc và phân hạng đất, đăng ký thống kê đất đai trong cả nước.
- Ngày 05/11/1981 Tổng cục Quản lý ruộng đất ban hành Quyết định số
56/QĐ-ĐKTK quy định về trình tự, thủ tục ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ.
- Ngày 08/01/1988, trên cơ sở Hiến pháp năm 1980, Luật đất đai đầu tiên
ra đời. Tại Điều 9 của Luật này nêu rõ: “ĐKĐĐ, lập và quản lý HSĐC, quản lý
các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê, cấp GCNQSDĐ, đây là một trong
bảy nội dung Quản lý Nhà nước về đất đai” .
- Ngày 14/07/1989 Tổng cục Quản lý ruộng đất ban hành quyết định số
201/QĐ - ĐKTK về việc ban hành quy định cấp GCNQSDĐ và Thông tư 302ĐKTK ngày 28/10/1989 hướng dẫn thực hiện Quyết định này.
Kể từ khi Luật đất đai 1988 có hiệu lực nhìn chung công tác quản lý đất
đai dần đi vào nề nếp, ổn định. Trong giai đoạn này công tác cấp GCNQSDĐ đã
được quan tâm thực hiện ở nhiều địa phương.
Hiến pháp năm 1992 ra đời đã khẳng định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, tài
nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển thềm lục địa và vùng trời,…đều
thuộc sở hữu toàn dân”. Đây là cơ sở vững chắc cho sự ra đời của Luật đất đai
năm 1993 được thông qua ngày 14/07/1993. Tiếp theo đó là Luật sửa đổi bổ
sung một số Điều của Luật đất đai được Quốc hội khóa IX thông qua ngày
02/12/1998 và Quốc hội khóa X thông qua ngày 29/06/2001


18


- Công văn 434/CVĐC do Tổng Cục Địa Chính đã xây dựng và ban hành
hệ thống sổ sách địa chính mới vào tháng 7/1993 để áp dụng tạm thời thay thế
cho mẫu quy định tại Quyết định 56/TCĐC năm 1981.
- Nghị định số 64/CP ngày 27/09/1993 của Chính phủ về việc giao đất
nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản
xuất nông nghiệp.
- Nghị định 60/CP ngày 05/07/1994 của Chính phủ về cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đô thị. Cùng ngày chính phủ
ban hành nghị định 61/CP về việc bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước cho người
đang thuê.
- Quyết định số 499/QĐ-ĐC ngày 27/07/1995 của Tổng cục Địa chính
quy định mẫu sổ địa chính, sổ mục kê, sổ cấp GCNQSDĐ, sổ theo dõi biến động
đất đai.
- Công văn 1427/CV - ĐC ngày 13/10/1995 của Tổng cục địa chính
hướng dẫn xử lý một số vấn đề cấp GCN QSSDĐ.
- Chỉ thị 245/CT-TTg ngày 22/04/1996 của Thủ tướng Chính phủ về tổ
chức thực hiện một số việc cấp bách trong quản lý sử dụng đất của các tổ chức
trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
- Thông tư số 346/TT - TCĐC ngày 16/03/1998 của Tổng cục Địa chính
hướng dẫn thủ tục ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ, lập HSĐC và thay thế hoàn toàn
quyết định 56/ĐKTK năm 1981.
- Chỉ thị số 10/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 20/02/1998
về đẩy mạnh và hoàn thiện công tác cấp GCNQSDĐ nông nghiệp.
- Nghị định số 14/1998/NĐ-CP ngày 06/03/1998 về quản lý tài sản Nhà nước.

19



- Quyết định số 20/1999/QĐ-BTC ngày 25/02/1999 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 14/1998/NĐ-CP.
- Chỉ thị số 18/CT – TTg ngày 01/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ về
một số biện pháp đẩy mạnh việc hoàn thành cấp GCNQSDĐ nông nghiệp, lâm
nghiệp, đất ở nông thôn.
- Công văn số 776/CV – NN ngày 28/07/1999 của Chính phủ về việc cấp
GCNQSDĐ và sở hữu nhà ở đô thị.
- Thông tư liên tịch số 1442/TTLT – TCĐC – BTC ngày 21/09/1999 của
Bộ Tài chính và Tổng cục Địa chính hướng dẫn cấp GCNQSDĐ theo Chỉ thị
18/1999/CT – TTg.
- Nghị định số 176/1999/NĐ-CP ngày 21/12/1999 của Chính phủ quy
định về lệ phí trước bạ.
- Nghị định số 04/2000/NĐ – CP ngày 11/01/2000 của Chính phủ về quy
định điều kiện được cấp xét và không được cấp GCNQSDĐ.
- Nghị định số 19/2000/NĐ-CP ngày 08/06/2000 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất.
- Thông tư số 1990/2001/ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ – TCĐC ngày 30/11/2001
của Tổng cục Địa chính hướng dẫn các thủ tục ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC
thay thế cho Thông tư 346/TT - TCĐC ngày 16/03/1998.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật đất đai năm 1993 đã xuất hiện nhiều
vấn đề bất cập, vì vậy để khắc phục tình trạng trên, ngày 26/11/2003 Quốc hội
khoá XI kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật đất đai và có hiệu lực từ ngày
01/07/2004 và quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu” và nêu lên 13 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai trong đó nội

20


dung cấp GCNQSDĐ, lập HSĐC và đăng ký biến động đất đai là một nội dung

quan trọng được tái khẳng định.
Đến nay, cùng với việc ban hành Luật đất đai năm 2003 thì đã có nhiều
văn bản pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền từ trung ương đến địa phương
ban hành để làm cơ sở cho việc thực hiện cấp GCNQSDĐ, lập HSĐC và đăng
ký biến động đất đai. Cụ thể là:
Các văn bản do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành có quy
định về cấp GCNQSDĐ, lập HSĐC và đăng ký biến động đất đai:
- Luật đất đai năm 2003 ngày 26/11/2003 có hiệu lực thi hành vào ngày
01/07/2004, trong đó quy định các vấn đề mang tính nguyên tắc về GCNQSDĐ,
các trường hợp được cấp GCNQSDĐ, thực hiện nghĩa vụ tài chính khi cấp
GCNQSDĐ, lập HSĐC và về việc xác định diện tích đất ở đối với các trường
hợp thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở, trình tự thực hiện các thủ tục hành
chính về đất đai để cấp GCNQSDĐ hoặc chỉnh lý biến động về sử dụng đất trên
GCNQSDĐ.
- Nghị quyết 775/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/04/2005 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà
đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải
tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/07/1991 làm cơ sở xác định điều kiện cấp
GCNQSDĐ đối với trường hợp đang sử dụng nhà, đất thuộc diện thực hiện các
chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11.
- Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/07/2006 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày

21


01/07/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia làm cơ sở xác
định đối tượng được cấp GCNQSDĐ trong những trường hợp có tranh chấp.
Các văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban
hành có quy định về cấp GCNQSDĐ, lập HSĐC, đăng ký biến động đất đai và

các vấn đề liên quan gồm:
- Nghị định số 47/2003/NĐ-CP ngày 12/05/2003 sử đổi bổ sung một số
Điều của Nghị định 176/1999/NĐ-CP.
- Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003, trong đó có quy
định về thu thuế thu nhập đối với tổ chức khi chuyển quyền sử dụng đất.
- Chỉ thị số 05/2004/CT – TTg ngày 29/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ
về việc các địa phương phải hoàn thành việc cấp GCNQSDĐ trong năm 2005.
- Nghị định số 152/2004/NĐ-CP ngày 06/08/2004 của Chính phủ về việc
sử đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 164/2003/NĐ-CP.
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính Phủ về
hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003.
- Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về thu
tiền sử dụng đất, trong đó có quy định cụ thể hóa Luật đất đai về việc thu tiền sử
dụng đất khi cấp GCNQSDĐ.
-Nghị định số 127/2005/NĐ-CP ngày 10/10/2005 của Chính phủ về việc
hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc
hội và Nghị quyết số 755/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 02/04/2005 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể

22


về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính
sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/07/1991.
- Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu
tiền thuê đất, trong đó có quy định cụ thể hóa Luật đất đai về việc thu tiền thuê
đất khi cấp GCNQSDĐ.
- Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính Phủ về sữa
đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai và

Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty
cổ phần. Trong đó sửa đổi bổ sung một số quy định về việc thu tiền sử dụng đất
khi cấp GCNQSDĐ, việc xác nhận hợp đồng chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại QSDĐ, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong khu công
nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
- Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg ngày 22/06/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về việc khắc phục yếu kém, sai phạm, tiếp tục đẩy mạnh tổ chức thi hành Luật
đất đai; trong đó chỉ đạo các địa phương đảy mạnh để hoàn thành cơ bản việc
cấp GCNQSDĐ trong năm 2006.
- Nghị quyết số 23/2006/NQ-CP ngày 07/09/2006 về một số giải pháp
nhằm đẩy nhanh tiến độ bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê
theo quy định tại Nghị định số 61/CP ngày 05/07/1994 của Chính phủ, trong đó
quy định việc thu tiền sử dụng đất khi bán nhà ở cho người đang thuê.
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định
bổ sung về việc cấp GCN, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ
tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu
nại về đất đai.

23


- Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất.
Các văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ, ngành ở Trung ương ban hành có
quy định về đăng ký, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC cùng các vấn đề liên quan
gồm:
- Thông tư số 03/2003/TTLT/BTP-BTNMT ngày 04/07/2003 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính hướng dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký và
cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất.

- Quyết định số 24/2004/BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường ban hành quy định về GCNQSDĐ.
- Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên
và Môi trường hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý HSĐC.
- Thông tư số 117/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính
phủ về thu tiền sử dụng đất.
- Thông tư liên tịch số 38/2004/TTLT/BTNMT-BNV ngày 31/12/2004
của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức của Văn phòng ĐKQSDĐ và tổ chức phát triển quỹ đất.
- Thông tư 01/2005/TT-BTNMT ngày 13/04/2005 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 181/2004/NĐ-CP
ngày 29/10/2004 về thi hành Luật đất đai năm 2003.

24


- Thông tư liên tịch số 30/2005/TTLT/BTC-BTNMT ngày 18/04/2005
của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính hướng dẫn việc luân chuyển hồ
sơ của người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.
- Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT/BTP-BTNMT ngày 16/06/2005
thay thế Thông tư số 03/2003/TTLT/BTP-BTNMT ngày 04/07/2003.
- Thông tư số 04/2005/TT-BTNMT ngày 18/07/2005 của Bộ tài nguyên
và Môi trường hướng dẫn thực hiện các biện pháp quản lý, sử dụng đất đai sau
khi sắp xếp, đổ mới và phát triển các nông, lâm trường quốc doanh. Trong đó có
hướng dẫn việc rà soát, cấp GCNQSDĐ cho các nông, lâm trường quốc doanh
sau khi sắp xếp lại.
- Thông tư 95/2005/TT-BTC ngày 26/10/2005 của Bộ Tài chính hướng
dẫn các quy định của pháp luật về lệ phí trước bạ.
- Thông tư số 19/2005/TT-BXD ngày 01/12/2005 của Bộ Xây dựng

hướng dẫn một số nội dung của Nghị định số 127/2005/NĐ-CP ngày 10/10/2005
của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày
26/11/2003 của Quốc hội và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH ngày
02/04/2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối với
một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách
quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/07/1991.
- Thông tư số 70/2006/TT-BTC ngày 02/08/2006 của Bộ Tài chính hướng
dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 117/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ
Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004
của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất.

25


×