Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tập làm văn số 1 lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.37 KB, 14 trang )

Đề bài:
Đọc truyện "Tấm Cám", em suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người
tốt và kẻ xấu trong cuộc đời xưa, nay?
Bài làm:
1.
Tấm Cám là một truyện cổ tích thần kì có nhiều tình tiết bi thảm, éo le dữ dội phản ánh cuộc
đời đấu tranh khốc liệt giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong cuộc đời.
Phần đầu của truyện rất gần gũi với cuộc sống đời thường: bi kịch đầy nước mắt và tiếng thơ
dài của những đứa trẻ mồ côi ở với mụ dì ghẻ tham lam, ác độc và đứa em cùng bố khác mẹ có tính
ghen ghét. Tấm phải làm quần quật, đầu tắt mặt tối, ăn đói mặc rách, còn Cám thì được ăn trắng mặc
trơn, không phải mó tay động chân tới bất cứ công việc nào. Chỉ cần giành đượcc ái yếm đỏ mà Cám
đã đánh lừa chị để trút sạch tét trong giỏ chị. Mẹ con mụ dì ghẻ đã âm mưu, thủ đoạn bắt giết con
bống là một hành động cực kì nhẫn tâm và độc ác nhằm tước đoạt niềm vui nhỏ nhoi, bình dị của
Tấm, đẩy Tấm vào con đường đau khổ, cô đơn. Cái kế trộn đấu thóc lẫn đấu gạo bắt Tấm ngồi nhặt,
không cho tấm đi hội đã cho thấy cái thói ghét ghen, lòng dạ đen tối, tâm lí sống nhỏ nhen của mụ dì
ghẻ - một mụ đàn bà mất hết cả tình người. Nếu Tấm có được đi hội thì cô cũng không thể đi được
khi chỉ có váy áo rách rưới mặc trên người.
"Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng!" cảnh mẹ con mụ dì ghẻ đối xử độc ác, tàn nhẫn với
Tấm là chuyện nhan nhản trong cuộc đời xưa nay, mỗi người trong chúng ta đã từng nghe thấy và
từng biết. Cái ác và bộ mặt của những kẻ như mụ dì ghẻ trong truyện "Tấm Cám", trong xã hội làm
cho bất cứ ai cũng phải ghê sợ và khinh bỉ.
Sự xuất hiện nhiều lần của nhân vật Bụt đã là cho nước mắt của Tấm ngừng chảy, vơi bớt tiếng
thở dài. Bụt đã bày cho Tấm cách nuôi bống, gọi bống để có niềm vui, được sống trong "tình bạn".
Bụt đã bày cho Tấm cách gọi đàn chim sẻ bay đến nhặt thóc giúp Tấm. Bụt đã bày cho tấm cách
chôn xương bống vào chân giường để sau này có áo quần lụa mớ bảy mớ ba, có dây thắt lưng lụa
thiên lý, có nón quai thao, có giày thêu và ngựa tía để đi hội. Tiếng nói của Bụt mới chan chứa yêu
thương, mới nhiệm mầu biết bao! Nhờ Bụt mà Tấm trở nên xinh đẹp, mới được đi hội. Nhờ Bụt mà
Tấm được trở thành hoàng hậu, được sống trong cuộc đời vinh hoa, phú quý.
Bụt trong cổ tích "Tấm Cám" là hiện thân của niềm mơ ước của nhân dân lao động về sự đổ
đời, về hạnh phúc. Những gì không thể xảy ra trong cuộc đời thì chỉ có thể ở trong mơ ước. Mơ ước
ấy đã thể hiện triết lí về niềm tin "ở hiền gặp lành" của nhân dân ta. Cuộc đời nhiều đắng cay, đen


tối, bị cái ác bủa vây, vùi dập, cuộc đời nhiều máu và nước mắt, nên nhân dân mới mơ ước được đổi
đời. Truyện cổ tích "Tấm Cám" đẹp về một giấc mơ đổi đời làm cho mỗi chúng ta xúc động:
"Ở hiền thì lại gặp hiền
Người hay thì gặp người tiên độ trì
Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trông cuộc sống thầm thì tiếng xưa".
(Truyện cổ tích nước mình - Lâm Thị Mỹ Dạ)
Phần hai của truyện cổ tích "Tấm Cám" phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác diễn ra
không ngừng, càng về sau càng trở nên dữ dội, khốc liệt. Mẹ con mụ dì ghẻ tìm đủ mọi mưu mô, thủ
đoạn tàn ác, dã man để tiêu diệt Tấm đến cùng, quyết giành cho được vinh hoa, phú quý.
Hoàng hậu Tấm về quê giỗ cha. Tấm trèo cau hái quả để cúng cha. Mụ dì ghẻ đã cầm dao đẵn
gốc cau, Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ đưa Cám vào cung lấy vua thay Tấm. Tấm hóa
thành chim vàng anh đem lại niềm vui cho vua. Vàng anh hay hồn Tấm cất tiếng oan: "Giặt áo
chồng tao thì giặt cho sạch / Giặt mà không sạch, tao rạch mặt ra".
Chim vàng anh bị Cám bắt giết thịt. Lông chim vàng anh hóa ra hai cây xoan đào rợp bóng rất
đẹp. vua sai lính hầu mắc võng vào hai cây xoan đào nằm nghỉ hóng mát. Cám sai thợ chặt cây xoan


đào đóng khung cửi. Cám vừa ngồi vào khung cửi đó thì nghe khung cửi nguyền rủa: "Cót ca cót két
/ Lấy tranh chồng chị / Chị khoét mắt ra!".
Cám đốt khung cửi, đem tro đi đổ. Từ đống tro lại mọc lên cây thị xanh tốt. Thị ra hoa, kết trái.
Chỉ có một quả thị trên cành, tỏa mùa thơm ngào ngạt. Thị đã rụng vào bị bà lão hàng nước... Cô
Tấm tái sinh. Cô Tấm xinh đẹp từ trong quả thị bước ra, trở lại với cuộc đời. Nhà vua chỉ nhìn qua
miếng trầu têm cánh phượng mà nhận ra Tấm, người vợ xinh đẹp, yêu thương của mình.
Sau khi bị giết, Tấm không ngừng tái sinh, phục sinh nhưng đã bị Cám tìm đủ mọi cách tàn sát,
hủy diệt. Chim vàng anh bị Cám giết thịt. Cây xoan đào bị Cám đốn. Khung cửi bị Cám đốt. Cây thị
mọc lên tươi tốt. Thị kết trái. Tấm được phục sinh rồi được gặp lại nhà vua. Đó là những kiếp luân
hồi của Tấm. Đó là sức sống mạnh mẽ, bất diệt của Tấm. Tấm bị sát hại, nhưng hồn Tấm vẫn căm
giận kết án kẻ độc ác đã giết chết mình.
Quá trình biến hóa của Tấm trong phần hai truyện cổ tích "Tấm Cám" đã thể hiện sức chiến đấu

kiên cường bất khuất, sức sống mạnh mẽ bất diệt của nhân dân lao động, của cái thiện trước cái ác,
trước mọi thế lực đen tối và tàn bạo, trước mọi âm mưu quỷ quyệt. Cho dù bị giết chết, bị xé xác, bị
phanh thây, cho dù bị đốt xác thì Tấm vẫn bất diệt!
Phần cuối của truyện là kết cục đáng đời của hai mẹ con người đàn bà tham lam, độc ác và
quỷ quyệt. Cám chui xuống hố sâu, bị giội nước sôi mà chết. Mụ dì ghẻ thấy Cám chết rồi cũng lăn
đùng ra chết. Hành động trả thù của Tấm và cái chết của hai mẹ con Cám đã thể hiện cuộc đấu tranh
đẫm mãu giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong cuộc đời xưa, nay. Đó là mơ ước
của những con người bị áp bức, bị vùi dập. Và đó cũng là triết lí, là niềm tin của nhân dân: "Ác giả
ác báo".
Trên con đường đi tìm chân lí, tìm ấm no hạnh phúc, những truyện cổ tích thần kì như truyện
"Tấm Cám" mãi mãi là bài ca về những mơ ước đẹp, giàu nhân bản cho ta niềm vui, niềm tin và sức
mạnh trừng phạt cái ác, chiến thắng cái ác.
2.
Truyện cổ tích là nơi người Việt xưa gửi gắm những ước mơ,khát vọng của mình trong cuộc
sống.Tấm Cám là một câu chuện hay,tiêu biểu cho cuộc đấu giữa cái thiện với các ác trong xã hội
xưa.Vấn đề đặt ra trong truyện vẫn còn nguyên giá trị hiện thực cho đến ngày nay.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong xã hội xưa được khắc họa qua truyện Tấm
Cám.Trong truyện,hoàn cảnh của cô Tấm rất đáng thương,mồ côi mẹ từ nhỏ,phải ở với mẹ con
Cám,bị mẹ con Cám bóc lột cả về vật chất lẫn tinh thần.Qua đó,ta phần nào hình dung được sự độc
ác,nham hiểm của mẹ con Cám.Khi cô còn ở với họ thì bị tước đọat mọi quyền lợi mà lẽ ra cô xứng
đáng được nhận với một nhân cách tốt đẹp như vậy.Sau khi cô trở thành Hoàng hậu,mẹ con họ vẫn
không buông tha cho cô,luôn lừa giết cô và cả những lần hóa thân.Từ đó,ta thấy mẹ con Cám là đại
diện cho cái ác,cho những điều xấu xa,thấp hèn,trái với lương tâm.Cái ác đó ngày càng lộ liễu,tàn
nhẫn với nhiều thủ đoạn.Còn Tấm đại diện cho cái thiện,cho những điều tượng trung cho chính
nghĩa,lẽ phải.Cái thiện luôn bị cái ác chèn ép,bắt nạt,hãm hại.Ban đầu,Tấm nhu nhược,bị động,bị
hãm hại chỉ biết khóc và trông chờ vào sự giúp đỡ của Bụt.Thế nhưng con người ta khi bị áp bức
quá mức,bị dồn vào thế đường cùng,đi quá giới hạn mà lòng chịu đựng cho phép thì sẽ tự vùng
lên,đấu tranh kiên quyết với cái ác để giành lại hạnh phúc cho mình.
Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong xã hội xưa đã rất căng go,quyết liệt.Cái ác có thế
lực mạnh,bất chấp thủ đoạn để hãm hại cái thiện.Nhưng cái thiện không đơn độc mà luôn có sự giúp

đỡ của mọi người xung quanh.Cái thiện phải tự trưởng thành,tự đấu tranh để giành lại hạnh
phúc.Trong cuộc đấu tranh đó,cái thiện luôn phải trải qua những gian nan,thử thách nhưng kết quả
cuối cùng thì phần thắng vẫn nghiêng về cái thiện và cái ác sẽ bị trừng trị thích đáng giống như quy
luật ở đời:''Ở hiền gặp lanh,ác giả ác báo''.


Trong xã hội hiện đại ngày nay,cuộc đấu tranh ấy vẫn không ngừng nghỉ,vẫn đầy cam go,quyết
liệt.Cái thiện và cái ác vẫn song song tồn tại.Cái ác ngày càng nhiều thủ đoạn tinh vi hơn,nham hiểm
hơn.Các quan chức nhà nước biến chất dựa vào quyền lực và địa vị để tham ô,ăn hối lộ,vùi dập
những người dám đấu tranh.Tiêu biểu như ông Nguyễn Đức Kiên_phó chủ tịch hội đồng quản trị
ngân hàng ACB đã có những hành vi thu lợi nhuận bất chính,gây rối loạn thị trường tiền tệ,ảnh
hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện chính sách tài chính của chính phủ.Gới xã hội đen bất chấp
luật pháp,dùng bạo lực và đồng tiền để thực hiện các hành vi phạm pháp,khống chế người khác,chà
đạp nhằm mục đích buôn bán chất cấm,phụ nữ và trẻ em,... Những kẻ tha hóa,biến chất,lười lao
động,ăn chơi xa đọa,sẵn sàng làm ất cứ chuyện gì trái với đạo nghĩa làm người để thỏa mãn mục
đích cá nhân ích kỉ,xấu xa,bì ổi của mình mà không thèm quan tâm đến hậu quả về sau.Cuộc đấu
tranh trong bản thân mỗi người để chống lại thói hư tật xấu như tham lam,ích kỉ,gian lận,...mới là
gay go nhất bởi vì trong mỗi con người luôn tồn tại hai mặt tốt và xấu.
Hậu quả do cái gây ra cho xã hội là làm chậm phát triển kinh tế,xã hội,tạo nên sự bất ổn định
về chính trị và đời sống của người dân.Gây ra tâm lí hoang mang,lo sợ,mất niềm tin trong các tầng
lớp nhân dân.Ảnh hưởng nghiê trọng đến sự phát triển chung của con người.
Nguyên nhân do luật pháp còn nhiều kẽ hở,tạo điều kiện cho các loại tội phạm,cơ quan thi
hành luật pháp không phải lúc nào cũng nghiêm minh.Lòng tham lam kết hợp với sự ích kỉ,độc ác
vẫn còn tồn tại trong một số bộ phận và ngay trong bản thân mỗi người.Ngoài ra,do sự phát triển của
xã hội,sống đầy đủ,dư thừa,con người dần suy thoái cũng như xuống cấp về đạo đức và lối sống nên
dễ xảy ra các hành vi phạm pháp.Mỗi người cần phải biết sống thiện.Nhưng sống nhu nhược,yếu
đuối cũng không phải là sống tốt,trước cái ác con người phải kiên quyết đấu tranh để đòi lại những
thứ đáng thuộc về mình.
Vậy trong cuộc sống,dù có thế nào đi chăng nữa thì cái thiện vẫn luôn chiếnthawsnng cái
ác.Chừng nào cái ác còn tồn tại,lương tâm đen tối của con người vẫn còn đó,cuộc đấu tranh xung đột

giữa cái thiện và cái ác vẫn còn có những người bị chìm trong đau khổ.Thế nê con người cần phải cố
gắng hoàn thiện bản thân mình để đến một ngày nào đó cái ác chỉ còn là trong truyện cổ tích mà
thôi.
Bài 3:
Từ xưa đến nay, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt với kẻ xấu vô
cùng gian nan, phức tạp. Đặc biệt, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong bản thân mỗi con
người lại càng phức tạp, gian nan. Xong, kể cả trong xã hội xưa và nay, không phải lúc nào cái thiện
cũng chiến thắng cái ác, chính vì vậy mà nhân dân xưa đã đưa những mơ ước, nguyện vọng, lý
tưởng xã hội của mình thông qua chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiện vào những câu truyện cổ
tích, tiểu biểu là câu truyện “Tấm Cám”.
Từ khi con người hình thành tri thức, cái thiện và cái ác đã luôn cùng song hành với nhau trong
xã hội. Cái thiện là tất cả những gì có vai trò tích cực, có tác động thuận lợi trong đời sống của con
người và toàn xã hội. Cái ác là tất cả những gì gây trở ngại và có hại cho con người và xã hội. Cái
thiện và cái ác là hai mặt đối lập nhau nhưng lại là một chỉnh thể.
Bản chất mậu thuẫn và xung đột trong cậu chuyện “Tấm Cám” tập trung ở hai tuyến: Tấm và mẹ
con Cám. Đầu Truyện mâu thuẫn và xung đột đầu tiên được đưa ra là mâu thuẫn và xung đột trong
gia đình phụ quyền. Ý nghĩa xã hội được phản ánh rõ nhất qua cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái
ác, giữa các lực lượng đối lập trong xã hội, xuất hiện muộn hơn.
Sớm mồ côi cha mẹ, Tấm sống trong sự ghẻ lạnh của dì ghẻ và Cám. Hằng ngày, Tấm phải làm
mọi công việc nhà: “phải làm việc lụng luôn canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, với bèo;
đêm lại còn xay lúa mà không hết việc” chỉ để nhận lấy những trận đòn roi từ bà dì ghẻ. Còn Cám
thì “ được ăn trắng mặt trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng”. Khác nhau
nhưng chưa đến độ mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn giữa Tấm và Cám dần lộ ra khi Cám lừa chị trút hết


tép vào giỏ rồi nhanh chạy về nhà để nhận cái yếm đỏ, còn Tấm thì “ngồi bưng mặt khóc” vì cảm
thấy bất công. Kế đến, từ sự việc con cá bóng bị mẹ con Cám bắt ăn thịt, Tấm cũng “oà lên khóc” vì
thấy bị thua thiệt, đến việc đi xem hội, Tấm không được sắm sửa quần áo đẹp đã đành, đằng này bà
dì ghẻ còn cản trở Tấm bằng cách “bắt cô phải nhặt xong mớ gạo thóc đã được trộn lẫn với nhau”,
cô Tấm lại một lần nữa “ngồi khóc một mình”. Rồi cả việc so sánh Cám như “chuông khánh”, còn

Tấm là “mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”, “bĩu môi” khi thấy Tấm xuất hiện ở đám hội, “ngạc nhiên và
hằn học” nhìn Tấm lên kiệu về cung. Tấm sung sướng bao nhiêu thì mẹ con Cám càng uất hận bấy
nhiêu.Tất cả đã phần nào thể hiện được sự mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám, mâu thuẫn sau cao
hơn mâu thuẫn trước, từ mâu thuẫn nhỏ đến mâu thuẫn gay gắt, không thể dung hoà. Và sự mâu
thuẫn chỉ được giải quyết bẳng sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, không phải bằng con đường điều
hoà mâu thuẫn.
Sự ganh ghét như loài sau bọ đục khoét vào sâu trong tư tưởng biến thành ngọn lửa uất hận,
khiến cho lương tâm và lý trí ngày cần thối rữa, cho đến khi sự tàn ác lấn áp tất cả. Gặp được dịp
may hiếm có, Tấm về nhà giỗ cha. Mẹ com Cám lập kế giết chết Tấm hòng cướp đi hạnh phúc mà
cô đang có.
Truớc lúc chết, mỗi lần Tấm gặp khó khăn, dẫu cho có cảm thấy bất công, bị thua thiệt hay tủi
phận, thì cô đều tỏ ra yếu đuối, chỉ biết khóc và nhờ vào sự phù trợ của ông Bụt. Bụt hiện ra, đền bù
những thua thiệt, mất mát của Tấm và thường là sự đền bù to lớn, tốt đẹp hơn. Ở phuơng diện ý
nghĩa xã hội, sự giúp đỡ của Bụt thể hiện tình cảm, thái độ của tác giả dân gian, tức đa số nhân dân
lao động đối với Tấm , cũng như đối với những người hiền lành, nghèo khổ và có phẩm chất tốt đẹp
như Tấm. Mặt khác, có thể nói Bụt đóng vai trò tạo thêm sức mạnh cho Tấm để đi đến thắng lợi.
Nhưng ông Bụt giúp Tấm được bao nhiêu thì lại bị cướp đi hết bấy nhiêu và cuối cùng cướp luôn cả
mạng sống của Tấm mà ông Bụt cũng bó tay, bất lực. Có lẽ cô quá yếu đuối, yếu đuối đến mức
không giữ nỗi hạnh phúc của mình, để cho người khác cướp mất. Nếu không muốn nói đó là sự nhu
nhược ko dám nói lên tiếng nói cho riêng mình, một hiện tượng không những phổ biến trong xã hội
PK xưa mà cả trong xã hội hiện nay. Trong cuộc sống, hạnh phúc thực sự chỉ có thể do bản thân
mình tự đấu tranh tranh mà có, bởi ai ai cũng muốn hưởng hạnh phúc, mà cái hạnh phúc ấy thì lại
quá ít ổi để có thể chia sẽ. Vậy tại sao cô không thể đứng dậy đấu tranh cho bản thân mình. Vì thế
cho nên, ở giai đoạn hậu thân, Tấm phải tự mình đảm nhiệm phần việc mà ông Bụt đã không giúp và
không thể giúp. Khi còn sống, Tấm hiền dịu, ngây thơ, nhân hậu bao nhiêu thì sau khi chết cô lại
đáo để và quyết liệt bấy nhiêu (tiếng chim vàng anh, tiếng kếu của khung cửi và hành động trả thù
mẹ con Cám cuối cùng chứng tỏ điều này).
Phần mẹ con Cám, cái giá của việc cướp đi một sinh mạng là rất nặng nề, nặng đến mức…
thậm chí có thể huỷ hoại chính mình. Một khi đã giết người vì lợi ích cá nhân mình, bọn họ đã tự
đeo cho mình cái mặt mạ của quỷ dữ không bao có thể tháo bỏ, huống chi họ không những giết Tấm

1 lần, mà là nhiều lần chỉ nhầm bảo vệ cái hạnh phúc giả tạo mà họ đã cướp mất từ tay Tấm. Chính
vì vậy họ phải gánh lấy cái giá nặng nề của kẻ giết người. Những kẻ thủ ác đã gặp báo ứng.
Bất kể nơi nào cái thiện tồn tại thì ở đó mầm móng cái ác luôn rình rập. Chúng luôn tác động,
bài trừ, gạt bỏ nhau nhưng lại là tiền đề tồn tại cho nhau. Không nơi nào tồn tại toàn những người
tốt, và cũng sẽ chẵng có một xã hội với tất cả những công dân xấu cả. Cái tốt cái xấu đã và đang
hiện hữu trong mỗi chúng ta, thật sai lầm khi chúng ta sống mà chỉ cố gắng làm điều tốt! Người tốt
thật sự là người biết tự nhìn nhận ra những sai lầm của bản thân và tránh lập lại chúng. Hơn nữa,
không có quan niện thiện, ác nào là vĩnh viễn đối với mọi thời đại, đúng với mọi giai cấp, mọi hoàn
cảnh cụ thể.
Thử đặt trừơng hợp ngược lại, nếu mẹ con Cám là đại diện cho cái ác lại được sống hạnh phúc
cùng nhà vua đến cuối đời thì sao? Lúc ấy bốn chữ “công bằng” và “hoà bình” là đều không thể có
được trong xã hội này. Khi ấy trẻ con đến trường, cái mà chúng học được chỉ là lòng thù hận, sự ích


kỷ và đố kỵ Thử tưởng tượng một ngày nọ bạn bước ra đường, vô tình bạn thấy một bà cô vấp ngã
và tất cả mọi người chung quanh bạn vẫn dững dưng bước đi. Tưởng tượng sẽ ra sao khi bạn phải
đến viện bảo tàng để đọc được cuốn tiểu thuyết "Những người khốn khổ" của H.Way mà lúc này nó
bị xem là tư tưởng phát-xit. Sẽ ra sao khi mà khắp nơi điều có trộm cướp, lừa gạt và những điều đó
bị mọi người lờ đi, thờ ơ không đếm xỉa. Trái Đất này sẽ trở thành nơi lạnh nhất trong vũ trụ, vì bởi
lẽ “nơi lạnh lẽo nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi sự lạnh nhạt bao trùm”.
Và hãy thử tưởng tượng xã hội sẽ ra sao khi mà ở đó chỉ toàn là người tốt? Một ngày nọ, trên
đường phố, chủ các chiếc xe đều nhường nhau chạy trước. Một chủ tiệm vàng trông thấy một người
lao công đang thu gôm rác cực khổ, liền tặng cho ông ta mấy chỉ vàng. Ông chủ các công ty đứng ở
cổng hỏi thăm từng nhân viên rồi tặng vài tháng lương cho những người có hoàng cảnh hơi túng
thiếu. Ở các khu phố, người ta đến gọi cửa từng nhà tặng sách giáo khoa trong khi trên Tivi đang
đưa tin sách đang lên giá.
Liệu những sự giúp đỡ ấy có thật sự cần thiết không? Người xưa có câu: “Có gian nan mới thử
sức người” . Những sự giúp đỡ không đúng lúc ấy không những không giúp ích gì nhiều mà ngược
lại còn tập cho họ thối ỷ lại vào người khác, không tự cố gắng. Một xã hội như vậy sẽ ngày một lạc
hậu, không thể tiến bộ, phát triển được. Cái ác là cái đáng ghê tởm cần gạt ra khỏi đời sống cá nhân

và xã hội. Tuy nhiên cái ác không phải là cái đối lập tuyệt đối của cái thiền. Chúng có sự thống nhất
giữa các mặt đối lập.
Ranh giới thiện ác chỉ cách nhau một sợi chỉ nhỏ. Trong học tập của học sinh, cuộc đấu tranh
chống những biểu hiện của cái xấu cái ác như: lười biếng, dối trá và gian lận,… cũng rất khó khăn,
phức tạp. Chính vì vậy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phải chăm lo rèn
luyện đạo đức, có ý thức quan tâm đến những người xung quanh, đấu tranh chốn glại cái ác. Không
ngừng học tập để nâng cao trình độ văn hoá, tiếp thu công KH và CN hiện đại nâng cao về nhận
thức, về chính trị xạ hội. Tích cực lao động cần cù sáng tạo. Sẵn sàng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ
tổ quốc.
Qua câu truyện “Tấm Cám”, ta thấy được cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt
và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay, cái ác có thể mạnh nhưng không thể tồn tại vĩnh viễn, cái thiện có
thể yếu nhưng vẫn luôn tồn tại để đấu tranh chống lại cái ác. Và như thể là một chân lý, người ở hiền
thì sẽ gặp lành và kẻ gieo gió ắt cũng có ngày gặp bão.
Đề bài: Anh (chị) hãy bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu
trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba: "Hiền tài là nguyên khí
của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu,
rồi xuống thấp."
Thân Nhân Trung (1418 – 1499) tên chữ là Hậu Phủ, người xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng,
nay thuộc tỉnh Bắc Giang, ông đỗ tiến sĩ năm 1469, từng là thành viên trong Hội Tao đàn do vua Lê
Thánh Tông sáng lập. Là người có tài văn chương nên năm 1484, ông đã được nhà vua tin cậy giao
cho soạn thảo Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba. Văn bản này giữ vai
trò quan trọng như lời Tựa chung cho cả 82 tấm bia tiến sĩ ở nhà bia Văn Miếu, Hà Nội. Bài Hiền tài
là nguyên khí của quốc gia trích từ bài kí này, trong đó có câu: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia,
nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.
Vấn đề tác giả nêu ra trong đoạn trích là khẳng định vai trò, vị trí của các bậc hiền tài đối với
đất nước. Đây là một nhận định sáng suốt và đúng đắn, được chiêm nghiệm và rút ra từ thực tế thăng
trầm của lịch sử nước ta, chứng tỏ người viết có tầm nhìn xa trông rộng.Vậy hiền tài là gì và tại sao
hiền tài lại là nguyên khí của quốc gia ?
Thế nào là hiền tài? Hiểu theo nghĩa hiển ngôn của từng từ thì hiền là ăn ở tốt với mọi người



(phải đạo), hết lòng làm trọn bổn phận của mình đối với người khác; tài là khả năng đặc biệt làm
một việc nào đó. Hiểu rộng ra theo nghĩa hàm ngôn thì hiền tài là người tài cao, học rộng và có đạo
đức, một lòng một dạ vì lợi ích của nhân dân, Tổ quốc.
Thế nào là nguyên khí? Nguyên khí là khí ban đầu tạo ra sự sống của vạn vật. Hiểu rộng ra,
nguyên khí là yếu tố quyết định sự sống còn và phát triển của xã hội, đất nước.
Vậy tại sao hiền tài là nguyên khí của quốc gia ?
Hiền tài là sự kết tụ tinh hoa của đất trời, của khí thiêng sông núi, của truyền thống dân tộc.
Người xưa đã nói: "Địa linh sinh nhân kiệt".Nên hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
Những người được coi là hiền tài có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hưng vong của một
triều đại nói riêng và của quốc gia nói chung. Có thể lấy rất nhiều ví dụ trong lịch sử nước ta để
chứng minh cho điều đó như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi,
Giang Văn Minh, Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ… ở những thế kỉ trước
và nhân vật nổi tiếng của thế kỉ XX là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – người đã lãnh đạo thành công
sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến, giành lại chủ
quyền độc lập, tự do cho đất nước và khẳng định tên tuổi Việt Nam trước toàn thế giới.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có một số nhân sĩ, trí thức được đào tạo ở
nước ngoài vì cảm phục đức hi sinh cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh nên đã sẵn sàng từ bỏ cuộc
sống vinh hoa phú quý, trở về nước trực tiếp đóng góp tài trí của mình cho sự nghiệp kháng chiến.
Kĩ sư Trần Đại Nghĩa, người chế tạo ra nhiều thứ vũ khí lợi hại cho kháng chiến. Bác sĩ Phạm Ngọc
Thạch, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn Ngữ… đã bỏ ra bao công sức nghiên cứu, tìm tòi và
chế tạo ra những thứ thuốc kháng sinh quý giá để cứu chữa cho thương binh, bộ đội trên chiến
trường. Nhà nông học Lương Định Của suốt đời trăn trở, nghiên cứu cải tạo ra những giống lúa mới
có khả năng chống sâu rầy và cho năng suất cao để cải thiện cuộc sống nông dân, tăng nguồn lương
thực tiếp tế cho chiến trường miền Nam đánh Mĩ… Đó là gương sáng của những bậc hiền tài một
lòng một dạ vì quyền lợi chung của nhân dân và Tổ quốc.
Như đã nói ở trên, hiền tài có vai trò quan trọng đối với sự hưng vong của đất nước. Nhưng
hiền tài không phải tự nhiên mà có. Ngoài thiên khiếu bẩm sinh, những người tài phải được phát
hiện và giáo dục theo một quy củ nghiêm túc để họ nhận thức đúng đắn về mục đích học tập là rèn
luyện đạo lí làm người, để bổi dưỡng lòng tương thân, tương ái và hiểu rõ trách nhiệm của bản thân

đối với xã hội. Ngày xưa, theo quan niệm của Khổng giáo thì việc giáo dục con người phải lấy đức
làm gốc (đức giả bản dã , còn tài là phần ngọn (tài giả mạt dã . Nguyễn Trãi cũng đặt đức lên
trên tài: Tài thì kém đức một vài phân. Đại thi hào Nguyễn Du cũng khẳng định: Chữ Tâm kia mới
bằng ba chữ Tài. Quan niệm đúng đắn ấy còn giữ nguyên giá trị cho đến tận ngày nay. Bác Hồ
trong một lần nói chuyện với học sinh đã nhấn mạnh: Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có
đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó.
Hiền tài trước hết phải là người có đức. Trong chế độ phong kiến trước đây thì đức chính là
lòng trung quân, ái quốc. Mọi suy nghĩ và hành động của các bậc hiền tài đều không ngoài bốn chữ
đó. Những mưu cầu, toan tính vun vén cho lợi ích cá nhân không thể tác động và làm ảnh hưởng đến
lí tưởng cao quý giúp vua, giúp nước của họ. Xét theo chuẩn mực đạo đức Nho giáo thì họ xứng
đáng là những bậc chính nhân quân tử: phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất (giàu sang không làm thay đổi, nghèo khó không thể chuyển lay, bạo lực không thể khuất
phục). Hiền tài là những tấm gương quả cảm, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Mạc Đĩnh Chi,
trạng nguyên đời Trần được triều đình cử đi sứ phương Bắc đã tỏ rõ cho vua quan nhà Minh biết chí
khí hiên ngang của người quân tử bằng tài ứng đối hùng biện của mình. Giang Văn Minh sẵn sàng hi
sinh tính mạng để bảo vệ danh dự của vua Nam và quốc thể nước Nam, xứng đáng là sứ thần Đại
Việt. Không thể kể hết tên tuổi các hiền tài của nước Nam, đúng như Nguyễn Trãi từng viết:


Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có
(Bình Ngô đại cáo).
Tuy nhiên, lịch sử mấy nghìn năm của đất nước ta có nhiều giai đoạn biến đổi thăng trầm, về
đại cục, lịch sử luôn phát triển theo hướng đi lên; nhưng có lúc lịch sử gặp giai đoạn suy thoái, bi
thương. Vận mệnh dân tộc, số phận đất nước đặt lên vai hiền tài, nhưng vì nhiều lí do, họ đã không
đảm đương được trọng trách mà quốc gia giao phó. An Dương Vương oai hùng với thành Cổ Loa
kiên cố và nỏ thần hiệu nghiệm, nhưng vì chủ quan khinh địch nên đã lâm vào cảnh nước mất nhà
tan. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống chỉ vì ham muốn lợi danh mà hèn nhát cam tâm làm tay sai cho
quân xâm lược phương Bắc. Đó là lúc nguyên khí suy, thế nước yếu rồi xuống thấp.
Điều quan trọng nhất là hiền tài thì phải thực sự có tài. Có tài kinh bang tế thế thì mới nghĩ ra

được những kế sách sáng suốt giúp vua và triều đình cai trị đất nước. Tài năng quân sự lỗi lạc của
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã góp phần to lớn vào chiến công lừng lẫy của quân dân nhà
Trần ba lần đánh thắng quân xậm lược Mông – Nguyên. Tài năng quân sự, ngoại giao xuất sắc của
Nguyễn Trãi khiến ông trở thành vị quân sư số một của Lê Lợi, có vai trò quyết định chiến thắng
của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quét sạch mười vạn giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta.
Một gương sáng hiền tài đã trở thành thần tượng không chỉ trong phạm vi đất nước mà mở
rộng ra phạm vi toàn cầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tên tuổi của ông gắn liền với hai cuộc
kháng chiến đau thương và oanh liệt của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm
lược, ông đã làm vẻ vang cho lịch sử và truyền thống bất khuất, hào hùng của đất nước. Nhắc đến
ông, nhân dân ta và bè bạn năm châu yêu mến, tự hào; còn kẻ bại trận cũng phải nghiêng mình kính
phục.
Xưa nay, các triều đại phong kiến đều quan tâm đến việc mở trường học và tổ chức thi cử để
tuyển chọn nhân tài giúp nước.Sau khi quét sạch quân xâm lược nhà Minh ra khỏi bờ cõi, mở ra nền
thái bình muôn thuở, vua Lê Thái Tổ đã tỏ ra đặc biệt quan tâm đến vấn đề mở rộng và nâng cao nền
giáo dục của nước nhà, trong đó có việc phát hiện và đào tạo nhân tài nhằm phục vụ cho mục đích
chấn hưng đất nước. Các triều đại trước, việc tuyển chọn người ra làm quan chủ yếu thông qua con
đường tiến cử, nhiệm cử…, nhưng đến thời Lê thì chủ yếu là thông qua khoa cử để chọn người tài
giỏi giúp vua trị nước. Vua Lê Thánh Tông viết trong chiếu dụ như sau: Muốn có nhân tài, trước hết
phải chọn người có học. Phải chọn người có học thì thi cử là đầu. Nước ta, từ khi trải qua binh lửa,
nhân tài ít như lá mùa thu, tuấn sĩ thưa như sao buổi sáng. Thái Tổ ta mới dựng nước đã lập ngay
trường học, nhưng lúc mới mở mang chưa đặt khoa thi. Ta noi theo chỉ tiên đế, muốn cầu được hiền
tài để thỏa lòng mong đợi. Trong sắc dụ của mình, vua Lê Hiển Tông cũng khẳng định: Các bậc
thánh đế minh vương, chẳng ai không lấy việc gây dựng người tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên
khí làm việc đầu tiên.
Người có tài, có đức giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước ngày nay như
thế nào?
Nếu hiểu theo nghĩa hiền tài là người tốt, có khả năng đặc biệt làm một việc nào đó thì hiền tài
hiện nay trong lĩnh vực nào cũng có. Đó là những người vượt khó để thành đạt; là những doanh nhân
có tâm, có tài, sản xuất ra những hàng hoá chất lượng cao đem lại lợi ích to lớn cho nhân dân, đất
nước; là những nhà khoa học có nhiều công trình hữu ích, thiết thực; là những vị lãnh đạo có tư

tưởng đổi mới, hoạch định các chính sách phù hợp, khả thi để thúc đẩy nền kinh tế, chính trị, văn
hoá xã hội ngày càng phát triển. Tất cả hợp lại tạo nên nguyên khí quốc gia.
Hiền tài không phải tự nhiên mà có. Ngoài năng khiếu bẩm sinh mang tính chất truyền thống
của gia đình, dòng họ, quê hương… thì người tài phải được phát hiện, giáo dục, đào tạo một cách
nghiêm túc và bài bản để thực sự trở thành hiền tài của đất nước.
Nhân tài của một đất nước không nhiều nhưng cũng không quá hiếm hoi. Để có được hiền tài,


Nhà nước phải có chính sách đảo tạo và sử dụng đúng đắn cùng chính sách đãi ngộ trân trọng, hợp
lí. Tạo điều kiện thuận lợi để hiền tài phát triển tài năng và cống hiến có hiệu quả nhất cho sự nghiệp
phát triển đất nước giàu mạnh.
Nhận định của Thân Nhân Trung đúng với mọi quốc gia và mọi thời đại. Học sinh chúng ta
cần phải rèn luyện, phấn đấu không ngừng để trở thành hiền tài, góp phần xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, để có thể sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hổ
hằng mong ước.
Bài 2: Sự hưng thịnh của một đất nước phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố
quan trọng là người hiền tài. Có thể nói, trong lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta. những triều đại nào mà đất nước phát triển đều là những triều đại có nhiều người hiền tài.
Một trong những người có quan điểm tiến bộ, có cái nhìn sâu sắc, có sự chăm lo cho sự hưng thịnh
của nước nhà, có cái nhìn sáng suốt về vai trò của người hiền tài là Thân Nhân Trung. Trong Bài kí
đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba-1442, Thân Nhân Trung đã nêu: “Hiền tài
là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thỉ thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế
nước yếu, rồi xuống thấp.” Tư tưởng, của Thân Nhân Trung là tư tưởng đề cao vai trò của người
hiền tài. Người hiền tài đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ và dựng xây, phát triển
đất nước.
Câu nói của Thân Nhân Trung hoàn toàn đứng và rất sâu sắc, bởi vì:
Người hiền tài là người vừa có đức vừa có tài. Đức thể hiện ở nhân cách trong sáng, cao đẹp, ở
tấm lòng vì dân, vì nước. Tài thể hiện ở sự học rộng, tài cao, thông minh, sáng suốt. Nguvên. khí là
khí chất ban đầu làm nên sự sống còn và phát triển của đất nước. Khi đất nước gặp phải những tình
huống khó khăn, hoàn cảnh thử thách thì người hiền tài sẽ giúp đất nước vượt qua khó khăn, thử

thách đó. Người hiền tài đóng góp rất lớn trong trong sự sống còn và phát triển của một quốc gia.
Điều này không chỉ đúng riêng với nước ta mà còn đúng với các nước khác. Ngay ở Trung Quốc,
người hiền tài có vai trò vô cùng quan trọng. Đọc Tam quốc chí diễn nghĩa, ta thấy vào thời Tam
quốc phân tranh, nhờ vào việc trọng dụng nhân tài mà các nước mạnh yếu khác nhau, ở nước ta, khi
nói về Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa, Nguvễn Trãi đã nêu ra hàng loạt những khó khăn: lương thực
hết, quân đội không có. Nhưng cái khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa chính là “Tuấn kiệt như sao
buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu”. Điều đó chứng tỏ rằng những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
đã thấy được vai trò của những người hiền tài trong cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm bảo vệ
Tố quốc. Từ xưa đến nay, người hiền tài rất được đề cao. Một trong những con đường chọn người
hiền tài là các triều đại tố chức thi cử. Ở nước ta, chỉ tính từ khoa thi năm 1075 đến khoa thi cuối
cùng vào năm 1919, các triều vua Việt Nam đã tổ chức được 185 khoa thi, lấy đỗ hơn 2500 tiến sĩ.
Và một trong những cách lưu danh những người hiền tài của đất nước, các triều đại đã cho khắc tên
những tiến sĩ vào bia đá. Ngày nay, khách vào thăm Văn Miếu – Quốc Tử Giám, còn thấy bên giếng
Thiên Quang, dưới những hàng muỗm già cổ kính, 82 tấm bia đá khắc tên tuổi 1306 vị tiến sĩ từ
khoa thi năm 1442 đến năm 1779 như chứng tích về một nền văn hiến lâu đời. Tài và đức có sự gắn
bó chặt chẽ với nhau. “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó” (Hồ Chí Minh). Người hiền tài có vai trò quan trọng trong bộ máy lãnh đạo nhà
nước từ Trung ương đến địa phương. Những người lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng sẽ đưa ra
được những kế hoạch, chính sách đúng đắn, phù hợp tình hình đất nước trong từng giai đoạn lịch sử.
Những người hiền tài tham gia lao động trực tiếp sẽ có nhiều sáng kiến trong lao động sản xuất, tạo
ra những hiệu quả lao động cao, góp phần làm cho kinh tế của đất nước phát triển. Ngày nav, nước
ta bước vào thời kì mở cửa, người hiền tài càng có vai trò quan trọng. Chính vì vậy, nhà nước ta đã
thấy được tầm quan trọng của giáo dục nên luôn nhấn mạnh “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Để


thực hiện điều đó, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chính sách ưu đãi để người hiền tài có điều kiện
cống hiến hết mình cho đất nước.
Tóm lại, thời kì nào thì người hiền tài cũng có một vị trí quan trọng trong sự hưng thịnh hay
suy vong của một đất nước. Vì thế, chúng ta phải biết quý trọng nhân tài. Chúng ta không thể để cho
nạn “chảy máu chất xám” diễn ra. Quý trọng người hiền tài là góp phần vào việc phát triển đất nước

ngày một tươi đẹp, giàu có hơn. Thanh niên trong thời đại mới phải sống có lí tưởng: luôn cống hiến
tài năng, nhiệt huyết cho sự phát triển của đất nước. Qua những dẫn chứng trên, một lần nữa ta
khẳng định ý kiến cùa Thân Nhân Trung nêu ra vẫn có ý nghĩa lớn trong xu thế hội nhập và cạnh
tranh toàn cầu hiện nay.
Bài 3:
Đến nay nhiều người trong chúng ta đều biết Thân Nhân Trung trong một bài viết trên bia
ở Văn Miếu Hà Nội vừa khẳng định “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất
nước mạnh và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống cấp.” Rõ ràng, ông
cha ta từ xưa vừa quan niệm nguyên khí của nước vừa là khát vọng, vừa là sức sống của dân tộc.
Ngay từ khi còn nhỏ, mới cắp sách đến trường, tui đã được các thày cô dậy về lòng tự hào quê
hương Thái Bình vừa sản sinh ra nhà bác học, nhà giáo Lê Quý Đôn. Ông vừa có những nhận định
trở thành chân lý cho tất cả thời lớn “Phi nông bất ổn, bay công bất phú, bay thương bất hoạt, bay trí
bất hưng” có nghĩa là đất nước muốn hưng vượng phải nhờ vào trí thức.
Hiền tài, theo định nghĩa như trên của Thân Nhân Trung, đương nhiên là trí thức. Có rất nhiều
định nghĩa khác nhau về trí thức. Theo từ điển thì:”Trí thức là người sử dụng trí tuệ làm việc, nghiên
cứu, phản ánh, đoán trước hoặc để hỏi và trả lời các các câu hỏi liên quan hàng loạt những ý tưởng
khác nhau”. C.Mac định nghĩa :” Trí thức là người nói sự thật, phê bình bất nhân nhượng về những
gì hiện hữu. Không nhân nhượng với nghĩa rằng họ bất lùi bước trước kết luận của chính mình, hoặc
xung đột với quyền lực, bất cứ quyền lực nào”.
Ngày nay, theo quan điểm chính thống, trí thức là những người lao động trí óc. Thái độ của trí
thức là thước đo sự tiến triển của chế độ. Gs Cao Huy Thuần lớn học Picardie (Pháp) định
nghĩa :“Ai đánh thức bất cho xã hội ngủ, người ấy là trí thức bất kỳ họ là ai”. J.P.Sartre, triết gia
(nhà) lừng danh người Pháp vừa nói “Nếu ai đó chế làm ra (tạo) ra quả bom nguyên tử, thì người đó
là bác học, chỉ khi nào ông bác học ý thức được cái khí giới giết ngươi ghê gớm ấy, đứng lên hô hào
chống bom nguyên tử, lúc đó ông ta là trí thức”.
Lịch sử nhân loại, chuyện dùng người mỗi thời (gian) khác nhau tùy theo trả cảnh lịch sử, thời
(gian) thế và vai trò, nhiệm vụ. Đông-Tây, kim-cổ người có thực tài và là người trí thức chân chính
đều có “mẫu số chung” trong cách ứng xử với xã hội và tầng lớp cầm quyền. Người chân chính có
thực tài thật là hiếm hoi, nên phải biết tìm, biết trân trọng. Thời Tam quốc, Lưu Bị được lên làm vua
cai trị nước Thục nhờ sáng suốt biết thu phục nhân tâm và trọng dụng người tài. Điển hình là ông

vừa 3 lần thực tâm lặn lội (tam cố thảo lư) đến mời Gia Cát Lượng về hợp tác với mình. Tần Thủy
Hoàng vị Hoàng đế Trung Hoa đầu tiên có công thống nhất đất nước nhưng cai trị đất nước bằng
bạo quyền, đốt sách, phỉ báng trí thức cho nên chỉ được thời (gian) gian ngắn nhà Tần vừa suy vong.
Đất nước ta, từ xưa đến nay lúc nào cũng nhiều người hiền tài, tuy nhiên từng thời (gian) kỳ,
từng lúc mà nguồn hiền tài đó được khơi ra như thế nào. Có nghĩa là khi được quan tâm, trọng dụng
thì hiền tài sẽ có, tri thức sẽ nhiều. Người có học vấn thường có tiềm năng phán đoán và nhận định
tình hình sáng suốt hơn người thường. Thời phong kiến, ở nước ta vừa có biết bao bài học khi biết
trọng dụng trí thức thì công cuộc bảo vệ tổ quốc, chống ngoại xâm và xây dựng đất nước phát triển
rất hiệu quả nhờ tầng lớp trí thức lãnh đạo biết khơi dạy, hòa cùng cùng với nhân dân xả thân vì
nghề lớn. Bài “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, bài thơ bất hủ của Lý Thường
Kiệt xác định chủ quyền của đất nước “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” hay bản hùng văn lịch sử của
Nguyễn Trãi :”Bình Ngô lớn cáo” là minh chứng cho sự sáng suốt của các trước nhân biết coi trọng


và sử dụng trí thức là các nhà quân sự, nhà tư tưởng chiến lược của thời (gian) đại.
Mặc dù chế độ phong kiến chỉ cho phép sĩ phu tiến thân trong chốn quan trường nhưng các bậc
trí thức hiền tài khi thấy ý kiến của mình bất được Vua tôn trọng, vừa sẵn sàng rũ áo, từ quan về ở
ẩn. Ông Chu Văn An nổi tiếng là bậc Thánh hiền, ngay khi đỗ Thái học sinh, ông từ chối làm quan,
bất màng danh lợi về quê mở trường dạy học có nhiều môn sinh. Vua Trần Minh Tông biết tài của
Chu Văn An mời ông vào triều dạy học cho thái hi sinh và các con lớn thần. Đến đời vua Trần Dụ
Tông thấy nhiều lớn thần xung quanh Vua là nịnh thần, tham quan, nhà giáo Chu Văn An vừa dũng
cảm dâng sớ, hạch tội và xin chém 7 kẻ tội thần. Vua bất nghe, ông liền treo ấn, từ quan về ở ẩn.
“Thất trảm sớ” nổi tiếng của nhà giáo Chu Văn An vẫn còn được truyền tụng mãi đến muôn đời sau.
Thời Vua Quang Trung là bậc minh quân biết sử dụng người tài nhưng tiếc thay lại đoản thọ nên
nghề lớn vẫn còn dở dang.
Thời kỳ cách mạng còn trong “trứng nước” Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh với tư duy, tầm nhìn
sáng suốt và uy tín to lớn vừa cảm hóa, thuyết phục được nhiều nhân sĩ, trí thức tiêu biểu tham gia
(nhà) khối lớn đoàn kết dân tộc, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống “nhung lụa”, bất chấp hiểm nguy đi theo
cách mạng, hy sinh cho nghề lớn. Khi thành lập Chính phủ kháng chiến, một trong những bức công
văn quan trọng đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đi là bài báo “Tìm người tài đức” đăng công

khai. Trong đó Người bày tỏ sự quan ngại “không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe
bất đến, thấy bất khắp, đến nỗi những người tài đức
Bài 4: Thế hệ ngày nay, chắc nhiều người biết Thân Nhân Trung viết bài văn cho tấm bia đầu tiên ở
Văn Miếu, ông ghi nhận về trí thức “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất
nước mạnh và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống cấp.” Theo tôi hiểu,
hiền tài là nguyên khí của quốc gia, đấy chính là khát vọng của cả dân tộc.
Nếu nói theo nghĩa đen của Đông y, “nguyên khí” không mùi, không màu, không vị nhưng
con người không có nguyên khí là con người chết. Nguyên khí chính là sức sống của mỗi quốc gia.
Ngay từ khi còn nhỏ, mới cắp sách đến trường, tôi đã được các thày cô dậy về lòng tự hào quê
hương Thái Bình đã sản sinh ra nhà bác học, nhà giáo Lê Quý Đôn, ông đã có những nhận định trở
thành chân lý cho mọi thời đại “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất
hưng” có nghĩa là đất nước muốn hưng vượng phải nhờ vào trí thức.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trí thức cho đến nay vẫn chưa định hình. Hiền tài đương
nhiên là trí thức. Người xưa, quan niệm trí thức là người được học rộng, biết nhiều, có trình độ đào
tạo cao hơn mặt bằng chung của xã hội. Theo từ điển :”Trí thức là người sử dụng trí tuệ làm việc,
nghiên cứu, phản ánh, dự đoán hoặc để hỏi và trả lời các các câu hỏi liên quan hàng loạt những ý
tưởng khác nhau”. C.Mac định nghĩa :” Trí thức là người nói sự thật, phê bình không nhân nhượng
về những gì hiện hữu. Không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của
chính mình, hoặc xung đột với quyền lực, bất cứ quyền lực nào”.
Ngày nay, theo quan điểm chính thống, trí thức là những người lao động trí óc. Thái độ của trí
thức là thước đo sự tiến triển của chế độ. Gs Cao Huy Thuần đại học Picardie (Pháp) định nghĩa :“Ai
đánh thức không cho xã hội ngủ, người ấy là trí thức bất kỳ họ là ai”. J.P.Sartre, triết gia lừng danh
người Pháp đã nói “Nếu ai đó chế tạo ra quả bom nguyên tử, thì người đó là bác học, chỉ khi nào
ông bác học ý thức được cái khí giới giết ngươi ghê gớm ấy, đứng lên hô hào chống bom nguyên tử,
lúc đó ông ta là trí thức”.
Lịch sử nhân loại, việc dùng người mỗi thời khác nhau tùy theo hoàn cảnh lịch sử, thời thế và
vai trò, nhiệm vụ. Đông-Tây, kim-cổ người có thực tài và là người trí thức chân chính đều có “mẫu
số chung” trong cách ứng xử với xã hội và tầng lớp cầm quyền. Người chân chính có thực tài thật là
hiếm hoi, cần phải biết tìm, biết trân trọng. Thời Tam quốc chí, Lưu Bị được lên làm vua cai trị nước
Thục nhờ sáng suốt biết thu phục nhân tâm và trọng dụng người tài. Điển hình là ông đã 3 lần thực



tâm cầu hiền, không quản đường xa, khẩn cầu Khổng Minh một nhân tài đa mưu, túc kế ra phò tá
làm quân sư. Tần Thủy Hoàng vị Hoàng đế Trung Hoa đầu tiên có công thống nhất đất nước nhưng
cai trị đất nước bằng bạo quyền, đốt sách, không coi trọng trí thức chỉ được thời gian ngắn đất nước
lại hỗn loạn, phân ly.
Đất nước ta, từ xưa đến nay lúc nào cũng nhiều người hiền tài, tuy nhiên từng thời kỳ, từng lúc
mà nguồn hiền tài đó được khơi ra như thế nào. Có nghĩa là khi được quan tâm, trọng dụng thì hiền
tài sẽ có, tri thức sẽ nhiều. Người có học vấn thường có khả năng phán đoán và nhận định tình hình
sáng suốt hơn người thường. Thời phong kiến, ở nước ta đã có biết bao bài học khi biết trọng dụng
trí thức thì công cuộc bảo vệ tổ quốc, chống ngoại xâm và xây dựng đất nước phát triển rất hiệu quả
nhờ tầng lớp trí thức lãnh đạo biết khơi dạy, hòa đồng cùng với nhân dân xả thân vì nghiệp lớn. Bài
“Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, bài thơ bất hủ của Lý Thường Kiệt xác định
chủ quyền của đất nước “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” hay bản hùng văn lịch sử của Nguyễn
Trãi :”Bình Ngô đại cáo” là minh chứng cho sự sáng suốt của các tiền nhân biết coi trọng và sử dụng
trí thức là các nhà quân sự, nhà tư tưởng chiến lược của thời đại.
Mặc dù, chế độ phong kiến chỉ cho phép sĩ phu tiến thân trong chốn quan trường nhưng các
bậc trí thức hiền tài khi thấy ý kiến của mình không được Vua tôn trọng, đã sẵn sàng rũ áo, từ quan
về ở ẩn. Ông Chu Văn An nổi tiếng là bậc Thánh hiền, ngay khi đỗ Thái học sinh, ông từ chối làm
quan, không màng danh lợi về quê mở trường dạy học có nhiều môn sinh. Vua Trần Minh Tông biết
tài của Chu Văn An mời ông vào triều dạy học cho thái tử và các con đại thần. Đến đời vua Trần Dụ
Tông thấy nhiều đại thần xung quanh Vua là nịnh thần, tham quan, nhà giáo Chu Văn An đã dũng
cảm dâng sớ, hạch tội và xin chém 7 kẻ tội thần. Vua không nghe, ông liền treo ấn, từ quan về ở ẩn.
“Thất trảm sớ” nổi tiếng của nhà giáo Chu Văn An vẫn còn được truyền tụng mãi đến muôn đời sau.
Thời Vua Quang Trung, biết rõ Ngô Thời Nhậm có tật nhưng vẫn sử dụng vì biết ông ta có tài. Tiếc
thay, bậc minh quân tài giỏi như vua Quang Trung lại đoản thọ nên nghiệp lớn vẫn còn dở dang.
Năm 1930, thời kỳ đầu của cách mạng, tư tưởng của một số người có thẩm quyền xuất phát từ
nền kinh tế “tiểu nông” lạc hậu, nên đã ấu trĩ đề ra chính sách sai lầm coi trí thức như kẻ thù cần đả
phá với khẩu hiệu “ Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Thời thế tạo ra anh hùng. May mắn
cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh xuất hiện với tư duy, tầm nhìn sáng suốt,

khôn ngoan nhờ tích lũy và sàng lọc theo thời gian trong những năm tháng lăn lộn ở xứ người đã
cảm hóa, thuyết phục được nhiều nhân sĩ, trí thức tiêu biểu, một nhân tố cực kỳ quan trọng để gọi
dạy sức mạnh đoàn kết dân tộc, từ bỏ cuộc sống “nhung lụa”, bất chấp hiểm nguy, vào bưng, ra
chiến khu đi theo kháng chiến tiêu biểu như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng,
Nguyễn Hữu Thọ vv…Khi thành lập Chính phủ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có công thư
“Tìm người tài đức” đăng báo để công khai, minh bạch vì Bác sợ rằng “không thiếu người có tài có
đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những người tài đức không thể xuất
thân”. Bác Hồ đã làm công tác cán bộ trên cơ sở dựa vào thành ý và minh tâm của dân để tuyển
chọn và sử dụng người tài, chứ không cho rằng công tác tổ chức là chỉ thuộc về Đảng, làm trong nội
bộ Đảng rồi đưa ra thuyết phục, thường là áp đặt, để dân chấp nhận.
Sau này, một số người có thẩm quyền với cách nhìn hẹp hòi, thiển cận về lý lịch, thành phần
đã chuyên quyền, bỏ qua không đào tạo và sử dụng nhiều người có năng lực, và chí khí cần thiết cho
công cuộc tái thiết đất nước. Họ chưa thấm nhuần lời dậy của Hồ Chủ Tịch: “Muôn việc thành công
hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý”. Ngày nay, cơ chế và tuyển chọn cán
bộ vẫn còn “chuyên quyền”, dễ thấy nhất là sự hẹp hòi, thiển cận không dám dùng và không biết
dùng những người có thực tài ngoài Đảng. Thời đại ngày nay, do nền kinh tế thị trường, những trí
thức có năng lực thực sự và tự trọng cao, không còn chí thú theo đuổi, cố bám vào cái ghế quyền lực
để tiến thân. Có những lúc các cụ ta phải kêu lên:
“Nhân tài như lá mùa thu


Tuấn kiệt như sao biển sớm”
Đó là lúc báo hiệu đất nước sẽ suy vong, lòng người ly tán. Bởi vậy, nhiều người cho rằng, nếu
Đảng và Nhà nước không có cơ chế tuyển chọn công khai, minh bạch (trí thức thích thi thố tài năng)
và chính sách đãi ngộ, môi trường làm việc thích hợp thì rất khó tuyển chọn được những người hiền
tài cho đất nước. Người được tuyển chọn trong vòng luẩn quẩn “chuyên quyền” đó, dễ dẫn đến một
số người lọt vào “mắt xanh” của Đảng nhưng lại không đủ tâm và tầm để sử dụng nguồn nhân lực có
trí tuệ, người giúp việc tài giỏi hơn mình.
Cổ nhân đã dạy :”Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” có nghĩa là ngay cả.
Viết bài nghị luận bày tỏ ý kiến của mình về phương châm Học đi đôi với hành

Học đi đôi với hành là phương châm học tập tích cực nhất, đúng đắn nhất và thiết thực nhất.
Hành nghĩa là hành động, là làm. Học đi đôi với hành nghĩa là học tập phải gắn liền với thực
hành, thực nghiệm; phải kết hợp kiến thức đã học được ở trường, lớp, ở trên trang sách với hoạt
động, việc làm cụ thể, không được học chay, lí thuyết suông. Mọi điều học được ở trường, ở lớp
phải được tập luyện, rèn luyện thành kỹ năng, kĩ xảo. Học tập, ôn tập, luyện tập thường xuyên chính
là thực hiện phương châm học đi đôi với hành.
Học đi đôi với hành là phương châm học tập tiến bộ nhất, vì với phương châm ấy, học sinh sẽ
phát huy được tính chủ động sáng tạo, biên lí thuyết thành lĩ năng qua thực hành; nhờ thực hành mà
hiểu sâu hơn lí thuyết.
Thực nghiệm trong phòng vật lí, phòng hóa học, ta vừa thú vị, vừa "sáng" mắt ra những điều
đã học về giá trị, về phản ứng, về điện năng và ứng dụng; ta làm quen dần với những phát minh
khoa học. Những giờ thực hành trong vườn trường, học sinh hiểu được bao điều kì thú của thiên
nhiên, của cây cối hoa lá. Qua chăm bón lúa và cách dùng thuốc diệt trừ sâu bệnh gây ra cho lúa như
bệnh đạo ôn, rầy nâu... ta mới hiểu sâu sắc, cụ thể cách canh tác hiện nay trên đồng ruộng. Làm toán,
làm văn, tập đọc và tập dịch tiếng Anh... là những giờ học lí thú, học sinh được vận dụng kiến thức,
tập dượt sự hiểu biết của mình. Văn ôn võ luyện chính là học đi đôi với hành vậy.
Học mà không hành là lối học vẹt; chỉ biết nhai đi nhai lại mớ lí thuyết suông. Phan Bội Châu
đã châm biếm lối học cử tử lạc hậu: "Hiền thánh liêu nhiên, tụng diệc si!" (Thánh hiền đã vắng thì
có đọc sách cũng ngu thôi!). Học mà không hành chỉ trở thành "con mọt sách"; khi vào đời, đối diện
với những vấn đề cuộc sống đặt ra, những "con mọt sách" ấy sẽ trở thành những "thầy bói xem voi"
mà thôi.
Ông Vũ Khoan trong bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới đã phân tích và phê phán tác hại
do lối học chay, học vẹt gây ra. Sau khi khẳng định "sự thông minh, nhạy bén với cái mới" của con
người Việt Nam, ông viết:
"Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức
cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học "thời thượng", nhất là khả năng thực hành và sáng
tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này thì thật
khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri
thức cơ bản và biến đổi không ngừng".
Hiện nay, môn Tin học hấp dẫn, lôi cuốn đông đảo học sinh trong nhà trường. Được ngồi trước

máy tính và làm theo những điều thầy giáo chỉ dẫn, ai cũng thấm thía phương châm học đi đôi với
hành.
Mục tiêu của nhà trường hiện nay là đào tạo con người, hành động, vừa có kiến thức hiện đại, vừa
có chuyên môn và có kĩ năng sáng tạo. Nhờ kết hợp học đi đôi với hành mà học sinh nhận rõ vai trò
và vị trí của tuổi trẻ trong nền kinh tế tri thức đang diễn ra, phấn đấu vươn lên học giỏi, sớm trở
thành người lao động kiểu mới, đem tài năng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.


Nhờ thực hiện phương châm học đi đôi với hành mà các bạn em và bản thân em học tập mỗi
ngày một thêm tiến bộ.
Bài 3:
Trong sự nghiệp xậy dựng đất nước công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ngày nay,
xã hội ngày một phát triển. Sự hiểu biết, trình độ khả năng chuyên môn là đòi hỏi không thể thiếu
của mỗi người. Tuy nhiên nhiều bạn trẻ hiện nay quá chú trọng vào việc học lý thuyết ở trường mà
đôi khi quên mất phải thực hành - một điều hết sức quan trọng. Mối quan hệ giữa học và hành một
lần nữa được nhấn mạnh qua câu:
“Học đi đôi với hành”.
Học là sự hiểu biết, là vốn kiến thức của mỗi con người. Con người có học là con người biết
suy nghĩ, có nhận thức, có sự hiểu biết. Hành là thực hành, thực hiện, vận dụng những lý thuyết đã
học bằng việc làm thực tế. Học kết hợp với hành không phải là vừa học vừa làm. Cho giả dụ, nếu
bạn vừa ngồi ăn cơm hay rữa chén vừa học bài thì thử hỏi bạn có thuộc nỗi không? Sự kết hợp ta nói
đến ở đây là việc thực hiện những lý thuyết đã học nhầm hiểu rõ, nắm vững những vấn đề mà phần
lý thuyết đó đề cặp đến để có thể vận dụng chúng một nhanh chóng, chính xác trong thực tế sau này.
Như khi ta học lý thuyết môn toán Lượng giác ở trường, ta thực hành những lý thuyết đó bằng cách
làm thật nhiều bài tập để có thể nắm vững những lý thuyết ấy.
Nói chung phương châm “học đi đôi với hành” là hoàn toàn chính xác. Nếu không kết hợp
học với hành thì không thể đạt được hiệu suất cao trong công việc được. Bởi trong công việc cái
người ta cần, quan tâm hàng đầu là sản phẩm-thành quả lao động chứ không phải là hiểu biết trên lý
thuyết, một khi không đạt được chỉ tiêu đó thì dẫu cho có thành tích học tập tốt đến đâu thì ta cũng

sẽ nhanh chóng bị xã hội đào thải, trỡ thành một kẻ thất bại đáng thương hại. Một kiến trúc sư đã tốt
nghiệp ở truờng đại học danh tiếng với thành tích học tập rất xuầt sắc, vậy mà căn nhà do anh ta
thiết kế ra lại không có chút thẳm mĩ, chất lượng ngôi nhà thì chỉ thuộc loại soàn soàn mà thôi. Một
học sinh học tập rất tốt, điểm môn Công dân luôn cao, vậy mà khi ra đường trong thấy một bà lão ăn
xin té ngã trên đường, không những không giúp đỡ mà ngược lại còn tỏ thái độ coi thường ghê tởm
bà ấy, thiếu thực hành về mặt học vấn thì còn bù đấp lại chứ thiếu thực hành ở mặt đạo đức thì thật
không thể chấp nhận. Một ngôi nhà không hoàn hảo thì còn có thể tạm sử dụng hoặc xây dựng lại,
còn một con người có đạo đức suy thoái thì chỉ là đồ vô dụng. Một khi gạo đã nấu thành cơm, dù có
chỉnh sửa nữa thì cái ác tâm trong đầu cũng chẳng thể nào mất đi được chỉ có nước đầu thai kiếp
khác mới có thể sống tốt được, nếu không thì chỉ có thể làm hại người, xấu hổ đất nước mà thôi.
Những ví dụ trên đã cho ta thấy phần nào tác hại của việc học không đi đôi với hành. Ngược lại, nếu
bạn kết hợp tốt học với hành thì bạn sẽ đạt được nhìêu thành tựu.
Không phải chỉ trong thời đại ngày nay mới cần phải kết hợp học với hành. Từ ngàn xưa,
phương châm học kết hợp với hành đã được áp dụng không ít. Tuy nhiên, Kiến thức của nhân loại
vô cùng phong phú, khoa học kĩ thuật ngày càng cao, nếu không học tập sẽ bị lạc hậu, không phù
hợp với những cái mới lạ của thế giới. Mà muốn đạt kết quả cao nhất trong việc học, sự kết giữa hợp
học với hành là điều không thể thiếu. Trong thời đại ngày nay, xã hội ngày một phát triển, đất nước
ngày một hội nhập với thế giới, phương châm kết hợp học với hành trở nên cấp thiết hơn bao giờ
hết.
Là người học sinh, trong thời gian học tập ở nhà trường,chúng ta cần phải chăm chỉ học tập
kết hợp đi đôi với hành. Học bao gồm cả văn hoá, chữ nghĩa và khinh nghiệm của cuộc sống để
nâng cao trình độ văn hoá, tiếp thu công KH và CN hiện đại nâng cao về nhận thức, về chính trị xạ
hội. Tích cực lao động cần cù sáng tạo. Sẵn sàng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. Và sau này,
khi bước vào đời thì phải tiếp tục nâng cao trình độ hiểu biết, nâng cao chuyên môn để làm việc có
hiệu quả hơn.
Tóm lại, câu phương châm trên nêu rõ tầm quan trọng của sự kết hợp giữa học và hành. Thực


hiện phương châm này đúng cách ta sẽ đạt hiệu quả cao trong học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
nghiệp sao này, đồng thời góp phần tích cực vào việc xây dựng một đất nước phồn vinh tiến bộ.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×