QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH
ĐỀ TÀI: TIỀN MẶT
I.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN MẶT
1. Khái niệm tiền mặt:
Các nhà kinh tế định nghĩa tiền là bất cứ phương tiện nào được
thừa nhận chung để thanh toán cho việc mua bán, trao đổi hàng hoá
dịch vụ hoặc thanh toán nợ nần.
Trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, tiền mặt được hiểu bao
gồm tiền tồn quỹ và tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở
ngân hàng.
Tiền mặt là một thành phần quan trọng trong tài sản lưu động.
Tiền mặt = Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu + Nợ ngắn hạn - Tài sản
lưu động khác ngoài tiền mặt - Tài sản cố định.
2. Động cơ nắm giữ tiền mặt:
Lý do nắm giữ tiền mặt Đối với một doanh nghiệp, có ba động cơ
để doanh nghiệp nắm giữ tiền mặt là:
Động cơ hoạt động, giao dịch: mức tồn quỹ tiền mặt được hoạch
định để đáp ứng kịp thời các khoản chi tiêu phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Động cơ dự trữ: là một hành động dự phòng trước khả năng gia
tăng nhu cầu chi tiêu do tăng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh
hoặc nhanh chóng đáp ứng những cơ hội kinh doanh đột xuất.
Động cơ đầu cơ: là một phản ứng trước sự khan hiếm, biến động
giá cả hàng hoá nguyên vật liệu hoặc sự biến động về tỷ giá hối đoái
trên thị trường.
3. Mục tiêu của quản trị tiền mặt:
Mục tiêu của quản lý tiền mặt là phải đảm bảo cho việc tăng đầu tư
lượng tiền mặt nhàn rỗi nhằm thu lợi nhuận trong khi vẫn duy trì mức
thanh khoản hợp lý để đáp ứng các nhu cầu trong tương lai.
lập kế hoạch khi nào thì có tiền nhàn rỗi có thể dành cho đầu tư và
khi nào thì cần vay thêm tiền.
4. Nội dung quản lý tiền mặt của doanh nghiệp:
• Tăng tốc độ thu hồi tiền mặt
• Giảm tốc độ chi tiêu
• Hoạch định ngân sách đầu tư
•
II.
TĂNG TỐC ĐỘ THU HỒI TIỀN MẶT
III.
Thiết lập mức tồn quỹ tiền mặt
Mục tiêu của việc gia tăng tốc độ thu hồi tiền mặt là nhanh chóng
thu hồi tiền để đưa vào đầu tư, chi tiêu càng sớm càng tốt, những
hoạt động này đem lại những khoản lợi nhuận cho doanh nghiệp
Các phương pháp tang tốc độ thu hồi tiền mặt
Đem lại cho khách hàng những mối lợi để khuyến khích họ sớm
trả nợ, bằng cách áp dụng chính sách chiếc khấu đối với những
khoảng nợ được thanh toán trước hay đúng hạn. Doanh nghiệp cần
áp dụng nhiều biện pháp để đảm bảo rằng một khi khoản nợ được
thanh toán thì tiền được đưa vào đầu tư càng nhanh càng tốt
Doanh nghiệp có thể sử dụng hệ thống ngân hàng. Thông qua ngân
hàng, doanh nghiệp thanh toán các hóa đơn mua hàng hoặc đầu tư
vào các loại chính khoán thanh khoảng cao trên tài khoảng thanh
toán của họ. Lợi thế của hệ thồng ngân hàng là tiền có thể chuyển
đi rất nhanh bên trong hệ thống, cho phép doanh nghiệp sử dụng
tiền một cách nhanh chóng một khi đã có tiền trong tài khoản.
Hệ thống hợp thư chuyển – phát tiền nhanh có thể thu hồi tiền của
doanh nghiệp được nhanh hơn
GIẢM TỐC ĐỘ CHI TIÊU
− thay vì dung tiền thanh toán sớm các hóa đơn mua hàng, nhà quản trị
tài chính nên trì hoãn việc thanh toán, nhưng chỉ nằm trong khoảng thời gian
IV.
mà các chi phí tài chính, tiền phạt hay sự xói mòn vị thế tín dụng thấp hơn
những lợi nhuận do việc chậm thanh toán đem lại. Có một số chiến thuật mà
các doanh nghiệp có thể sử dụng để chậm thanh toán các hóa đơn mua hàng.
Hai chiến thuật nổi tiếng thường được sử dụng là: tận dụng sự chênh lệch
thời gian của các khoản thu, chi và chậm trả lương.
HOẠCH ĐỊNH NGÂN SÁCH TIỀN MẶT
Là kế hoạch dung để xã định nhu cầu chi tiêu và nguồn thu tiền
mặt. kế hoạch này thường được xây đựng dựa trên cơ sở thời gian(từng
năm, từng tháng, từng tuần,…).
Nội dung chủ yếu của bảng hoạch định ngân sách tiền mặt là lập
bảng dự toán thu chi ngắn hạn. Bảng này gồm 2 phần chính:
• Phần thu: bao gồm các khoản tiền thu do bán hàng, tiền thu hồi nợ,
tiền nhượng bán tài sản,…
• Phần chi: bao gồm chi cho chi phí khi doanh như mua nguyên vật
liệu, chi trả lương, tiền thưởng, tiền bảo hiểm, nộp thuế; chi cho
đầu tư dài hạn như thanh toán tiền mua tài sản cố định, hoàn trả nợ
vay,…
Tronh mỗi kì kết hoạch, sau khi liệt kê các khoản thu chi, cần tiến hành
so sánh mức bội thu hoặc bội chi để tìm ra biện pháp để bảng ngâ sách
được cân bằng theo hướng tích cực.
Nếu thấy bội thu thì có thể tính đến việc trả nợ bớt các khoản nợ,
các khoản vay, khoản nộp cho ngân sách, hoặc dung số tiền bội thu
đầu tư vào những công việc mang lại doanh lợi cho doanh ngiệp.
Nếu thấy bội chi thì có thể tìm biện pháp tang tốc dộ thu hồi công
nợ, đẩy mạnh bán ra, vay them ngân hàng hoặc có thể giảm các
khoản chi (nếu được)
Dự báo ngân sách tiền mặt
.
Trung
Phương pháp lịch thu chi
:
chỉ có các khoản trực thuhạn
va
trực chi mới được ghi nhận.
Ngân sách ròng sẽ bằng
tổng ngân sách lưu vao trư
đi tổng ngân sách lưu ra.
Phương pháp điều chỉnh kế
dài
toán thực tế phát sinh :
doanh thu va chi phí được
ghi nhận khi chúng thực tế
phát sinh , lợi nhuận bằng
doanh thu trư chi phí . Bước
tiếp theo la điều chỉnh lợi
Ngắn
hạn
V.
THIẾT LẬP MỨC TỒN QUỸ TIỀN MẶT
VI.
Là thiết lặp mức tồn quỹ để lại ở công ty bao nhiêu là hợp lý. Nói đến
việc tồn quỹ, công ty cần xem xét sự đánh đổi giữa giữa chi phí cơ hội do
giữ quá nhiều và chi phí giao dịch do giữ tiền mặt quá ít.
• Chi phí cơ hội là chi phí mất đi do giữ tiền mặt, khiến cho tiền
không được đầu tư vào mục đích sinh lời.
• Chi phí giao dịch là chi phí liên quan đến chuyển đổi tài sản đầu tư
thành tiền mặt sẵn sàng cho chi tiêu
Hoạch định ngân quỹ:
Hoạch định ngân quỹ là một phần của sơ đồ kiểm soát-thực hiện-hoạch địnhdự báo của hệ thống quản lí thông tin. Đây là cơ sở cho các kế hoạch tài chính
hoặc kế hoạch khác. Nếu có bất kì sự khác nhau nghiêm trọng nào mô hình dự
báo và các thủ tục cần được chỉnh sửa.
Phần lớn một bảng hoạch định ngân quỹ thường nói đến nhiều vấn đề như:
+thu thập các khoản phải thu đối với hàng hoá hoặc dịch vụ đã bán;
+các khoản phải trả đối với lao động, nguyên vật liệu; nguồn cung cấp cho việc
sản xuất sản phẩm của công ty;
+kế hoạch đầu ra sản phẩm;
+các chi phí khác.
Khi giá trị thực tế khác xa so với giá trị hoạch định, một CFO nên yêu cầu các
bộ phận mắc lỗi đưa ra hành động khắc phục càng sớm càng tốt.
Các nhân tố chính của bảng hoạch định ngân quỹ có thể được tổ chức trong mô
hình theo các tổ chức hoặc chức năng của chúng:
+Một mô hình chỉ bao gồm các thông tin tiếp thị thị trường như dự báo doanh
thu về nhu cầu của khách hàng.
+Một mô hình khác bao gồm tổ chức sản xuất hoặc hoạt động của công ty và
chỉ ra đơn vị sản phẩm đầu ra của mỗi thời kì và dòng sản phẩm ra vào nhà kho
hoặc việc nắm giữ tài sản khác.
+Mô hình thứ ba bao gồm báo cáo và quản lí tài chính về dòng ngân quỹ vào,
ra.
Các phương pháp hoạch định:
+Tăng tốc độ thu hồi tiền mặt
+Giảm tốc độ chi tiêu
Khi doanh nghiệp thu được tiền mặt, cũng đồng nghĩa với việc kết thúc một
chu kỳ kinh doanh.
=>Có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp:
+Giúp doanh nghiệp giảm thiểu số lượng vốn chiếm dụng.
+Tạo điều kiện thuận thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện các giao dịch
thường xuyên cũng như dễ dàng thực hiện đầu tư.
*Các biện pháp làm tăng tốc độ thu hồi tiền mặt:
+Áp dụng các biện pháp khuyến khích như thanh toán sớm bằng cách đưa lại
cho khách hàng các mối lợi như áp dụng chính sách chiết khấu đối với các
khoản nợ được thanh toán trước hay đúng hạn.
+Áp dụng các phương pháp thanh toán phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
+Lựa chọn các phương tiện chuyển tiền và địa điểm thanh toán phù hợp.
+Tổ chức công tác đôn đốc thu hồi công nợ.
Ý nghĩa của việc giảm tốc độ chi tiêu:
+Sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.
+Tăng khả năng sử dụng vốn đầu tư nhằm mục đích sinh lời.
*Các biện pháp làm giảm tốc độ chi tiêu:
+Tận dụng tối đa thời gian chậm thanh toán trong thời gian cho phép.
+Lựa chọn phương thức, phương tiện, địa điểm thanh toán phù hợp.
+Thay vì dùng tiền thanh toán sớm các hóa đơn mua hàng , người quản trị tài
chính có thể trì hoãn thanh toán trong phạm vi thời gian mà các chi phí tài chính
, tiền phạt hay suy giảm vị thế tín dụng của doanh nghiệp thấp hơn những lợi
ích mà việc thanh toán chậm mang lại.
VII.
Mô hình quản trị tiền mặt
Ở đây, khi đề cập đến quản trị tiền mặt nghĩa là nói đến việc quản trị tiền và các
khoản tương đương tiền, bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và các loại
chứng từ có giá ngắn hạn.
Các loại chứng từ có giá ngắn hạn nhất là các chứng khoán có khả năng thanh
khoản cao đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý tồn quỹ tiền mặt:
o
o
Quỹ tiền mặt dư so với tồn quỹ mục tiêu: có thể đầu tư dễ dàng vào
các loại chứng khoán.
Quỹ tiền mặt thiếu so với tồn quỹ mục tiêu: Có thể nhanh chóng bán
chứng khoán để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cần thiết.
Hình 1: Chứng khoán có tính thanh khoản cao đóng vai trò cần bằng
tồn quỹ tiền mặt.
Chứng khoán có tính thanh khoản cao
Bán chứng khoán bù đắp tiền thiếu hụt
Đầu tư tiền nhàn rỗi
Thu tiền mặt
Tiền mặt
Chi tiền mặt
Vậy, các mô hình quản lý tồn quỹ nhắm đến mục tiêu là quyết định tồn quỹ
mục tiêu – liên quan đến việc đánh đổi giữa chi phí cơ hội và chi phí giao dịch.
Tổng chi phí giữ tiền mặt là tổng chi phí cơ hội và chi phí giao dịch.
Hình 2: Mối quan hệ giữa chi phí giữ tiền mặt và tồn quỹ tiền mặt.
Chi phí giữ
tiền mặt
Tổng chi phí giữ tiền mặt
Chi phí cơ hội
Chi phí giao dịch
C*
Quy mô tiền mặt
* Tổng chi phí giữ tiền mặt:
−
−
Chi phí cơ hội là chi phí mất đi do giữ tiền mặt khiến bỏ lỡ cơ hội đầu tư tiền
vào mục đích sinh lợi.
Chi phí giao dịch là chi phí liên quan đến chuyển đổi từ tài sản đầu tư ngắn
hạn thành tiền mặt.
Nếu doanh nghiệp giữ quá nhiều tiền mặt thì chi phí giao dịch sẽ thấp nhưng
ngược lại chi phí cơ hội sẽ cao.
Mô hình trên, tổng chi phí giữ tiền mặt thấp nhất khi chi phí giao dịch bằng chi
phí cơ hội và C* chính là lượng tiền mặt dự trữ tối ưu.
Ngoài việc bán các loại chứng khoán có tính thanh khoản cao để bù đặp tiền
mặt thiếu hụt, người ta có thể sử dụng cách khác là vay ngắn hạn ngân hàng. Tuy
nhiên, khi sử dụng phương cách này cần lưu ý:
Nhu cầu vay phụ thuộc vào lượng tiền mặt thiếu hụt và mức tồn quỹ tiền mặt
tối thiểu.
− Chi phí vay ngân hàng thường cao hơn so với chi phí giao dịch bán chứng
khoán.
− Chi phí cơ hội khi giữ tiền mặt thường cao hơn so với chi phí giao dịch mua
bán chứng khoán.
VIII.
Mô hình Baumol (Mô hình EOQ trong quản trị tiền mặt)
−
Có sự giống nhau giữa mô hình quản trị tiền mặt và mô hình quản trị hàng tồn
kho. Về hình thức vốn bằng tiền cũng giống như hàng tồn kho vì cả hai đều là tài
sản dự trữ cho sản xuất kinh doanh.
−
−
Khi vốn bằng tiền xuống thấp, doanh nghiệp sẽ bán chứng khoán để thu tiền
về, từ đó doanh nghiệp sẽ tốn chi phí giao dịch cố định cho mỗi lần bán
chứng khoán. Hoặc nếu doanh nghiệp đi vay thì sẽ tốn chi phí giao dịch cho
mỗi lần đi vay. Chi phí này cũng có tính chất tương tự như chi phí đặt hàng
trong quản trị tồn kho.
Khi dự trữ vồn bằng tiền, doanh nghiệp sẽ mất cơ hội phí – tức là lãi suất
được hưởng khi đầu tư chứng khoán hay gửi tiết kiệm, chi phí này tương
đương với chi phí tồn trữ hàng tồn kho trong quản trị hàng tồn kho.
Mô hình Baumol dựa trên những giả thuyết sau:
Tình hình thu, chi tiền ổn định và đều đặn.
Không tính đến tiền thu trong kỳ hoạch định.
Không có dự trữ tiền cho mục đích an toàn.
Tỷ lệ bù đắp tiền mặt không đổi.
Với:
−
−
−
−
T: Tổng lượng tiền cần thiết trong kỳ.
F: Chi phí cố định cho mỗi lần huy động vốn (bán chứng khoán, vay
nợ,…)
i: Lãi suất tiền gửi (chứng khoán).
C: Quy mô tiền mặt dự trự.
Ta có:
−
−
−
Chi phí cơ hội, khi giữ tiền mặt: x i
Chi phí giao dịch: x F
Tổng chi phí giữ tiền mặt: TC = x i + x F
Muốn xác định lượng tiền dự trữ tối ưu thì tổng chi phí giữ tiền mặt (TC) phải
thấp nhất, hay:
xi= xF
Lượng tiền dự trữ tối ưu: C =
*Hạn chế của mô hình Baumol
Mô hình này đã đóng góp quan trọng cho lý thuyết quản trị tiền mặt, tuy nhiên,
do những giả định không thực tế nên khi ứng dụng mô hình Baumol cần xem xét
kỹ.
−
−
IX.
Mức chi tiêu trong thực tế không ổn định như giả thuyết của mô hình.
Việc chuyển đổi chứng khoán ngắn hạn (hay vay ngắn hạn) trong thực tế
không thể thực hiện nhanh chóng như tính toán của mô hình.
Mô hình Mill-Orr
Thông thường, tiền trong doanh nghiệp vận động không theo một quy luật nhất
định nào. Do vậy, nếu sử dụng mô hình quản trị tiền mặt ở trên sẽ không phản ánh
đúng, do đó khó quản lý tốt vốn bằng tiền trong doanh nghiệp.
Merton Miller và Daniel Orr đã phát triển một mô hình để xử lý những dòng
tiền thu, chi biến động bất thường hàng ngày như sau:
Mô hình giả định các dòng tiền thuần hàng ngày (số dư vốn bằng tiền, tính bằng
dòng thu trừ (-) dòng chi ) phân bố theo phân phối chuẩn. Mỗi ngày, dòng tiền
thuần có thể diễn biến tới mức giá trị cao nhất hoặc thấp nhất. Chúng ta giả định
rằng dòng tiền thuần kỳ vọng là bằng không (0), vì ở mức đó doanh nghiệp có đủ
tiền trang trải cho các khoản chi, ta gọi là mức cân bằng vốn bằng tiền.
Hình 3: Mô hình Mill-Orr
Qua hình trên cho thấy vốn bằng tiền vận động không theo quy luật cho đến khi
chạm tới giới hạn trên. Tại điểm này, doanh nghiệp sẽ dùng tiền mua chứng khoán
một lượng bằng (H – Z) đơn vị tiền tệ nhằm làm giảm số dư vốn bằng tiền thực tế
gần với mục tiêu.
Khi vốn bằng tiền vận động xuống tới mức giới hạn dưới, doanh nghiệp bán ra
một lượng chứng khoán cần thiết là (Z – L) đơn vị tiền để đưa số dư vốn bằng tiền
lên mức mục tiêu.
Như thế, quy luật là cho phép mức vốn bằng tiên lưu giữ dao động một cách tự
do cho đến khi đạt tới mức giới hạn (trên hoặc dưới), khi đó doanh nghiệp mới can
thiệp bằng cách mua hoặc bán một lượng chứng khoán vừa đủ để tái lập mức số dư
vốn dưới như sau:
d=3x
Trong đó:
: Phương sai thu chi ngân quỹ mỗi ngày.
: Lãi suất (chi phí cơ hội) bình quân một ngày.
Như vậy, mức dự trữ vốn bằng tiền mục tiêu tối ưu sẽ là:
Z* = L + = L +
Giới hạn dưới là mức dự trữ vốn bằng tiền tối thiểu, do doanh nghiệp đặt
ra: L
Mức giới hạn trên là: H = L +d = 3Z* -2L
Số dư vốn bằng tiền cân bằng bình quân trong mô hình:
CA =
*Để sử dụng được mô hình này, cần:
−
−
−
−
X.
Thiết lập giới hạn dưới cho dòng tiền thuần. Giới hạn này liên quan đến mức
độ an toàn chi tiêu nên thường do ban giám đốc quyết định.
Ước lượng độ lệch chuẩn của dòng tiền thu chi hàng ngày.
Quyết định mức lãi suất để xác định chi phí giao dịch hàng ngày.
Ước lượng chi phí giao dịch liên quan đến việc mua bán chứng khoán ngắn
hạn.
Quản trị thu chi tiền mặt:
Hiện nay, việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng trở nên rất phổ biến, và đây
cũng là một trong những biện pháp đẩy nhanh tốc độ thu tiền, tất nhiên, kể từ khi
khách hàng thanh toán tiền cho đến khi doanh nghiệp nhận được tiền cũng mất một
khoảng thời gian nhất định gọi là thời gian chuyển tiền, tiền trong thời gian này
được gọi là tiền đang chuyển do thu. Ngược lại, trong trường hợp doanh nghiệp
thanh toán tiền cho chủ nợ thì tiền trong thời gian chuyển tiền được gọi là tiền
đang chuyển cho chi. Trên báo cáo kế toán của doanh nghiệp và trên cùng sổ sách
của ngân hàng theo dõi tài khoản doanh nghiệp tại cùng thời điểm vẫn có chênh
lệch do các khoản tiền đang chuyển nói trên.
Doanh nghiệp có thể mở nhiều tài khoản tại các ngân hàng khác nhau, nên khi
nhận thanh toán qua ngân hàng, người ta thường lựa chọn và yếu cầu chuyển
khoản vào tài khoản nào ở cùng hệ thống ngân hàng với tài khoản của khách hàng,
nhằm giảm thiệu thời gian chuyển tiền và phí chuyển tiền.
XI.
Quản trị tiền mặt quốc tế:
Phần trên, chúng ta chỉ mới đề cập đến quản trị tiền mặt trong một doanh
nghiệp với các giả thiết về mối quan hệ đơn giản, nhưng nếu chúng ta xem xét việc
quản trị tiền mặt của một công ty đa quốc gia với hệ thống các công ty con trên
khắp thế giới, thì công việc quản trị sẽ phức tạp hơn rất nhiều.
Thứ nhất, mỗi công ty con đặt ở các quốc gia khác nhau, sử dụng đồng tiền
khác nhau, nên chắc chắn rằng để quản trị tiền mặt của công ty đa quốc gia rào cản
đầu tiên gây khó khăn là tỷ giá hối đoái.
Thứ hai, quy định pháp luật của các quốc gia hoàn toàn khác nhau, ngoại trừ
những điều khoản liên quan mật thiết đến các thông lệ quốc tế.
Hình 4: Mối quan hệ tài chính trong công ty đa quốc gia
Công ty con 1
Công ty con n
Công ty con 2
Công ty con 3
Công ty mẹ
Trong các mối quan hệ tài chính, ở đây chúng ta chỉ đề cập đến mối quan hệ về
dòng tiền giữa các thành viên của công ty đa quốc gia.
−
Công ty con: Bên cạnh các thuận lợi mà chỉ công ty đa quốc gia mới có
được thì công ty này cũng chịu những khó khăn nhất định do sự thay đổi tỷ
giá đem lại. Tác động trực tiếp của tỷ giá hối đoái khiến cho dự đoán về chi
phí thanh toán và thu nhập tín dụng trở nên khó khăn, khó chính xác hơn.
Hàng hóa xuất nhập khẩu còn bị hạn chế bởi các quy định của nước sở tại,
do vậy, các công ty này cần lượng vốn lưu động nhiều hơn (tồn tại trong tồn
kho, tiền mặt, phải thu,…).
Vậy, quản trị tiền mặt tại công ty con cần gia tăng dòng tiền thu để bù trừ dòng
chi tiêu do vốn lưu động lớn, chú ý cần tập trung quản lý dòng tiền thu chứ không
chỉ là tập trung vào doanh số. Có thể sử dụng phương pháp nới lỏng tiêu chuẩn tín
dụng, quản lý tốt khoản phải thu để đảm bảo dòng tiền vào.
Như vậy, dòng tiền mà công ty con nộp về cho công ty mẹ phụ thuộc vào: sử
dụng tiền mặt cho nhu cầu thanh toán của công ty con, biến động của đồng tiền sử
dụng tại công ty con (đồng tiền nước sở tại) và quy định của chính phủ.
−
Công ty mẹ: Để đảm bảo có thể quản lý đáp ứng nhu cầu theo dõi dòng tiền
giữa công ty mẹ với các công ty con và các công ty con với nhau, cần phải
có một bộ phận chuyên trách quản lý dòng tiền tập trung. Đây chính là việc
quản lý tiền mặt quốc tế, nhiệm vụ chính là tối ưu hóa dòng tiền.
Dòng tiền giữa công ty mẹ và các công ty con có thể gồm: chuyển vốn đầu tư,
cho vay, trả và chuyển lợi nhuận… Dòng tiên giữa các công ty con chủ yếu là mua
bán hàng hóa dịch vụ lẫn nhau.
Để quản lý tiền mặt tập trung, trên thế giới người ta sử dụng phương pháp
netting nhằm tối ưu hóa dòng tiền dựa trên việc làm giảm thiểu chi phí chuyển đổi
tiền tệ, bao gồm: giảm chi phí hành chính và chi phí giao dịch khi phát sinh việc
thanh toán giữa các công ty đặt ở những quốc gia khác nhau. Với phương pháp
này, người ta sẽ thanh toán mức thanh toán ròng dựa trên việc tổng hợp tất cả các
giao dịch phát sinh, nó làm giảm bớt các giao dịch quốc tế nên chi phí giao dịch
giảm, và giảm chi phí hành chính không cần thiết do chuyển đổi tiền mặt, chuyển
đổi ngoại tệ, quan trọng hơn nữa, khi áp dụng phương pháp này giúp công ty mẹ
kiểm soát chặt chẽ hơn thông tin giao dịch của các công ty con, do các công ty phải
báo cáo nhanh chóng và kịp thời các khoản thanh toán cho nhau. Ngay cả việc
hoạch định dòng tiền cũng dễ dàng hơn, do việc chuyển giao tiền mặt ròng chỉ xảy
ra tại những thời điểm cuối kỳ cụ thể thay vì phải thực hiện trong suốt các kỳ, nên
nó giúp công ty hoạch định và ra quyết định đầu tư và tài trợ hiệu quả và chính xác
hơn.