Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giá trị pháp lý của văn bản công chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.01 KB, 10 trang )

Giá trị pháp lý của văn bản công chứng
Đỗ Đức Hiển
Khoa Luật
Luận văn ThS Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số 60 38 01 03
Người hướng dẫn: PGS TS. Nguyễn Minh Mẫn
Năm bảo vệ: 2013

Abstract. Làm rõ và có hệ thống hơn cơ sở lý luận về giá trị pháp lý của văn bản công
chứng. Phân tích nội dung, đánh giá thực trạng pháp luật về giá trị pháp lý của văn bản
công chứng, những bất cập, hạn chế, nhất là trong việc áp dụng pháp luật trên thực tế
còn nhiều vướng mắc, chưa phù hợp. Đưa ra những luận cứ khoa học, giải pháp mang
tính trước mắt và lâu dài, cũng như hướng sửa đổi các quy định của pháp luật để hoàn
thiện pháp luật về giá trị pháp lý của văn bản công chứng: Nâng cao nhận thức về
công chứng; Hoàn thiện quy định của Luật Công chứng về giá trị văn bản công chứng;
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm giá trị thi hành của văn bản công chứng ...
Keywords. Văn bản công chứng; Công chứng; Pháp luật Việt Nam; Giá trị pháp lý.

Content
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại luôn có xu
hướng gia tăng cả về số lượng và tính phức tạp. Cùng với đó, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, nguy cơ xảy ra tranh chấp trong các giao dịch này cũng ngày một gia tăng. Khi đã xảy
ra tranh chấp, một loạt các vấn đề phát sinh mà hậu quả của nó chính là việc làm mất thời
gian, chi phí, gây tổn hại đến uy tín, danh dự của tổ chức cá nhân tham gia giao kết, đồng thời
gây mất ổn định trong xã hội. Chính vì thế, nhu cầu hình thành và phát triển một thiết chế


pháp luật tích cực để có thể phòng ngừa, ngăn chặn tranh chấp phát sinh trong giao lưu dân


sự, kinh tế và thương mại như đã nêu trên là một đòi hỏi khách quan.
Ở nhiều nước trên thế giới, nhất là những nước theo hệ thống dân luật, từ lâu đã tồn
tại một thiết chế pháp luật cho phép phòng ngừa các tranh chấp một cách tích cực, chủ động
và hiệu quả. Đó là thiết chế công chứng. Với chức năng tham gia vào quá trình thỏa thuận,
giao kết các hợp đồng, giao dịch, công chứng viên có trách nhiệm giúp các bên tham gia giao
kết thể hiện ý chí của mình một cách vô tư, khách quan, đúng pháp luật, giải quyết các xung
đột về mặt lợi ích giữa các chủ thể này, qua đó loại bỏ những nguyên nhân gây ra tranh chấp.
Việc tham gia vào quá trình giao kết hợp đồng của công chứng viên như đã nêu trên
có thể được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau nhưng kết quả cuối cùng của quá
trình đó được thể hiện dưới một hình thức chung nhất là những hợp đồng, giao dịch đã được
công chứng hay còn gọi là văn bản công chứng.
Tùy theo truyền thống pháp lý và điều kiện thực tế của mỗi quốc gia, văn bản công
chứng được thể hiện theo những kết cấu và nội dung khác nhau; được pháp luật thừa nhận với
những giá trị pháp lý cũng tương đối đa dạng. Nhưng nhìn chung, việc quy định về văn bản
công chứng và xác định giá trị pháp lý của loại văn bản này luôn được coi là một trong những
vấn đề mang tính cốt lõi trong pháp luật về công chứng, bởi trước hết nó quyết định lý do tồn
tại của chính thiết chế công chứng trong đời sống xã hội, pháp lý của mỗi nước và sau đó là
quyết định các vấn đề khác có liên quan như trình tự, thủ tục công chứng, tiêu chuẩn, trình độ
công chứng viên...
Ở nước ta, mặc dù có thời gian hình thành và phát triển chưa dài nhưng có thể thấy
được vai trò của thiết chế công chứng được thể hiện ở nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Cùng với
việc hoàn thiện pháp luật về công chứng, các quy định của pháp luật về giá trị pháp lý của văn
bản công chứng cũng từng bước được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp. Nếu như tại Nghị
định số 45/HĐBT ngày 7/2/1991 (văn bản pháp lý đầu tiên quy định về công chứng) mới chỉ
quy định "các hợp đồng và giấy tờ được công chứng có giá trị chứng cứ" thì đến Luật Công
chứng năm 2006, các quy định về văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công
chứng đã được quy định một cách tương đối khái quát, rõ ràng và đầy đủ hơn, với hai giá trị
cơ bản đó là giá trị chứng cứ và hiệu lực thi hành. Có thể nói, với quy định này, Luật Công
chứng đã đi tiếp một bước trong việc đưa công chứng nước ta tiến gần hơn với thông lệ của



công chứng Latinh trên thế giới, thể hiện vai trò của công chứng với chức năng bảo đảm an
toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, đồng thời hạn
chế nhiều vụ kiện tại tòa án. Bên cạnh Luật Công chứng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành cũng có những quy định liên quan đến giá trị pháp lý của văn bản công chứng như
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở...
Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng
trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay còn chưa đầy đủ, mang tính hình thức, chưa
có cơ chế để thực hiện trên thực tế (nhất là vấn đề về hiệu lực thi hành). Bên cạnh đó, một số
quy định còn chưa rõ hoặc có nội dung chồng chéo, thậm chí vô hiệu hóa nhau dẫn đến tình
trạng nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân chưa nhận thức đúng, đầy đủ và thực sự tôn trọng.
Chính điều này cũng làm ảnh hưởng đến vị trí, vai trò của công chứng trong đời sống xã hội
nhất là trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính phục vụ việc xây dựng
nhà nước pháp quyền hiện nay. Do đó, việc nghiên cứu về giá trị pháp lý của văn bản công
chứng để từ đó làm cơ sở tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này cũng
như những quy định của các quy định của pháp luật có liên quan là một nhu cầu cấp thiết.
Thực tiễn công tác tại Bộ Tư pháp - cơ quan chịu trách nhiệm giúp Chính phủ quản lý nhà
nước về công chứng cũng là lý do giúp tác giả lựa chọn đề tài "Giá trị pháp lý của văn bản
công chứng" làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Với tư cách là một thiết chế bổ trợ tư pháp, tuy có thời gian hình thành và phát triển
chưa dài song với vai trò và những đóng góp quan trọng của công chứng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, thời gian qua đã có nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu về thiết chế
này như: "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng
ở Việt Nam", đề tài cấp Bộ, mã số 92-98-224, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, 1993; "Một
số vấn đề về công chứng giao dịch tài sản ở Việt Nam", Luận văn Thạc sĩ Luật học của Đỗ
Xuân Hòa; "Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta", Luận văn
Thạc sĩ Luật học của Trần Ngọc Nga; "Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định
phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta
hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của Đặng Văn Khanh; "Thẩm quyền của Ủy ban nhân



dân trong lĩnh vực thực hiện các việc công chứng", Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lê Thị
Thúy; "Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật
học của Dương Khánh; "Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ luật
học của Lê Thị Phương Hoa; "Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường theo mô
hình công chứng Latinh", Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Toàn; "Một số ý kiến về
đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan công chứng" của tác giả Lê Khả đăng trên báo
Pháp luật, ngày 18/2/2003; "Công chứng, chứng thực trong điều kiện cải cách hành chính và
cải cách tư pháp" của tác giả Trần Thất, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6/2004;
"Công chứng, chứng thực ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển" của tác giả
Phạm Văn Lợi, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2002...
Các công trình nghiên cứu nói trên ở những góc độ nhất định đều có sự tìm hiểu về
khái niệm, kết cấu văn bản công chứng, giá trị pháp lý của loại văn bản này..., đồng thời cũng
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định có liên quan. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu trên đây mới chỉ mang tính chất nghiên cứu các vấn đề chung, chưa đi sâu phân
tích về bản chất, đạo lý của việc quy định giá trị pháp lý của văn bản công chứng, cũng như
chưa đề xuất được cơ chế hữu hiệu để bảo đảm cho giá trị của văn bản công chứng trên thực
tế.
Với tinh thần nghiên cứu, học hỏi một cách nghiêm túc, kế thừa những quan điểm tư
tưởng tiến bộ của các công trình nghiên cứu trên, luận văn "Giá trị pháp lý của văn bản công
chứng" bên cạnh việc phân tích về mặt lý luận về công chứng, văn bản công chứng, giá trị
pháp lý của văn bản công chứng, luận văn đề cập sâu về thực trạng quy định của pháp luật của
loại văn bản này, về kinh nghiệm của một số nước trong việc hình thành cơ chế, phương thức
bảo đảm giá trị của loại văn bản này trên thực tế và những điểm tương đồng, khác biệt với hệ
thống công chứng của Việt Nam, qua đó mong muốn cung cấp thêm một cách nhìn toàn diện
hơn về giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong xu thế phát triển của loại hình dịch vụ
công này và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm đối với
giá trị của văn bản công chứng.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu



Đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn
bản công chứng, trong đó tập trung vào một số nội dung chủ yếu như: xác định rõ khái niệm
công chứng, văn bản công chứng; hình thức, yêu cầu về bố cục và những nội dung cơ bản của
văn bản công chứng; làm rõ nội hàm giá trị chứng cứ không phải chứng minh và hiệu lực thi
hành của văn bản công chứng; đề xuất quan điểm, định hướng nhằm tiếp tục hoàn thiện các
quy định của pháp luật về văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, đồng
thời xây dựng cơ chế bảo đảm các quy định của pháp luật về hiệu lực thi hành của văn bản
công chứng...
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật
trong nước, pháp luật nước ngoài (bao gồm cả những nước theo hệ thống dân luật và những
nước theo hệ thống thông luật) có liên quan đến công chứng, văn bản công chứng và giá trị
pháp lý của văn bản công chứng với tính chất của một văn bản xác thực (văn bản công). Tuy
chưa đi sâu chi tiết phân tích về pháp luật của nhiều quốc gia, nhưng với phạm vi nghiên cứu
mở rộng ngoài lãnh thổ quốc gia Việt Nam, luận văn đã khái quát một cách chung nhất về tình
hình pháp luật điều chỉnh cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về giá trị pháp lý của văn
bản công chứng ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng kết hợp hoặc riêng lẻ nhiều phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể như phương pháp so sánh, thống kê, tổng hợp và kỹ năng phân tích... qua đó
làm sáng tỏ các nội dung liên quan đến văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công
chứng và đưa ra những nhận định, kết luận có liên quan.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về công chứng, văn bản công chứng.
Chương 2: Giá trị pháp lý của văn bản công chứng và thực trạng pháp luật Việt Nam
về giá trị pháp lý của văn bản công chứng.



Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về giá trị
pháp lý của văn bản công chứng.

Reference
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10 về công tác công chứng nhà
nước, Hà Nội.

2.

Bộ Tư pháp (1987), Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10 về hướng dẫn thực hiện các
việc công chứng, Hà Nội.

3.

Bộ Tư pháp (1993), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt
động công chứng ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Mã số: 92-98-224, Hà Nội.

4.

Bộ Tư pháp (2001), Thông tư số 03/2001/TP-CC ngày 14/3 hướng dẫn thi hành Nghị
định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực, Hà
Nội.

5.


Bộ Tư pháp (2008), Thông tư số 03/2008/TP-CC ngày 25/8 hướng dẫn thi hành một số
điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ
sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng nhận chữ ký, Hà Nội.

6.

Bộ Tư pháp (2010), Tài liệu phục vụ Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện Luật Công chứng
và Nghị định 79/NĐ-CP, Hà Nội.

7.

Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật Công chứng và Nghị định số
79/2007/NĐ-CP của Chính phủ về chứng thực bản sao từ bản chính sổ gốc, cấp bản sao
từ sổ gốc và chứng thực chữ ký, Hà Nội.

8.

Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt
Nam dân chủ cộng hòa về ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ, Hà Nội.

9.

Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 85/SL của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ngày 29/02 ban hành thể lệ trước bạ về các việc mua bán, cho và đổi nhà cửa, ruộng đất.

10. Chính phủ (1996), Nghị định số 31/CP ngày 18/5 về tổ chức và hoạt động công chứng
nhà nước, Hà Nội.



11. Chính phủ (2000), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12 về công chứng, chứng thực,
Hà Nội.
12. Chính phủ (2001), Chỉ thị số 01/2001/CT-TTg ngày 05/3 của Thủ tướng Chính phủ về
việc triển khai thực hiện Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000, Hà Nội.
13. Chính phủ (2001), Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 30/10 quy định chi tiết thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
14. Chính phủ (2002), Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3 của Thủ tướng Chính phủ về việc
triển khai Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị, Hà Nội.
15. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai 2003, Hà Nội.
16. Chính phủ (2006), Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12 về giao dịch bảo đảm, Hà
Nội.
17. Chính phủ (2007), Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng nhận chữ ký, Hà Nội.
18. Chính phủ (2008), Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 14/01 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Công chứng, Hà Nội.
19. Chính

phủ

(2012),

Nghị

định

số

11/2012/NĐ-CP


ngày

22/02

về

sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, Hà
Nội.
20. Ngô Cường (2003), "Giá trị văn bản công chứng trong tố tụng của Tòa án", Hội thảo
khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính
ở Việt Nam, Bộ Tư pháp tổ chức, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/05 của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2010, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Lê Thị Phương Hoa (2005), Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
30. Hội đồng Bộ trưởng (1991), Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2 về tổ chức và hoạt động
công chứng nhà nước, Hà Nội.
31. Hội đồng Nhà nước (1990), Pháp lệnh Lãnh sự, Hà Nội.
32. Lê Khả (2003), "Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan công
chứng", Báo Pháp luật, ngày 18/02, tr. 3.
33. Đặng Văn Khanh (2000), Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi,
nội dung, hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện
nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
34. Đặng Văn Khanh (2003), "Mô hình dịch vụ công trong hoạt động công chứng trên địa
bàn thành phố Hà Nội, thực trạng và những vấn đề đặt ra", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ
chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam, Bộ Tư
pháp tổ chức, Hà Nội.
35. Dương Khánh (2002), Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay, Luận
án tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
36. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
37. Phạm Văn Lợi (2004), Công chứng, chứng thực ở Việt Nam, thực trạng và định hướng
phát triển", Dân chủ và pháp luật, (7), tr. 16-20.
38. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (1998), Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.


39. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2005), Tổ chức và hoạt động của ngành công chứng, của
Gerard Kaeufling, (Tài liệu dịch), Hà Nội.
40. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2006), Về công chứng, của Michel Cordier, (Tài liệu dịch),
Hà Nội.
41. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2006), Văn bản công chứng ở Pháp, của Jean Paul

DECORPS, (Tài liệu dịch), Hà Nội.
42. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2011), Nghề công chứng ở Campuchia đối chiếu kinh nghiệm
của các nước Pháp ngữ, của Neuve Socheata, Tài liệu Hội thảo khu vực - kinh nghiệm
các nước pháp ngữ về các nghề bổ trợ tư pháp, (Tài liệu dịch), Hà Nội.
43. Quốc hội (2000), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
44. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
45. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.
46. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
47. Quốc hội (2005), Luật Nhà ở, Hà Nội.
48. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
49. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội.
50. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
51. Quốc hội (2006), Luật Công chứng, Hà Nội.
52. Đinh Dũng Sỹ (2003), "Một số vấn đề về đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động
công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt Nam, Bộ Tư pháp tổ chức, Hà
Nội.
53. Tuấn Đạo Thanh (2012), Pháp luật công chứng, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
54. Trần Thất (2003), "Xã hội hóa hoạt động công chứng một số vấn đề lý luận và thực tiễn",
Hội thảo khoa học: Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành
chính ở Việt Nam, Bộ Tư pháp tổ chức, Hà Nội.
55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.


56. Nguyễn Văn Toàn (2004), Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường theo mô
hình công chứng Latinh, Luận văn thạc sĩ, bảo vệ tại Cộng hòa Pháp.
57. Văn phòng Chính phủ (2012), Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng về lộ trình thực thi phương án đơn giản hóa bãi bỏ yêu cầu bắt buộc công chứng

hợp đồng về nhà ở và quyền sử dụng đất, Hà Nội.
58. Viện châu Á - Thái Bình Dương, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1991), Trung Quốc
trên đường cải cách, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), "Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế
thị trường hướng theo mô hình công chứng Latinh", Thông tin Khoa học pháp lý, (Số
chuyên đề).
60. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1993), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây
dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam, Đề tài khoa học, mã số
92-98-224, Hà Nội.
61. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1998), "Pháp luật của một số nước
Đông Âu trong quá trình chuyển đổi cơ chế", Thông tin Khoa học pháp lý, (Số chuyên
đề).
62. Viện Ngôn ngữ học Việt Nam (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
63. Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
64. Vụ Hành chính tư pháp - Bộ Tư pháp (2005), Luật về công chứng của một số nước và
một số tài liệu tham khảo khác, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
65. Vụ Công tác lập pháp (2004), Những vấn đề cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
TIẾNG ANH
66. Tom Halliwell (2000), The Notary, a short history.



×