Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Giá trị pháp lý của văn bản công chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 102 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐỖ ĐỨC HIỂN






GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2013



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐỖ ĐỨC HIỂN






GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 60 38 01 03




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Minh Mẫn





HÀ NỘI - 2013


3




Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Đỗ Đức Hiển










4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG, VĂN
BẢN CÔNG CHỨNG

7
1.1.
Nguồn gốc, khái niệm và đặc điểm của công chứng
7
1.1.1.
Nguồn gốc và các hệ thống công chứng trên thế giới
7
1.1.2.
Khái niệm công chứng
15
1.1.3.
Đặc điểm công chứng
23
1.2.
Khái niệm và đặc điểm của văn bản công chứng
27
1.2.1.
Khái niệm văn bản công chứng
27
1.2.2.
Đặc điểm của văn bản công chứng
31

Chương 2: GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG VÀ
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG
38
2.1.
Một số vấn đề chung về giá trị pháp lý của văn bản công chứng
38

2.1.1.
Giá trị chứng cứ không phải chứng minh của văn bản công chứng
38
2.1.2.
Về giá trị thi hành của văn bản công chứng
43
2.2.
Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về giá trị
pháp lý của văn bản công chứng
46
2.2.1.
Về giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong các văn bản
pháp luật ở giai đoạn trước khi Luật Công chứng được ban hành
46
2.2.2.
Về giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong Luật Công
chứng và các văn bản có liên quan
50
2.3.
Một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn
bảo đảm giá trị pháp lý của bản công chứng
55
2.3.1.
Nhận thức về công chứng
55

5
2.3.2.
Về quy định pháp luật về giá trị pháp lý của văn bản công chứng
56

2.3.3.
Về cơ chế, thủ tục bảo đảm thực thi quy định về giá trị thi
hành của văn bản công chứng
61
2.3.4.
Về một số quy định pháp luật có liên quan tác động tới giá trị
pháp lý của văn bản công chứng
64

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA
VĂN BẢN CÔNG CHỨNG
73
3.1.
Định hướng chung
73
3.2.
Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giá trị văn bản công chứng
78
3.2.1.
Nâng cao nhận thức về công chứng
78
3.2.2.
Về hoàn thiện quy định của Luật Công chứng về giá trị văn
bản công chứng
80
3.2.3.
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm giá trị thi hành của
văn bản công chứng
83

3.2.4.
Về các vấn đề có liên quan, tác động đến giá trị pháp lý của
văn bản công chứng
85

KẾT LUẬN
90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
92




6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các giao dịch dân sự, kinh tế, thương
mại luôn có xu hướng gia tăng cả về số lượng và tính phức tạp. Cùng với đó,
do nhiều nguyên nhân khác nhau, nguy cơ xảy ra tranh chấp trong các giao
dịch này cũng ngày một gia tăng. Khi đã xảy ra tranh chấp, một loạt các vấn
đề phát sinh mà hậu quả của nó chính là việc làm mất thời gian, chi phí, gây
tổn hại đến uy tín, danh dự của tổ chức cá nhân tham gia giao kết, đồng thời
gây mất ổn định trong xã hội. Chính vì thế, nhu cầu hình thành và phát triển
một thiết chế pháp luật tích cực để có thể phòng ngừa, ngăn chặn tranh chấp
phát sinh trong giao lưu dân sự, kinh tế và thương mại như đã nêu trên là một
đòi hỏi khách quan.
Ở nhiều nước trên thế giới, nhất là những nước theo hệ thống dân luật,
từ lâu đã tồn tại một thiết chế pháp luật cho phép phòng ngừa các tranh chấp

một cách tích cực, chủ động và hiệu quả. Đó là thiết chế công chứng. Với
chức năng tham gia vào quá trình thỏa thuận, giao kết các hợp đồng, giao
dịch, công chứng viên có trách nhiệm giúp các bên tham gia giao kết thể hiện
ý chí của mình một cách vô tư, khách quan, đúng pháp luật, giải quyết các
xung đột về mặt lợi ích giữa các chủ thể này, qua đó loại bỏ những nguyên
nhân gây ra tranh chấp.
Việc tham gia vào quá trình giao kết hợp đồng của công chứng viên
như đã nêu trên có thể được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau
nhưng kết quả cuối cùng của quá trình đó được thể hiện dưới một hình thức
chung nhất là những hợp đồng, giao dịch đã được công chứng hay còn gọi là
văn bản công chứng.
Tùy theo truyền thống pháp lý và điều kiện thực tế của mỗi quốc gia,
văn bản công chứng được thể hiện theo những kết cấu và nội dung khác nhau;

7
được pháp luật thừa nhận với những giá trị pháp lý cũng tương đối đa dạng.
Nhưng nhìn chung, việc quy định về văn bản công chứng và xác định giá trị
pháp lý của loại văn bản này luôn được coi là một trong những vấn đề mang
tính cốt lõi trong pháp luật về công chứng, bởi trước hết nó quyết định lý do
tồn tại của chính thiết chế công chứng trong đời sống xã hội, pháp lý của mỗi
nước và sau đó là quyết định các vấn đề khác có liên quan như trình tự, thủ
tục công chứng, tiêu chuẩn, trình độ công chứng viên
Ở nước ta, mặc dù có thời gian hình thành và phát triển chưa dài
nhưng có thể thấy được vai trò của thiết chế công chứng được thể hiện ở
nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Cùng với việc hoàn thiện pháp luật về công chứng,
các quy định của pháp luật về giá trị pháp lý của văn bản công chứng cũng
từng bước được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp. Nếu như tại Nghị định số
45/HĐBT ngày 7/2/1991 (văn bản pháp lý đầu tiên quy định về công chứng)
mới chỉ quy định "các hợp đồng và giấy tờ được công chứng có giá trị chứng
cứ" thì đến Luật Công chứng năm 2006, các quy định về văn bản công chứng

và giá trị pháp lý của văn bản công chứng đã được quy định một cách tương
đối khái quát, rõ ràng và đầy đủ hơn, với hai giá trị cơ bản đó là giá trị chứng
cứ và hiệu lực thi hành. Có thể nói, với quy định này, Luật Công chứng đã đi
tiếp một bước trong việc đưa công chứng nước ta tiến gần hơn với thông lệ
của công chứng Latinh trên thế giới, thể hiện vai trò của công chứng với chức
năng bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch,
phòng ngừa tranh chấp, đồng thời hạn chế nhiều vụ kiện tại tòa án. Bên cạnh
Luật Công chứng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cũng có
những quy định liên quan đến giá trị pháp lý của văn bản công chứng như Bộ
luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở
Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy quy định về giá trị pháp lý của văn
bản công chứng trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay còn chưa đầy
đủ, mang tính hình thức, chưa có cơ chế để thực hiện trên thực tế (nhất là vấn

8
đề về hiệu lực thi hành). Bên cạnh đó, một số quy định còn chưa rõ hoặc có
nội dung chồng chéo, thậm chí vô hiệu hóa nhau dẫn đến tình trạng nhiều cơ
quan, tổ chức và cá nhân chưa nhận thức đúng, đầy đủ và thực sự tôn trọng.
Chính điều này cũng làm ảnh hưởng đến vị trí, vai trò của công chứng trong
đời sống xã hội nhất là trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách
hành chính phục vụ việc xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Do đó,
việc nghiên cứu về giá trị pháp lý của văn bản công chứng để từ đó làm cơ sở
tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này cũng như những
quy định của các quy định của pháp luật có liên quan là một nhu cầu cấp thiết.
Thực tiễn công tác tại Bộ Tư pháp - cơ quan chịu trách nhiệm giúp Chính phủ
quản lý nhà nước về công chứng cũng là lý do giúp tác giả lựa chọn đề tài
"Giá trị pháp lý của văn bản công chứng" làm đề tài nghiên cứu của luận
văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Với tư cách là một thiết chế bổ trợ tư pháp, tuy có thời gian hình thành

và phát triển chưa dài song với vai trò và những đóng góp quan trọng của
công chứng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thời gian qua
đã có nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu về thiết chế này như: "Cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt
Nam", đề tài cấp Bộ, mã số 92-98-224, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý,
1993; "Một số vấn đề về công chứng giao dịch tài sản ở Việt Nam", Luận văn
Thạc sĩ Luật học của Đỗ Xuân Hòa; "Công chứng nhà nước những vấn đề lý
luận và thực tiễn ở nước ta", Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Ngọc Nga;
"Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung
hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện
nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của Đặng Văn Khanh; "Thẩm quyền của Ủy
ban nhân dân trong lĩnh vực thực hiện các việc công chứng", Luận văn Thạc
sĩ Luật học của Lê Thị Thúy; "Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở

9
nước ta hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của Dương Khánh; "Xã hội hóa
công chứng ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Thị
Phương Hoa; "Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường theo mô
hình công chứng Latinh", Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Toàn;
"Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan công chứng" của
tác giả Lê Khả đăng trên báo Pháp luật, ngày 18/2/2003; "Công chứng, chứng
thực trong điều kiện cải cách hành chính và cải cách tư pháp" của tác giả
Trần Thất, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6/2004; "Công chứng,
chứng thực ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển" của tác giả
Phạm Văn Lợi, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2002
Các công trình nghiên cứu nói trên ở những góc độ nhất định đều có
sự tìm hiểu về khái niệm, kết cấu văn bản công chứng, giá trị pháp lý của loại
văn bản này , đồng thời cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các
quy định có liên quan. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây mới chỉ
mang tính chất nghiên cứu các vấn đề chung, chưa đi sâu phân tích về bản

chất, đạo lý của việc quy định giá trị pháp lý của văn bản công chứng, cũng
như chưa đề xuất được cơ chế hữu hiệu để bảo đảm cho giá trị của văn bản
công chứng trên thực tế.
Với tinh thần nghiên cứu, học hỏi một cách nghiêm túc, kế thừa những
quan điểm tư tưởng tiến bộ của các công trình nghiên cứu trên, luận văn "Giá
trị pháp lý của văn bản công chứng" bên cạnh việc phân tích về mặt lý luận
về công chứng, văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng,
luận văn đề cập sâu về thực trạng quy định của pháp luật của loại văn bản
này, về kinh nghiệm của một số nước trong việc hình thành cơ chế, phương
thức bảo đảm giá trị của loại văn bản này trên thực tế và những điểm tương
đồng, khác biệt với hệ thống công chứng của Việt Nam, qua đó mong muốn
cung cấp thêm một cách nhìn toàn diện hơn về giá trị pháp lý của văn bản
công chứng trong xu thế phát triển của loại hình dịch vụ công này và kiến

10
nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm đối với
giá trị của văn bản công chứng.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn bản công chứng và giá trị
pháp lý của văn bản công chứng, trong đó tập trung vào một số nội dung chủ
yếu như: xác định rõ khái niệm công chứng, văn bản công chứng; hình thức,
yêu cầu về bố cục và những nội dung cơ bản của văn bản công chứng; làm rõ
nội hàm giá trị chứng cứ không phải chứng minh và hiệu lực thi hành của văn
bản công chứng; đề xuất quan điểm, định hướng nhằm tiếp tục hoàn thiện các
quy định của pháp luật về văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản
công chứng, đồng thời xây dựng cơ chế bảo đảm các quy định của pháp luật
về hiệu lực thi hành của văn bản công chứng
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định
của pháp luật trong nước, pháp luật nước ngoài (bao gồm cả những nước theo
hệ thống dân luật và những nước theo hệ thống thông luật) có liên quan đến

công chứng, văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng
với tính chất của một văn bản xác thực (văn bản công). Tuy chưa đi sâu chi
tiết phân tích về pháp luật của nhiều quốc gia, nhưng với phạm vi nghiên cứu
mở rộng ngoài lãnh thổ quốc gia Việt Nam, luận văn đã khái quát một cách
chung nhất về tình hình pháp luật điều chỉnh cũng như thực tiễn áp dụng các
quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng kết hợp hoặc riêng lẻ
nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như phương pháp so sánh,
thống kê, tổng hợp và kỹ năng phân tích qua đó làm sáng tỏ các nội dung
liên quan đến văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng và
đưa ra những nhận định, kết luận có liên quan.

11
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về công chứng, văn bản công chứng.
Chương 2: Giá trị pháp lý của văn bản công chứng và thực trạng pháp
luật Việt Nam về giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp
luật về giá trị pháp lý của văn bản công chứng.

12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ CÔNG CHỨNG, VĂN BẢN CÔNG CHỨNG

1.1. NGUỒN GỐC, KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG CHỨNG

1.1.1. Nguồn gốc và các hệ thống công chứng trên thế giới
a) Nguồn gốc công chứng
Nguồn gốc của hoạt động công chứng được tìm thấy trong văn hóa La
mã cổ đại, bắt đầu từ hoạt động của các Tabellion [66]. Xuất hiện vào khoảng
giữa thế kỷ thứ 2 và thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, Tabellion là tập hợp một
nhóm người luôn góp mặt trong những công việc kinh doanh thông qua việc
soạn thảo văn bản giúp các chủ thể tham gia giao dịch thể hiện ý chí của mình
đúng hình thức và phát sinh hiệu lực. Qua thời gian, hoạt động của những
Tabellion dần trở nên phổ biến và phát triển thành nghề. Nhờ những kiến thức
và kỹ năng của mình, những người làm nghề này dần đóng một vai trò quan
trọng trong cả những giao dịch công và tư, đồng thời được đế chế La Mã
thừa nhận dưới chức danh Notarii. Trong số các notarii đó, một số người trở
thành những chức sắc gắn liền với Viện nguyên lão La Mã và Tòa án với
nhiệm vụ ghi chép diễn biến của phiên xét xử cũng như những sắc lệnh. Một
số khác lại hành nghề chủ yếu liên quan tới những vấn đề pháp lý mang tính
chất tư như hợp đồng, di chúc… nhưng những văn bản do họ soạn thảo được
thừa nhận như những văn bản công (văn bản do các cơ quan nhà nước và tòa
án ban hành bao gồm quyết định của cơ quan nhà nước hoặc bản án có hiệu
lực pháp luật).
Trải qua nhiều diễn biến thăng trầm của lịch sử, phù hợp với những
nền văn hóa pháp lý khác nhau, hoạt động công chứng có những bước phát
triển mang màu sắc riêng. Hiện nay trên thế giới, phù hợp với hai hệ thống
pháp luật chủ yếu (hệ thống dân luật - civil law system và hệ thống thông luật -

13
common law system) tồn tại và phát triển hai hệ thống công chứng, đó là hệ
thống công chứng dân luật (civil law notary, hay còn gọi là công chứng latinh)
và hệ thống công chứng thông luật (common law notary, hay còn gọi là hệ
thống công chứng Anglo - Saxon). Bên cạnh hai trường phái công chứng chủ
yếu nêu trên, trên thế giới cũng tồn tại một hệ thống công chứng mà ở đó

công chứng được coi như một hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức công
chứng là cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước. Hệ thống
công chứng này được biết đến với tên gọi hệ thống công chứng Collectiviste.
Như vậy có thể thấy rằng, xét về mặt nguồn gốc, hoạt động công chứng
là hoạt động của xã hội, với vai trò "làm chứng" của xã hội (cộng đồng) đối
với các giao dịch, các khế ước nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch,
khách quan, đề phòng sự tranh chấp. Ở giai đoạn đầu, công chứng chính là
nhu cầu tự nhiên, tự bảo vệ của dân chúng khi họ tham gia các hợp đồng, giao
dịch chứ chưa phải nhu cầu của quản lý nhà nước và là một hoạt động mang
tính xã hội sâu sắc. Mặt khác, với vai trò chủ yếu là hỗ trợ công dân, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức trong các giao dịch dân
sự, kinh tế, thương mại; phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật; hỗ trợ
quản lý nhà nước, góp phần đảm bảo ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy các giao
lưu dân sự, kinh tế, thương mại phát triển và hỗ trợ tư pháp thông qua việc
cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử, công chứng là một nghề có tính
chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa phục vụ cho lợi ích chung của xã hội,
cộng đồng. Với vai trò quan trọng như trên, công chứng đã trở thành đối
tượng quản lý của Nhà nước. Thậm chí, ở một số quốc gia, trong những điều
kiện lịch sử nhất định, công chứng còn trở thành một hoạt động thuộc chức
năng xã hội của Nhà nước (chức năng cung ứng dịch vụ công).
b) Các hệ thống công chứng trên thế giới
- Hệ thống công chứng Latinh
Hệ thống công chứng Latinh được xây dựng trên cơ sở hệ thống luật
thành văn (dân luật), nơi mà các đạo luật là nguồn cơ bản của pháp luật, vai

14
trò của thẩm phán là đảm bảo sự áp dụng pháp luật; án lệ chỉ có vai trò phụ
trợ cho đạo luật, giải thích hoặc góp phần hoàn thiện luật. Các nước trong hệ
thống pháp luật công chứng Latinh điển hình là: Cộng hòa Pháp, Cộng hòa
Liên bang Đức, Tây Ban Nha, Italia, Bồ Đào Nha, Liên bang Nga, Argentina,

Mexico, Paragoay, Urugoay, Thổ Nhĩ Kỹ, Nhật Bản Đây là hệ thống pháp
luật công chứng rất mạnh, ngay từ những năm 1948, những người hành nghề
công chứng của các nước này đã tập hợp lại xung quanh một tổ chức quốc tế
của mình là Liên minh công chứng Latinh quốc tế (UINL).
Tại các nước trong hệ thống công chứng Latinh, nhà nước thừa nhận
thể chế công chứng chuyên nghiệp, đề ra các quy định pháp lý để tổ chức và
quản lý thiết chế công chứng một cách chặt chẽ. pháp luật quy định về cơ cấu
tổ chức, bộ máy quản lý công chứng được ban hành ở mỗi nước trong hệ
thống công chứng Latinh tuy có tên gọi khác nhau nhưng đều nhằm mục đích
quản lý, theo dõi, đánh giá hoạt động công chứng, đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ, phẩm chất đạo đức của công chứng viên hoặc giải quyết về thẩm
quyền giữa các công chứng viên. Theo hệ thống công chứng Latinh, công
chứng viên được nhà nước bổ nhiệm, trao cho quyền lực và cho phép sử dụng
con dấu riêng có hình quốc huy có khắc tên Công chứng viên để hành nghề
công chứng, nghề công chứng được coi là hoạt động mang tính dịch vụ công.
Phạm vi hoạt động của công chứng thường bao gồm các hợp đồng, giao dịch
về bất động sản, thừa kế và các thỏa thuận về tài sản trong hôn nhân gia đình.
Một số nước còn giao thêm nhiệm vụ cho công chứng viên như ở Pháp là thu
thuế, ở Đức là chứng nhận đăng ký dinh doanh.
Đặc điểm nổi bật tạo nên sự khác biệt của hệ thống pháp luật công
chứng Latinh so với hệ thống pháp luật công chứng Anglo-Sacxon là Công
chứng viên phải chịu trách nhiệm về nội dung, về tính xác thực, hợp pháp của
hợp đồng giao dịch mà mình chứng nhận, vì vậy hệ thống pháp luật công
chứng Latinh còn được gọi là hệ thống pháp luật công chứng nội dung. Theo
quy định của pháp luật trong hệ thống pháp luật công chứng Latinh, công chứng

15
viên giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm trật tự pháp lý, đó là vai trò bổ
trợ tư pháp như một thẩm phán về hợp đồng, nhằm phòng ngừa tranh chấp.
Trách nhiệm của Công chứng viên là giúp cho các chủ thể tham gia hợp đồng

giao dịch lựa chọn và định đoạt tài sản của mình một cách hợp lý nhất, đồng
thời có nghĩa vụ tư vấn cho các chủ thể tham gia hợp đồng giao dịch một cách
vô tư, không thiên vị, lưu ý họ về phạm vi, các hệ quả, rủi ro mà hợp đồng có
thể đặt ra để bảo vệ quyền lợi của các bên. Với nghĩa vụ này, Công chứng
viên không chỉ là người chứng nhận ý chí của các bên khi giao kết hợp đồng,
mà còn có nghĩa vụ giúp các bên thể hiện ý chí trong hợp đồng, lựa chọn các
thể thức giao kết hợp đồng phù hợp, tùy thuộc vào mục đích của hợp đồng,
vào pháp luật áp dụng cho loại hợp đồng đó và thông tin cho các bên biết về
những hệ quả pháp lý mà hợp đồng đặt ra. Công chứng viên có nhiệm vụ hòa
giải sự bất đồng quan điểm của các chủ thể tham gia hợp đồng giao dịch trong
quá trình lập hợp đồng, để đảm bảo sự công bằng trong giao kết hợp đồng, tôn
trọng quyền lợi chính đáng của các chủ thể. Do vậy, công chứng viên thực sự
giữ vai trò trọng tài và trung gian hòa giải giữa các chủ thể tham gia hợp đồng
giao dịch, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên, giúp cho các bên tìm được
tiếng nói chung, sớm đạt được sự thống nhất, tránh xảy ra tranh chấp hợp
đồng sau này. Như vậy, theo quy định của pháp luật hoặc theo sự tự nguyện
của khách hàng, công chứng viên đem lại cho các hợp đồng, giao dịch một
tính đích thực, có giá trị như văn bản của các cơ quan công quyền khác cấp,
đảm bảo cho các hợp đồng, giao dịch được công chứng sự an toàn pháp lý
trong mọi tình huống, hạn chế được đến mức thấp nhất những tranh chấp dân
sự, làm giảm bớt gánh nặng về xét xử cho cơ quan tòa án. Công chứng viên
không chỉ là người tinh thông về pháp luật mà còn phải có đạo đức tốt, thể
hiện ở chỗ họ không những cần có lòng trung thực mà còn cần phải có thái độ
công minh, vô tư, sự tôn trọng triệt để các bí mật được biết, lòng can đảm để
dám chịu trách nhiệm khi đặt bút ký và đóng dấu vào hợp đồng.
Tuy nhiên, do yêu cầu phải thận trọng, chính xác, trung thực nên hệ
thống pháp luật công chứng Latinh đã đặt ra rất nhiều thủ tục và trình tự chặt

16
chẽ cần phải tiến hành khi thực hiện việc công chứng, điều đó thường dẫn đến

việc kéo dài thời gian giải quyết một việc công chứng. Hệ thống pháp luật
công chứng Latinh cũng thiếu tính thực dụng và mềm dẻo đối với những giao
dịch mà chủ thể là doanh nhân, vì công chứng viên phải tiến hành các công
việc quá kỹ càng trong thời gian dài để đạt đến sự xác thực của một hợp đồng,
các doanh nhân đôi khi có thể mất đi cơ hội trong môi trường kinh doanh
mang tính cạnh tranh cao.
- Hệ thống công chứng Anglo - saxon
Ở các nước theo hệ thống án lệ (thông luật), bản án và các quyết định
của tòa án là nguồn chủ yếu của luật tư. Các vụ việc cụ thể do tòa án xét xử
trở thành các "tiền lệ" có giá trị như quy phạm pháp luật, trừ khi pháp luật có
quy định khác. Các hợp đồng hiếm khi viện dẫn tới các đạo luật, cho phép các
bên tham gia hợp đồng được tự do, hợp đồng thể hiện ý chí của các bên tham
gia sau khi những cố vấn của họ đã thương thảo. Khi có tranh chấp, thẩm
phán thường xuyên giải quyết bằng cách viện dẫn các "tiền lệ" có thể áp dụng
cho vụ việc đang thụ lý. Chính vì vậy, ở các nước này, vai trò của luật sư và
hành nghề luật sư được coi trọng, kể cả trong tư vấn và trong tranh tụng. Nhà
nước không quan tâm lắm đến việc hình thành các thiết chế phòng ngừa tranh
chấp. Ở các nước này mà điển hình là: Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ (trừ Bang Louisane), Canada (trừ Bang Quebec), Ấn Độ, Singapore,
Thái Lan, Đài Loan không thừa nhận thể chế công chứng chuyên nghiệp. Chức
năng công chứng ở các nước theo hệ thống pháp luật công chứng Anglo-
Sacxon được thực hiện bởi các luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của
Giáo hội, một số nhân viên ngoại giao và lãnh sự được giao thẩm quyền thực
hiện một số việc công chứng ở nước ngoài những người này thực hiện hoạt
động công chứng theo phương thức kiêm nhiệm. Đó là những công chứng
viên không chuyên biệt. Trước khi được kiêm nhiệm hoạt động công chứng,
họ phải có thâm niên tối thiểu một số năm hành nghề luật sư thuộc Hiệp hội
Luật sư hoặc là hộ tịch viên hay cố vấn pháp lý của Giáo hội. Trong hệ thống

17

pháp luật công chứng Anglo-Sacxon, những người hành nghề công chứng
không chịu sự can thiệp nhiều của quyền lực hành pháp của Nhà nước. Những
nước theo hệ thống công chứng này không hình thành bộ máy để quản lý,
theo dõi hoạt động công chứng cũng như những người hành nghề công chứng.
Những người hành nghề công chứng ở đây hoạt động tự do, sự quản lý của
nhà nước chỉ thể hiện ở việc cấp chứng chỉ hành nghề, và đổi chứng chỉ hành
nghề hàng năm cho những người hành nghề công chứng. Phạm vi hoạt động
của công chứng chủ yếu là xác nhận các sự kiện, các lời tuyên thệ hay chữ ký
của các bên trong các hợp đồng, giao dịch.
Đặc điểm nổi bật của hệ thống công chứng Anglo-Sacxon là việc công
chứng chỉ mang tính hình thức (vì vậy hệ thống pháp luật công chứng Anglo-
Sacxon còn được gọi là hệ thống pháp luật công chứng hình thức), nghĩa là
khi tiến hành hoạt động công chứng, người hành nghề công chứng chỉ ghi
nhận lại và chứng nhận sự kiện pháp lý đã xảy ra, họ chỉ chú trọng đến việc
nhận diện đúng chủ thể tham gia giao dịch, ghi lại đúng thời gian, địa điểm
tiến hành giao kết hợp đồng, ghi lại chính xác thỏa thuận của các bên và ý chí
của từng bên chứ họ không cần quan tâm đến việc xác định tình trạng pháp
lý của đối tượng hợp đồng, không cần biết thỏa thuận của các bên tham gia
giao dịch có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không và họ không phải chịu
trách nhiệm nếu giao dịch đó là bất hợp pháp hay khi trong hợp đồng đó có
điều khoản nào đó bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba.
Việc công chứng không quan tâm đến nội dung của hợp đồng giao dịch như
vậy nên những hợp đồng, văn bản được lập bởi những người hành nghề công
chứng trong hệ thống pháp luật công chứng Anglo-Sacxon mang lại sự an
toàn pháp lý thấp, không được coi là chứng cứ xác thực, hiển nhiên trước tòa
án, tỷ lệ tranh chấp xảy ra nhiều hơn so với công chứng của các hệ thống pháp
luật khác.
Do việc chứng nhận chỉ mang tính hình thức, người hành nghề công
chứng không phải chịu trách nhiệm về nội dung của hợp đồng, giao dịch mà


18
họ chứng nhận nên các yêu cầu công chứng ở đây được đáp ứng rất nhanh
chóng, kịp thời, đa dạng (không bị bắt buộc phải công chứng loại hợp đồng,
giao dịch nào). Tuy nhiên, do nguyên tắc tự do giao kết, các bên tự thỏa
thuận, tự lập văn bản, với trình độ, nhận thức rất khác nhau, với sự khác nhau
về tính trung thực, sự ngay thẳng, nên sự sai sót, vi phạm pháp luật trong giao
kết hợp đồng là không thể tránh khỏi, việc công chứng đối với những giao
dịch này mà không cần quan tâm đến nội dung, đến tính hợp pháp của nó
(công chứng hình thức) không có ý nghĩa trong việc hạn chế tranh chấp, tạo
hành lang pháp lý an toàn cho các giao dịch và làm cho vai trò của hoạt động
công chứng trở thành mờ nhạt, vị trí của người hành nghề công chứng bị xem
nhẹ vì nó gợi cho người ta cảm giác rằng công chứng là hoạt động tương đối
giản đơn, ai cũng có thể hành nghề được.
- Hệ thống công chứng Collectiviste
Hệ thống công chứng Collectiviste (hay còn gọi là hệ thống công
chứng bao cấp) là mô hình công chứng được tổ chức khá chặt chẽ, hoạt động
chuyên nghiệp bằng sự bao cấp của Nhà nước thông qua việc cấp ngân sách.
Tổ chức công chứng là một loại hình cơ quan bổ trợ tư pháp trong bộ máy
hành pháp của Chính phủ. Công chứng viên và nhân viên nghiệp vụ đều là
công chức nhà nước, hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước và được
hưởng mọi chế độ chính sách như những công chức khác. Công chứng viên
được bổ nhiệm để chứng nhận hợp đồng và văn bản, giúp đỡ pháp lý cho cá
nhân, tổ chức, tạo ra sự an toàn pháp lý và sự tin cậy cho các giao dịch, phòng
ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, vai trò của công chứng viên ở
các nước này phần nào bị hạn chế, chủ yếu phục vụ mục đích quản lý nhà
nước và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa bởi pháp luật không thừa nhận quyền
sở hữu tư nhân đối với một số tài sản, đặc biệt là đối với đất đai.
Điển hình của hệ thống Collectiviste là công chứng của các nước xã hội
chủ nghĩa cũ. Hệ thống công chứng này phát triển mạnh nhất vào những năm
từ 1970 đến 1990, gồm công chứng của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


19
xô viết, Cộng hòa Ba lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Bungari, Hunggari, Rumani,
Cu Ba, Trung Quốc, Việt Nam Hệ thống công chứng Collectiviste có một số
điểm đặc trưng cơ bản như:
+ Nhà nước bảo đảm cơ sở vật chất của các Phòng công chứng như trụ
sở, phương tiện, thiết bị, kinh phí hoạt động;
+ Các Phòng công chứng chịu sự quản lý song trùng trực thuộc, vừa
đặt dưới sự quản lý về nghiệp vụ, chuyên môn của Nhà nước trung ương (Bộ
Tư pháp), vừa đặt dưới sự quản lý của chính quyền địa phương (Sở Tư pháp
hoặc Tòa án địa phương).
+ Cùng với các Phòng công chứng chuyên trách, một số cơ quan hành
chính được giao nhiệm vụ thực hiện kiêm nhiệm thêm một số hoạt động công
chứng ở những nơi tập trung dân cư nhưng chưa thành lập Phòng công chứng.
Mặt khác, một số nhân viên ngoại giao và lãnh sự được giao thẩm quyền thực
hiện một số hoạt động công chứng ở nước ngoài;
+ Lệ phí công chứng thu theo biểu mức do Nhà nước quy định và nộp
vào ngân sách nhà nước, người thực hiện công chứng được hưởng thêm một
khoản tiền thưởng hoặc phụ cấp;
+ Hoạt động công chứng mang tính kỹ thuật đơn giản. Các công
chứng viên chỉ là người thực hiện hành vi chứng nhận đơn giản, khi chứng
nhận một văn bản chỉ chú trọng đến hình thức, tính hợp pháp của văn bản trên
cơ sở căn cứ vào các giấy tờ do người yêu cầu xuất trình hoặc nộp để nhận
dạng, xác định năng lực hành vi dân sự, tình trạng pháp lý của tài sản và là
người ghi chép, vào sổ những sự kiện đã thực hiện. Ngược lại, ít chú trọng
đến việc tư vấn, xác minh nhân thân của khách hàng và tình trạng pháp lý của
tài sản cần xác nhận;
+ Công chứng viên chứng nhận văn bản công chứng dựa trên cơ sở
những giấy tờ do khách hàng xuất trình hoặc nộp. Khách hàng phải tự mình
chứng minh nhân thân và tình trạng pháp lý của tài sản;


20
+ Văn bản công chứng là chứng cứ viết, đem lại an toàn về mặt pháp
lý cho các giao dịch, giao lưu, làm tăng tính ràng buộc và có giá trị thi hành
giữa các bên tham gia các giao dịch, giao lưu đó;
+ Tránh nhiệm dân sự của công chứng viên rất hạn chế đối với những
thiệt hại do họ gây ra khi thực hiện công chứng. Không có cơ chế đảm bảo
trách nhiệm nghề nghiệp
Hiện nay, các nước theo hệ thống công chứng bao cấp đang có những
cải cách về thể chế nhằm phù hợp với nền kinh tế thị trường, hướng theo mô
hình công chứng Latinh.
1.1.2. Khái niệm công chứng
a) Quan niệm về công chứng ở một số nước
Notarie - tiếng Pháp, Notary - tiếng Anh, Notariat - tiếng Đức, Hottapiat -
tiếng Nga, đều có gốc La tinh là Notarius, có nghĩa là Viết, ghi chép. Theo
Pierre-Francois Real, một trong những nhà biên soạn Luật Ventôse năm 1804
làm cơ sở cho việc thiết lập nghề công chứng ở nhiều quốc gia khác ngoài
Cộng hòa Pháp như Bỉ, Đức, Áchentina, Áo, Bukina Faso, Chi lê, Colombia,
Bờ biển Ngà, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ý, Lucxembua, Ma rốc, Mêhicô, Hà
Lan, Cộng Hòa Diminica, Rumani, Sênêgal và Thụy sĩ thì:
Những người tư vấn cho các bên đương sự một cách vô tư,
giúp họ hiểu được phạm vị nghĩa vụ hợp đồng mà họ đã giao kết,
soạn thảo các hợp đồng này một cách rõ ràng, làm chứng cho chúng
có tính xác thực và có giá trị như một phán quyết chung thẩm, đóng
vai trò bộ nhớ của đương sự và lưu giữ tuyệt đối hồ sơ của họ, hạn
chế tranh chấp có thể nảy sinh giữa các bên một cách ngay tình:
những người làm công việc như vậy chính là công chứng viên [42].
So sánh các hệ thống công chứng cho thấy, mặc dù giữa hệ thống
công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo - Saxon có sự khác biệt


21
nhau về cách thức tổ chức, hoạt động, trình tự, thủ tục công chứng, song quan
niệm về công chứng ở hai hệ thống này về cơ bản có một số điểm tương
đồng. Cả hai hệ thống này đều coi công chứng là một nghề, công chứng viên
hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình. Tuy
nhiên, đó là một nghề đặc biệt, đòi hỏi công chứng viên phải có trình độ
chuyên môn (luật) và kỹ năng nghiệp vụ, được Nhà nước bổ nhiệm hoặc công
nhận và hoạt động theo chế độ chứng chỉ hành nghề. Có thể thấy rõ điều đó
qua pháp luật thực định về công chứng của một số nước, cụ thể: Ở Cộng hòa
Pháp (một điển hình của trường phái công chứng Latinh), Điều 1 Pháp lệnh số
45-2500 ngày 02/11/1945 về Điều lệ công chứng của Cộng hòa Pháp quy
định: "Công chứng viên là nhân viên công quyền, được bổ nhiệm để lập các
hợp đồng và văn bản mà theo đó, các bên phải hoặc muốn đem lại tính xác
thực giống như các văn bản của các cơ quan công quyền, bảo đảm tính chính
xác ngày, tháng, năm, lưu giữ và cấp các bản sao văn bản công chứng" [64].
Ở Vương quốc Anh (một trong các điển hình của trường phái công chứng
Anglo - Saxon), Quy chế công chứng năm 1801, 1833, 1834 quy định: Công
chứng viên là viên chức được bổ nhiệm để thực hiện các hành vi chứng nhận
hoặc xác lập chứng thư và các giấy tờ khác có liên quan đến việc chuyển
nhượng bất động sản và tài sản cá nhân, giấy ủy quyền liên quan đến bất động
sản và tài sản cá nhân ở Anh, xứ Wales, các nước khác thuộc khối cộng đồng
Anh hoặc ở nước ngoài; chứng nhận hoặc xác nhận các giấy tờ liên quan đến
di chúc, lập kháng nghị hàng hải về sự cố xảy ra đối với tàu và hàng hóa trên
tàu trong thời gian tàu đi trên biển.
Ở hệ thống công chứng Collectiviste, ban đầu công chứng chưa được
coi là một nghề. Tuy nhiên, hiện nay trong hệ thống công chứng Collectiviste,
hầu hết các nước đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đều có sự đổi mới
trong quan niệm về công chứng phù hợp với quan niệm của hệ thống công
chứng Latinh và hệ thống Anglo - Saxon, đó là xác định công chứng là một
nghề tự do đặt dưới sự quản lý của Nhà nước và đang từng bước tiến hành cải


22
cách công chứng từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng
tự do. Ví dụ: ở Ba Lan, Điều 1 Luật số 176 ngày 14/02/1991 về công chứng
quy định:
Công chứng viên được bổ nhiệm để lập những văn bản mà
trong đó, các bên phải hoặc muốn đem lại một tính đích; Ở Trung
Quốc, theo Điều 2 Luật Công chứng quy định "Công chứng là hành
vi được thực hiện bởi một công chứng viên theo yêu cầu của khách
hàng để xác nhận tính xác thực và hợp pháp của hành vi, sự kiện hay
tài liệu có tính pháp lý theo theo thủ tục pháp luật quy định [64].
So sánh những quy định nêu trên cho thấy, nội dung chi tiết về chức
năng, nhiệm vụ của công chứng viên trong pháp luật thực định của các nước
có những điểm khác nhau, nhưng quan niệm về công chứng đều có những
điểm cơ bản giống nhau, có thể khái quát lại như sau: Công chứng là hoạt
động của công chứng viên soạn thảo hoặc chứng nhận (xác nhận) các hợp
đồng, giao dịch nhằm bảo đảm giá trị thực hiện cho các hợp đồng giao dịch,
phòng ngừa tranh chấp hoặc cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp xảy ra.
b) Khái niệm công chứng ở Việt Nam
Hiểu một cách đơn giản nhất, "công chứng" chính là việc "công"
quyền đứng ra làm "chứng". Nói một cách khác, thay vì để cá nhân tự đứng ra
làm chứng cho nhau trong các giao dịch dân sự, thì nhà nước, bằng việc đào
tạo, bổ nhiệm đã trao cho một số cá nhân (hoạt tổ chức) nhất định một phần
quyền năng để những người này thay mặt nhà nước đứng ra làm chứng các
giao dịch đó. Theo học giả Đào Duy Anh thì "công chứng có nghĩa là lấy
quyền công mà làm chứng".
Ở Việt Nam, công chứng được hình thành từ những năm 80 của thế
kỷ XIX [3, tr. 12]. Văn bản công chứng đầu tiên được lập vào năm 1886 (hiện
nay được lưu giữ tại Phòng Công chứng Nhà nước số 1 thành phố Hồ Chí
Minh). Đến ngày 24/5/1931 một Sắc lệnh mới về tổ chức Công chứng được


23
ban hành, theo đó tổ chức và hoạt động công chứng được phỏng theo các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động công chứng tại nước Pháp. Công chứng viên
được bổ nhiệm bằng Sắc lệnh của Tổng thống Pháp và hành nghề suốt đời.
Công chứng viên không hưởng lương, nhưng được thu phí và thù lao do Nhà
nước ấn định, phải nộp một phần lệ phí và thù lao cho công quỹ (tỷ lệ 1/4)
hoặc nộp thuế theo chế độ thuế khóa hiện hành. Công chứng viên phải nộp
tiền ký quỹ để bảo đảm bồi thường thiệt hại do các lỗi phạm phải trong khi thi
hành công vụ. Công chứng viên phải tuyên thệ. Mỗi người có 1 con dấu, chữ
ký và chữ ký tắt phải lưu trữ tại Tòa án sơ thẩm quản hạt. Lúc đó, có 1 văn
phòng Công chứng ở Hà nội và 3 văn phòng Công chứng ở Sài Gòn. Tại các
Tòa án sơ thẩm như ở Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng và các tỉnh Nam Bộ
có Chánh lục sự kiêm công chứng viên. Thời kỳ này, một hợp đồng giữa hai
bên là người Việt Nam có thể làm dưới hình thức: (i) Do hai bên đương sự
thỏa thuận và ký (được gọi là tư chứng thư); (ii) Do chính quyền thị thực tức
là do trưởng phố ở các thành thị và lý trưởng ở nông thôn thị thực hoặc do
Công chứng viên lập (công chứng thư).
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 1/10/1945, Bộ trưởng Bộ Tư
pháp đã ra Nghị định bổ nhiệm ông Vũ Quý Vĩ làm Công chứng tại Hà Nội.
Sau đó thuật ngữ "Công chứng" được sử dụng trong Nghị định 143-HĐBT
ngày 20/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp.
Theo Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp -
một thông tư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khai sinh hệ thống công chứng
nhà nước ở Việt Nam - công chứng nhà nước được xác định:
Là một hoạt động của Nhà nước với mục đích giúp các công
dân, cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý
nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các
văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên,


24
công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù
hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải
quyết tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa [1].
Lần đầu tiên kể từ khi thành lập nước (02/9/1945), khái niệm công
chứng nhà nước được đưa ra ở Việt Nam, đánh dấu sự đổi mới về tư duy pháp
lý, bước đầu đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế ở giai đoạn đầu của thời kỳ
chuyển đổi. Tuy nhiên, là văn bản pháp lý đầu tiên về công chứng trong giai
đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, do đó, văn bản này không thể tránh được các
hạn chế, đó là: chưa xác định được chủ thể, đối tượng của hoạt động công
chứng cũng như nội dung việc công chứng, chưa phân biệt rõ hoạt động công
chứng với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác.
Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, trong vòng 10 năm (1991-
2000), Chính phủ đã ban hành ba nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng
nhà nước, đó là: Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi
tắt là Nghị định số 45/HĐBT); Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định
số 31/CP) và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về
công chứng, chứng thực (sau đây gọi tắt là Nghị định số 75/2000/NĐ-CP).
Theo Nghị định số 45/HĐBT, thuật ngữ công chứng được xác định
như sau:
Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của
các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần


25
phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa [30, Điều 1].
Đến Nghị định số 31/CP, công chứng được xác định:
Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp
đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng
ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [10].
So với Thông tư số 574/QLTPK, khái niệm công chứng ở hai Nghị
định này đã được xác định cụ thể, rõ ràng hơn. Và nếu so sánh Nghị định số
45/HĐBT với Nghị định số 31/CP thì Nghị định số 31/CP đã bước đầu có sự
phân biệt hành vi công chứng và hành vi chứng thực. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp
lý của hành vi công chứng và hành vi chứng thực chưa được phân biệt. Quy
định "chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giấy tờ" ở cả hai Nghị định
này còn quá chung chung, khó hiểu, dễ gây nên sự tùy tiện và các hệ quả khác
nhau trong thực tiễn hoạt động công chứng.
Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng mới
được tách bạch khỏi khái niệm chứng thực. Khái niệm công chứng ở Nghị
định này đã được xác định khoa học hơn, tiệm cận gần hơn với quan niệm
chung của thế giới về công chứng. Theo Nghị định này:
Công chứng là việc phòng công chứng chứng nhận tính xác
thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập
trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác
(sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo
quy định của Nghị định này [11, khoản 1 Điều 2].
Cùng với việc xác định khái niệm công chứng như trên, Nghị định số
75/2000/NĐ-CP đã xác định khái niệm chứng thực "là việc Ủy ban nhân dân
cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của

×