Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu huyện hướng hóa tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.41 KB, 104 trang )

PHẦN 1 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, nông nghiệp nước ta đã có bước đột phá trong nâng
cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Nền nông nghiệp đã chuyển từ nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hóa.
Nhiều nông sản như: gạo, cao su, hồ tiêu... không những đáp ứng đủ cho nhu cầu trong
nước mà còn xuất khẩu ra các nước khác.
Tuy nhiên, sản xuất nông sản ở nước ta vẫn mang nặng tính tự phát, sức cạnh
tranh của sản phẩm thấp, giá thành cao, chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu thị
trường thế giới, sự liên kết giữa sản xuất-chế biến-tiêu thụ chưa phát triển mạnh. Theo
điều tra của Bộ NN&PTNT năm 2014: có khoảng 25% nông dân tiếp cận được với các
thông tin thị trường, trong khi 75% số hộ không biết gì cả; 90% sản phẩm nông nghiệp
bán ở dạng thô; 60% sản phẩm bị bán ép với giá thấp. Do đó, vấn đề quan tâm trong
tiến trình phát triển và nâng cao đời sống cho người dân là phải xây dựng được các
chuỗi cung ứng sản phẩm trong sản xuất nông nghiệp.
Nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa, nâng cao sức cạnh
tranh của nông sản Việt Nam, việc phát triển chuỗi cung là rất cần thiết. Quản lý theo
chuỗi cung chia sẽ lợi nhuận bền vững, tăng giá trị cho người sản xuất. Người sản xuất
khi kết nối với chuỗi cung sẽ tăng trưởng theo cấp số nhân. Đặc biệt, khi tham gia vào
chuỗi cung, giá trị nông sản sẽ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu và liên kết nông thônthành thị, thúc đẩy tăng trưởng tổng thể.
Tuy nhiên để phát triển chuỗi cung một cách bền vững, chúng ta cần có những
chính sách thúc đẩy sự tham gia của các địa phương, tổ chức, doanh nghiệp vào chuỗi
cung trong địa phương, khu vực và trên toàn cầu. Hiện nay, Việt Nam cần tăng năng
suất không phải dựa trên việc sử dụng các phương thức cũ mà phải dựa vào chuỗi
cung, tối ưu hóa phương thức thực hành nông nghiệp, nâng cao hiệu quả đầu vào cũng
như tăng cường tổ chức chuỗi cung. Để tăng cường chuỗi cung, cần nâng cao chất
1


lượng quản trị và thể chế, xây dựng các chính sách, cải thiện cơ chế tài chính, cải thiện
cơ sở hạ tầng để thúc đẩy sự phát triển nghành nông nghiệp Việt Nam.


Sản phẩm hồ tiêu huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị vẫn đang từng bước kết nối
với thị trường. Sản phẩm hồ tiêu vùng này đã hiện diện ở siêu thị và một số thị trường.
Có được những thành công bước đầu như vậy là nhờ người trồng hồ tiêu và các tác
nhân liên quan đã áp dụng nhiều giải pháp đổi mới khác nhau như: thay đổi tập quán
sản xuất, tăng cường chế biến, thông tin sản phẩm đến người tiêu dùng. Bên cạnh
những kết quả tích cực đã đạt được, nhìn chung chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu Hướng
Hóa vẫn chưa có tính liên kết giữa hộ trồng với các tác nhân, mức độ hội nhập còn
chậm, giá đầu ra không ổn định, dẫn đến lợi ích người trồng hồ tiêu, các tác nhân liên
quan bị ảnh hưởng lớn.
Bên cạnh đó, trên phương diện lý thuyết, ở tỉnh Quảng Trị, đã có khá nhiều đề tài
nghiên cứu về chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu: Tình hình sản xuất hồ tiêu của các hộ
nông dân trên địa bàn xã Vĩnh Kim, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị của Lê Thị Như
Diệu, hiệu quả sản xuất hồ tiêu trên địa bàn xã Cam Chính, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng
Trị... và nhiều đề tài, bài báo khác liên quan đến hồ tiêu về các huyện này và tỉnh
Quảng Trị. Tuy nhiên, lại chưa có nghiên cứu nào về chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu ở
huyện Hướng Hóa. Vì vậy, chưa có giải pháp cụ thể thực sự tương thích và có hiệu quả
dành cho các hộ trồng hồ tiêu và các tác nhân ở vùng này.
Từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu
Huyện Hướng Hóa - Tỉnh Quảng Trị” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ khoa học
kinh tế của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu một cách bền vững
cho các nông hộ ở huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.

2


2.2. Mục tiêu cụ thể
Thực hiện đề tài này nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể sau:

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu.
- Phân tích thực trạng chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu huyện Hướng Hóa, tỉnh
Quảng Trị.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện chuỗi cung cho sản phẩm hồ tiêu tại vùng này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
 Đối tượng nghiên cứu
Với các mục tiêu nghiên cứu đã được xác định, đối tượng nghiên cứu của đề tài là
cơ sở lý luận và thực tiễn về chuỗi cung hồ tiêu tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
 Đối tượng khảo sát
Nghiên cứu các tác nhân tham gia trong chuỗi cung ứng bao gồm: người sản xuất,
người thu gom, đơn vị chế biến và phân phối sản phẩm...
3.2. Phạm vi nghiên cứu
 Về không gian
Nghiên cứu tiến hành điều tra các tác nhân từ người sản xuất đến các tác nhân thu
gom, chế biến và phân phối trong chuỗi. Ngoài ra, còn tham khảo thêm ý kiến một số
cơ sở cung ứng sản phẩm đầu vào: phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), cây
giống... tập trung trên địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
 Về thời gian
Nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu trên địa bàn huyện Hướng Hóa trong
khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2014, số liệu sơ cấp điều tra năm 2015, đưa ra
các giải pháp hoàn thiện chuỗi cung cho thời gian tới.

3


4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp tiếp cận chuỗi
Phương pháp phân tích chuỗi là phương pháp tiếp cận chủ yếu của nghiên cứu
này. Tiếp cận chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu thông qua các tác nhân tham gia từ khâu sản

xuất đến tiêu thụ gồm: nhà cung cấp đầu vào, hộ trồng hồ tiêu, hộ thu gom nhỏ, đại lý
thu gom và cuối cùng là người tiêu dùng. Từ đó, nghiên cứu xác định mối quan hệ
tương tác qua lại của các tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu trên địa bàn
huyện Hướng Hóa. Thực hiện phân tích tài chính để thấy được quá trình tạo giá trị qua
các chuỗi trên một đơn vị khối lượng sản phẩm hồ tiêu; dòng thông tin trong chuỗi;
quá trình vận chuyển sản phẩm; quá trình chi trả. Đồng thời, mối liên kết ngang và dọc
trong chuỗi, các tác nhân tham gia, các kênh tiêu thụ... được sơ đồ hóa để thấy rõ toàn
bộ quy trình hoạt động trong chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu.
4.2. Khung nghiên cứu chuỗi cung
Dòng chu chuyển vật chất

Quá trình ra tạo giá trị
Nhà

Trung gian

cung cấp

Hộ

Trung gian

Người tiêu

gia đình

dùng

Dòng thông tin
Dòng tiền

Hình 1: Khung nghiên cứu chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu
(Nguồn: Chỉnh sửa từ Closs và Mollenkopf (2004) và Chen và Paulraj (2004))[25]

Từ cơ sở lý luận về chuỗi cung và cơ sở thực tiễn về quá trình hoạt động chuỗi
cung hồ tiêu, nghiên cứu chuỗi cung tập trung vào những nội dung chính sau:
4


- Mô tả cấu trúc chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu và các tác nhân tham gia.
- Phân tích quá trình tạo ra giá trị, đây là quá trình quan trọng, được hỗ trợ bởi 3
quá trình khác gồm: quá trình chu chuyển vật chất, dòng thông tin, dòng tài chính và
mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi cung.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu như: các nhà
cung ứng đầu vào hay tiêu thụ sản phẩm...
- Phân tích mối quan hệ giữa các tác nhân cũng như các hoạt động của chuỗi đối
với hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện chuỗi
cung như: nâng cao hiệu quả kinh tế, giải pháp để phát triển bền vững hồ tiêu huyện
Hướng Hóa.
4.3. Phương pháp thu thập số liệu
4.3.1. Số liệu thứ cấp
Nguồn thông tin số liệu thứ cấp được thu thập từ Phòng NN&PTNT huyện
Hướng Hóa, Trung tâm Khuyến nông, Niên giám thống kê huyện Hướng Hóa và Niên
giám thống kê tỉnh Quảng Trị năm 2014. Thu thập các báo cáo khoa học liên quan, báo
cáo KT-XH của huyện từ năm 2012-2014, lựa chọn và phân tích chuỗi cung được quan
tâm, các báo cáo về quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH, các báo cáo về kế hoạch dài
hạn, kế hoạch hàng năm của tỉnh, huyện, các Sở, Ban ngành liên quan.
4.3.2. Số liệu sơ cấp
Số liệu sơ cấp thu thập từ các mẫu đại diện của hồ tiêu được lựa chọn nghiên cứu
trong vùng. Các thông tin chung về: hộ trồng hồ tiêu, hộ thu gom nhỏ, đại lý thu gom;
thông tin về thực trạng sản xuất, chuỗi cung hồ tiêu; những tồn tại, khó khăn liên quan

đến nghiên cứu được thu thập thông qua: Phương pháp phỏng vấn người am hiểu,
Phương pháp thảo luận nhóm tập trung và Phương pháp bảng câu hỏi điều tra.
Phương pháp phỏng vấn người am hiểu: Phỏng vấn trực tiếp hoặc thông qua các
cuộc tiếp xúc một số cá nhân, tổ chức trong chuỗi cung hồ tiêu như: cán bộ quản lý phụ
5


trách về việc phát triển hồ tiêu của Phòng NN&PTNT huyện Hướng Hóa, một số cơ
quan của xã, huyện. Thông tin thu thập được là những góp ý cho nghiên cứu, cung cấp
số liệu và đưa ra những nhận định ảnh hưởng đến phát triển hồ tiêu, chuỗi cung hồ tiêu
ở địa phương.
Phương pháp thảo luận nhóm tập trung: Chủ yếu thu thập thông tin từ: các doanh
nghiệp và các nhóm hộ sản xuất. Nội dung thảo luận nhóm sẽ xoay quanh vấn đề thực
trạng sản xuất, tiêu thụ hồ tiêu, xác định những khó khăn và nguyện vọng của người
trồng hồ tiêu.
Phương pháp chọn mẫu điều tra: Nghiên cứu áp dụng chọn mẫu theo cụm địa lý
kết hợp định mức theo tỷ lệ để thu thập số liệu và quan sát. Tùy theo đối tượng, lấy
mẫu khác nhau nhằm chọn ra những mẫu mang tính đại diện và phù hợp nhất. Các
bước chọn mẫu được tiến hành như sau:
- Bước 1: Căn cứ vào khả năng về thời gian, kinh phí, năng lực, xác định cỡ mẫu
phù hợp.
- Bước 2: Căn cứ vào quy mô diện tích trên địa bàn huyện Hướng Hóa, chọn 2 xã
và 1 thị trấn có diện tích trồng hồ tiêu lớn, đó là: xã Tân Liên có diện tích hồ tiêu 19,9
ha, chiếm 10,7% tổng diện tích toàn huyện; xã Tân Hợp có diện tích hồ tiêu 12 ha,
chiếm 6,4%; và Thị trấn Khe Sanh có diện tích hồ tiêu 21 ha, chiếm 11,3%.
- Bước 3: Chọn nhóm hộ điều tra, quy mô mẫu điều tra là 90 hộ trồng tiêu, 5 hộ
thu gom nhỏ và 2 đại lý thu gom (Đại lý Loan Tuyết và Đại lý Hiền Đạo) được thực
hiện theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng cho sản phẩm hồ tiêu.
Bảng 1.1: Cơ cấu mẫu điều tra theo địa bàn nghiên cứu
Địa bàn

Xã Tân Liên
Xã Tân Hợp
Thị trấn Khe Sanh
Tổng

Diện tích (ha)
19,9
12
21
52,9
6

Tỷ lệ (%)
37,6
22,7
39,7
100

Số mẫu (hộ)
34
20
36
90


Phương pháp bảng câu hỏi điều tra: Sau khi số mẫu nghiên cứu được xác định,
nghiên cứu tiến hành phỏng vấn điều tra các tác nhân tham gia trong chuỗi. Việc điều
tra được thực hiện phỏng vấn trực tiếp bằng phiếu điều tra đã được thiết kế sẵn. Nội
dung phiếu điều tra gồm những phần chính sau:
- Thông tin chung về tình hình cơ bản của hộ điều tra: tuổi, giới tính, trình độ văn

hóa, nghề chính, nghề phụ, số nhân khẩu, thu nhập...
- Thông tin cơ bản về tình hình đất đai, tư liệu sản xuất, vốn và cung ứng đầu vào
cho hoạt động của các tác nhân.
- Thông tin về thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm hồ tiêu.
- Thông tin về chi phí đầu tư và lợi nhuận.
- Thông tin đánh giá mức độ liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi.
- Mục thông tin đề xuất, kiến nghị để cải thiện sự liên kết giữa các tác nhân trong
chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu, phần này sử dụng thang đo Likert từ 1-5 điểm, trong đó 1
là điểm số ít quan trọng nhất và 5 là điểm số quan trọng nhất cần cải thiện trong chuỗi.
4.4. Phương pháp phân tích số liệu
4.4.1. Phân tích chi phí, lợi nhuận
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả và thống kê so sánh để tổng
hợp và phân tích số liệu. Phân tích chi phí, lợi nhuận, được cụ thể hóa bằng cách áp
dụng các chỉ tiêu kinh tế phổ biến như: doanh thu, tổng chi phí, giá thành, lợi nhuận...
- Phương pháp thống kê mô tả: Để phân tích những đặc điểm tự nhiên, KT-XH
chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến quá trình hoạt động trong chuỗi cung sản
phẩm hồ tiêu.
- Phương pháp thống kê so sánh: Dùng để so sánh các chỉ tiêu biến động theo
thời gian và không gian. Cụ thể so sánh biến động diện tích, năng suất, sản lượng hồ
tiêu qua các năm.

7


Hồ tiêu là cây lâu năm nên các tính toán về chi phí sản xuất được tách ra thành
hai thời kỳ riêng biệt là: Thời kỳ KTCB và Thời kỳ kinh doanh. Chi phí đầu tư cho thời
kỳ KTCB được khấu hao và áp dụng cho các năm thu hoạch trong suốt quá trình sống
của cây hồ tiêu. Cây hồ tiêu thường bắt đầu cho trái sau 3-4 năm trồng. Tuy nhiên, thời
điểm thực sự bắt đầu cho trái ổn định là năm thứ 4 trở đi. Do đó, trong nghiên cứu này,
đầu tư thời kỳ kiến thiết cơ bản trong quá trình trồng cây hồ tiêu được tính cho 3 năm

đầu tiên. Các chi phí đầu tư khi khảo sát tại thời điểm điều tra được quy về giá năm
2015 để tính toán.
Về mặt kỹ thuật, cây hồ tiêu có tuổi thọ khoảng 30-40 năm. Tuy nhiên xét theo
quan điểm kinh doanh, đối với những cây công nghiệp lâu năm như: cà phê, điều, hồ
tiêu, cao su... thì thời gian khấu hao cơ bản thường là 20-30 năm. Trong nghiên cứu
này, thời gian tính khấu hao cơ bản cho cây hồ tiêu là 25 năm.
Số liệu điều tra được phân tích bằng phần mềm Microsoft Excel và SPSS.
4.4.2. Phân tích ma trận S.W.O.T
Phân tích ma trận S.W.O.T được thực hiện với mục đích tổng hợp các yếu tố bên
trong và các yếu tố bên ngoài của đối tượng nghiên cứu bao gồm: điểm mạnh, điểm
yếu, cơ hội và nguy cơ của mỗi tác nhân cũng như của toàn bộ nghành hàng, để cải
thiện chuỗi cung và đề ra các định hướng phát triển.

Bảng 1.2: Mô hình phân tích S.W.O.T
S.W.O.T

Cơ hội (O)
SO: Giải pháp công kích
Điểm mạnh
(Tận dụng điểm mạnh
(S)
để theo đuổi cơ hội)
WO: Giải pháp điều chỉnh
Điểm yếu
(Tận dụng cơ hội
(W)
để khắc phục điểm yếu)
8

Thách thức (T)

ST: Giải pháp thích ứng
(Tận dụng điểm mạnh
để hạn chế những đe dọa có thể xảy ra)
WT: Giải pháp phòng thủ
(Đưa ra các hoạt động chủ động
để khắc phục điểm yếu)


(Nguồn: Giáo trình kinh tế đầu tư, NXB Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội 2012)

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuỗi cung
Chương 2: Thực trạng chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu huyện Hướng Hóa, tỉnh
Quảng Trị
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi cung sản phẩm hồ tiêu trên
địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

PHẦN 2 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUỖI CUNG
1.1. Cơ sở lý luận về chuỗi cung
1.1.1. Khái niệm chuỗi cung
Khái niệm chuỗi cung ứng xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX. Chuỗi cung
ứng là sự liên kết các công ty nhằm đưa sản phẩm hay dịch vụ vào thị trường [25]. Như
vậy, chuỗi cung bao gồm mọi công đoạn có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến việc
9


đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung là một mạng lưới các lựa chọn sản xuất và
phân phối nhằm thực hiện các chức năng thu mua nguyên liệu, chuyển đổi nguyên liệu

thành bán sản phẩm và thành phẩm, phân phối chúng cho khách hàng [28].
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về chuỗi cung:
“Chuỗi cung ứng là hệ thống các công cụ để chuyển hóa nguyên liệu thô từ bán
thành phẩm tới thành phẩm, chuyển tới người tiêu dùng thông qua hệ thống phân
phối”[30]
“Chuỗi cung cấp là một mạng lưới gồm các tổ chức có liên quan, thông qua các
mối liên kết phía trên và phía dưới trong các quá trình và hoạt động khác nhau sản sinh
ra giá trị dưới hình thức sản phẩm dịch vụ trong tay người tiêu dùng cuối cùng” (Bài
giảng của GS. Souviron về quản trị chuỗi cung cấp).
“Chuỗi cung là một mạng lưới của các tổ chức có liên quan, thông qua các mối
liên kết dòng thượng nguồn và hạ nguồn, trong các quá trình và hoạt động khác nhau
nhằm tạo ra giá trị trong từng sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng”.[31]
Như vậy, có thể thấy rằng chuỗi cung thực chất là sự liên kết chuỗi các hoạt động
của những quá trình cung cấp hàng hóa từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng. Từ các
định nghĩa trên, chúng ta có thể nhận thấy nội hàm của khái niệm về chuỗi cung gồm 4
nội dung:
- Thành phần của chuỗi cung bao gồm hệ thống các tổ chức, con người tham gia
trực tiếp hay gián tiếp trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, là các mắt xích
đóng vai trò làm cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Các tổ chức ở đây
chính là các nhà cung cấp, các doanh nghiệp sản xuất, các nhà phân phối, bán lẻ và
khách hàng;
- Mối quan hệ đồng thời của các dòng chảy bên trong chuỗi cung gồm dòng thông
tin, dòng sản phẩm hay dịch vụ, dòng tài chính và dòng chuyển quyền sở hữu giữa các
tác nhân;

10


- Doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến việc đưa ra thị trường sản phẩm hay dịch
vụ gì, giá bao nhiêu mà còn quan tâm đến việc sản phẩm hay dịch vụ được đưa ra thị

trường bằng cách nào;
- Quá trình hoạt động của từng tác nhân là nhằm tạo ra giá trị trong từng sản
phẩm và dịch vụ cho khách hàng.
Chuỗi cung là “hệ thống của cách thức tổ chức, con người, công nghệ, hoạt
động, thông tin và các nguồn lực liên quan trong việc đưa sản phẩm hay dịch vụ từ
người sản xuất đến người tiêu dùng. Các họat động của chuỗi cung chuyển đổi
nguồn tài nguyên tự nhiên, nguyên liệu thô và các thành phần thành những sản
phẩm hoàn chỉnh và tổ chức đưa sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng” [6].
Đây không phải là một khái niệm quá mới, khái niệm này đã được sử dụng một
cách rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau như quản lý hoạt động, marketing, quản
lý chiến lược, lý thuyết tổ chức và hệ thống thông tin quản lý. Tuy nhiên, việc áp
dụng khái niệm này trong phân tích những sản phẩm nông nghiệp hay phát triển
nông thôn hầu như còn khá mới mẻ và hạn chế [25].
1.1.2. Mục tiêu của phân tích chuỗi cung
Mục tiêu của phân tích chuỗi cung có 2 phần:
- Loại bỏ hoàn toàn những lãng phí tìm thấy ở bất cứ đâu trong mạng lưới kênh
cung ứng.
- Tối ưu hoá dòng giá trị khách hàng từ những thiết kế sản phẩm cao nhất đến ưu
việt nhất.
Thứ nhất, chuỗi cung sẽ tạo ra giá trị cho khách hàng ở mỗi điểm tiếp xúc. Và
như vậy sẽ đảm bảo cho công ty cũng như mạng lưới các đối tác trong chuỗi cung có
thể tạo ra sự khác biệt sâu sắc với đối thủ của mình.
Thứ hai, mục tiêu của phân tích chuỗi cung là để tối đa hóa giá trị tạo ra cho toàn
hệ thống. Giá trị tạo ra của chuỗi cung là sự khác biệt giữa giá trị của sản phẩm cuối
cùng đối với khách hàng và nỗ lực mà chuỗi cung dùng vào việc đáp ứng nhu cầu của
11


khách hàng. Đối với đa số các chuỗi cung thương mại, giá trị liên quan mật thiết đến
lợi ích của chuỗi cung, sự khác biệt giữa doanh thu mà khách hàng phải trả đối với việc

sử dụng sản phẩm và tổng chi phí của cả chuỗi cung. Lợi nhuận của chuỗi cung là tổng
lợi nhuận được chia sẻ xuyên suốt chuỗi. Lợi nhuận của chuỗi cung càng cao chứng tỏ
sự thành công của chuỗi cung càng lớn. Thành công của chuỗi cung nên được đo lường
dưới góc độ lợi nhuận của chuỗi chứ không phải đo lường lợi nhuận ở mỗi giai đoạn
riêng lẻ. Vì vậy, trọng tâm không chỉ đơn giản là việc giảm thiểu đến mức thấp nhất chi
phí vận chuyển hoặc cắt giảm tồn kho mà hơn thế nữa chính là vận dụng cách tiếp cận
hệ thống vào chuỗi cung.
Những lợi ích chính của việc theo đuổi chuỗi cung có thể được tóm lược như sau:
một chuỗi cung tốt sẽ tạo ra những khác biệt rõ rệt so với đối thủ cạnh trạnh. Lợi ích
này còn được phân chia trên hai lĩnh vực cụ thể: hiệu quả tài chính và lợi thế cạnh
trạnh.
Hiệu quả tài chính: chuỗi cung giúp các đối tác trong đó tăng lợi nhuận và thu hút
bên liên quan bằng cách tập trung trực tiếp vào nguồn lực thực sự của doanh thu và lợi
nhuận, đó chính là khách hàng.
Lợi thế cạnh tranh: Ngoài lợi ích về hiệu quả tài chính, việc xây dựng quan hệ
mật thiết với khách hàng có thể cải thiện rõ ràng vị thế cạnh tranh.

1.1.3. Các thành phần cơ bản trong chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp
1.1.3.1. Cấu trúc của chuỗi cung
Với hình thức đơn giản nhất, một chuỗi cung bao gồm: công ty, các nhà cung cấp
và khách hàng của công ty đó. Một công ty sản xuất nằm trong “mô hình đơn giản”,
khi họ chỉ mua nguyên vật liệu từ một nhà cung cấp, sau đó tự làm ra sản phẩm của
mình rồi bán hàng trực tiếp cho người sử dụng. Ở đây, chỉ phải xử lý việc mua nguyên
vật liệu rồi sản xuất ra sản phẩm bằng một hoạt động và tại một địa điểm duy nhất.
12


Nhà cung cấp
Công ty
Khách hàng


Sơ đồ 1.1: Chuỗi cung đơn giản
(Nguồn: Micheal Hugos, 2003)[32]

Với chuỗi cung mở rộng, ngoài 3 thành viên trên còn có thêm 3 thành viên khác
đó là: nhà cung cấp của các nhà cung cấp, khách hàng của các khách hàng, và toàn bộ
các công ty cung cấp dịch vụ cho các công ty trong chuỗi cung. Các công ty cung cấp
dịch vụ này sẽ cung cấp dịch vụ hậu cần, tài chính, tìm hiểu thị trường, thiết kế sản
phẩm và công nghệ thông tin cho các công ty khác nhau trong chuỗi cung.
Nhà
cung cấp
Nhà
cung cấp
Công ty
Khách hàng
Khách hàng
Nhà cung cấp dịch vụ

13


Sơ đồ 1.2: Chuỗi cung mở rộng
(Nguồn: Micheal Hugos, 2003)[32]

Các chuỗi cung theo sơ đồ 1.2 đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các doanh nghiệp
thực hiện nhiều chức năng khác nhau trong chuỗi cung. Các doanh nghiệp này chính là
nhà sản xuất, nhà phân phối hay nhà bán buôn, bán lẻ hàng hóa và các công ty hoặc cá
nhân đóng vai trò là khách hàng - những người tiêu dùng thực sự. Các doanh nghiệp
này được hỗ trợ bởi các nhà cung cấp các dịch vụ thiết yếu.
Nhà sản xuất là những đơn vị trực tiếp làm ra sản phẩm, nó có thể chuyên sản xuất

nguyên vật liệu thô cũng như sản xuất những sản phẩm hoàn chỉnh. Nhà sản xuất nguyên
liệu thô là các công ty khai khoáng, khai thác dầu và khí đốt, các nông trại chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản.
Nhà phân phối là các doanh nghiệp mua một khối lượng lớn hàng hóa lưu kho từ
nhà sản xuất và phân phối sỉ các dòng sản phẩm đến khách hàng. Nhà phân phối còn
được gọi là nhà bán sỉ hay bán buôn, đặc điểm nổi bật của họ là bán sản phẩm cho các
doanh nghiệp khác với số lượng lớn hơn một người tiêu dùng thường mua. Nhà phân
phối giúp nhà sản xuất tránh được những tác động ảnh hưởng tiêu cực từ thị trường
bằng cách lưu trữ hàng hóa và đồng thời tiến hành nhiều công tác bán hàng nhằm mục
đích tìm kiếm và phục vụ khách hàng. Nhà phân phối thực hiện chức năng “Thời gian
và địa điểm” cho khách hàng mọi lúc, mọi nơi mà khách hàng yêu cầu về sản phẩm.
Cùng với việc mua sản phẩm, thúc đẩy công tác bán hàng và tăng doanh thu, nhà phân
phối còn đảm nhận một chức năng khác là quản lý hệ thống hàng hóa lưu kho, điều
hành kho hàng, vận chuyển hàng hóa cũng như đảm nhận thêm công tác hỗ trợ khách
hàng và cung cấp dịch vụ hậu mãi. Nhà phân phối có thể chỉ thực hiện một việc duy
nhất là môi giới sản phẩm của nhà sản xuất với khách hàng mà họ không bao giờ sở
hữu nó. Chức năng chủ yếu của nhà phân phối kiểu này là xúc tiến và bán hàng. Trong
cả hai trường hợp này, do sự thay đổi không ngừng trong nhu cầu của khách hàng và cả
14


sự thay đổi về chủng loại hàng hóa, nhà phân phối đóng vai trò là một đại lý liên tục
nắm bắt thị hiếu, nhu cầu của khách hàng rồi đáp ứng họ với những sản phẩm sẵn có.
Nhà bán lẻ trữ hàng hóa trong kho và bán với số lượng nhỏ cho khách hàng nói
chung. Nhà bán lẻ cũng nắm bắt đầy đủ những thông tin về sở thích và nhu cầu của
khách hàng mà mình phục vụ, thực hiện việc quảng cáo sản phẩm cho khách hàng, trên
cơ sở kết hợp giá cả hợp lý, sản phẩm đa dạng, phong phú, dịch vụ tận tình chu đáo với
sự thuận tiện nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng đến với sản phẩm của mình.
Khách hàng hay người tiêu dùng là bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào thực hiện
hành vi mua và sử dụng hàng hóa. Một khách hàng có thể mua một sản phẩm và sau đó

bán chúng cho những khách hàng khác. Hay khách hàng có thể là người sử dụng cuối
cùng của một sản phẩm, mua hàng với mục đích chỉ để sử dụng, chứ không bán lại.
Nhà cung cấp dịch vụ là những cá nhân hay tổ chức cung cấp dịch vụ cho nhà sản
xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ chỉ tập trung vào
một công việc đặc thù mà các tác nhân trong chuỗi cung đòi hỏi và chuyên sâu vào
những kỹ năng đặc biệt để phục vụ cho công việc đó. Nhờ vậy, họ thực hiện những
dịch vụ này hiệu quả hơn nhiều so với nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà
bán lẻ hay cả người tiêu dùng tự đảm nhận với mức giá phải chăng. Đó là những công
ty vận tải, dịch vụ lưu kho hàng hóa, dịch vụ tài chính, công nghệ thông tin...
Chuỗi cung bao gồm nhiều đối tượng tham gia và những đối tượng này được chia
thành một hay nhiều nhóm. Điều cần thiết của chuỗi cung là duy trì tính tương đối ổn
định theo thời gian. Những gì thay đổi chính là sự tác động vào vai trò của các đối
tượng tham gia trong chuỗi cung. Mỗi sản phẩm có nhiều chuỗi cung, mỗi chuỗi cung
đều nhằm đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhanh nhất và giữa các chuỗi cung có
sự cạnh tranh với nhau.
Trong thực tế, đa số các doanh nghiệp được cung cấp nguyên vật liệu từ nhiều
nhà cung cấp khác nhau và phân phối sản phẩm thông qua một hay nhiều khách hàng
khác nhau tạo nên cấu trúc mạng lưới mỗi chuỗi cung sản phẩm cụ thể khác nhau,
15


chiều dài và độ rộng chuỗi cung phụ thuộc và chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố như: yêu
cầu của khách hàng, xu hướng chung của nền kinh tế, sự sẵn sàng của dịch vụ hậu cần,
yếu tố văn hóa, tốc độ đổi mới, sự cạnh tranh, thị trường và sự sắp xếp về tài chính.
Như đã đề cập ở trên, chuỗi cung hiếm khi tồn tại mà không là một phần của mạng lưới
chuỗi cung tổng thể.
Nhà cung cấp
Nhà sản xuất
Nhà sản xuất
Nhà cung cấp

Nhà cung cấp
Nhà sản xuất
Nhà sản xuất
Nhà bán lẻ
Nhà bán lẻ
Nhà bán lẻ
Người tiêu dùng
Người tiêu dùng
Người tiêu dùng
Người tiêu dùng

Nhà sản xuất

Sơ đồ 1.3: Mạng lưới chuỗi cung tổng thể
(Nguồn: FAO, 2007)[27]
16


Sơ đồ 1.3 mô tả mạng lưới chuỗi cung tổng thể hoàn chỉnh, mỗi doanh nghiệp đặt
trong một lớp mạng và thuộc về ít nhất một chuỗi cung. Các tác nhân khác trong mạng
ảnh hưởng đến hiệu suất của chuỗi, do đó những gì xảy ra trong giao dịch giữa hai
doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào hai đối tác liên quan mà còn trên các kết quả
của các mối quan hệ khác trong chuỗi và mạng lưới chuỗi cung tổng thể. Các tổ chức
có thể đóng vai trò khác nhau trong các thiết lập chuỗi khác nhau, có thể là hợp tác
hoặc là đối thủ cạnh tranh của nhau.
Chuỗi cung là một chuỗi những quá trình mà nó cung cấp hàng hóa từ người này
sang người khác. Một chuỗi cung là mạng lưới của những sự lựa chọn từ việc sản xuất
đến phân phối. Chúng bao gồm những chức năng như: mua sắm vật tư, vận chuyển
những vật tư này đến các sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng, phân phối
những sản phẩm cuối cùng đến tận tay người tiêu dùng.

1.1.3.2. Các tác nhân trong chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp

17


Sơ đồ 1.4: Chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp
(Nguồn: Tài liệu tập huấn dự án IFAD/GIZ)[10]

Tác nhân của chuỗi cung chính là các chủ thể tham gia trong các khâu của chuỗi.
Trong một chuỗi, tùy vào tính chất và quy mô của chuỗi, số lượng các tác nhân theo đó
có thể ít hay nhiều. Trong chuỗi cung sản phẩm nông nghiệp, có thể chia thành các
nhóm cơ bản là: Tác nhân sản xuất, tác nhân thu gom, tác nhân chế biến, tác nhân
thương mại. Ngoài các tác nhân chính tham gia trong chuỗi còn có các tác nhân cung
cấp đầu vào cho tất cả các khâu trong chuỗi và các nhà hỗ trợ chuỗi.
 Nhà cung cấp đầu vào
Đây là tác nhân đầu tiên trong chuỗi cung, cũng là tiền đề tạo ra các sản phẩm
hàng hóa chất lượng cao. Nó bao gồm việc cung ứng và quản lý hiệu quả các yếu tố cơ
bản về: quỹ đất, nguồn nước, giống, vật tư, chuyển giao kỹ thuật, nhân công và nguồn
18


vốn. Các công ty, hợp tác xã, hiệp hội, hệ thống các đơn vị khuyến nông từ Tỉnh đến cơ
sở, Phòng NN&PTNT huyện hay các cá nhân có thể đứng ra đảm nhiệm việc cung cấp
các yếu tố đầu vào cho người sản xuất nhằm tối ưu hóa quá trình sản xuất, giảm các chi
phí đầu vào, tạo được lợi thế về chi phí thấp trong cạnh tranh.
 Nhà sản xuất
Nhà sản xuất là lực lượng tạo ra sản phẩm cơ bản ban đầu, cũng là dòng giá trị
gia tăng đầu tiên trong chuỗi cung. Nhà sản xuất có thể là các cá nhân, hộ gia đình,
công ty, doanh nghiệp hay hợp tác xã. Tính chất tổ chức của nhà sản xuất phụ thuộc
vào từng ngành hàng, vào điều kiện sản xuất và môi trường sản xuất kinh doanh hoạt

động. Họ có những đặc trưng khác nhau về quy mô, nguồn vốn, kỹ thuật và các nguồn
lực khác. Do tính đa dạng của người sản xuất, cách thức tổ chức sản xuất và sự liên kết
của họ cũng khác nhau, vì vậy tạo ra những đặc trưng riêng về từng ngành hàng.
 Tác nhân tiêu thụ
Tác nhân tiêu thụ bao gồm: Nhà thu gom, sơ chế, chế biến và thương mại. Hoạt
động thu gom sản phẩm nông nghiệp được xem là hoạt động quan trọng, kết nối người
sản xuất cá thể với cơ sở chế biến và thị trường. Hệ thống thu gom sản phẩm nông
nghiệp có mạng lưới phát triển rộng, đảm bảo chức năng thu mua sản phẩm cho nông
dân. Mối quan hệ ràng buộc giữa người thu gom và người sản xuất không những đảm
bảo cho việc lưu thông sản phẩm mà còn góp phần tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm
thông qua quá trình trao đổi, mua bán.
Cơ sở chế biến góp phần quan trọng để sản phẩm có được giá trị cao bằng các
hoạt động từ sơ chế đến chế biến sản phẩm ban đầu thành những thành phẩm khác
nhau đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng cuối cùng. Bên cạnh chế biến, các vấn đề
thương hiệu, đóng gói và bảo quản sản phẩm cần được quan tâm vì chúng không
những bảo vệ được sản phẩm mà còn góp phần tạo ra sự khác biệt và phân biệt của
khách hàng. Để tạo ra sự nhận biết trong tâm trí người tiêu dùng, các nhà sản xuất cần
19


đầu tư thích đáng cho hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu bởi chỉ khi có một
thương hiệu đủ mạnh, sản phẩm mới có thể đứng vững trên thị trường và tạo ra được
giá trị gia tăng lớn cho các nhà sản xuất.
Vận chuyển, phân phối, bán hàng là các hoạt động đầu ra nhưng lại quyết định
các yếu tố đầu vào của chuỗi. Toàn bộ chuỗi cung phụ thuộc vào khâu vận chuyển,
phân phối, bán hàng. Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố hội nhập và liên kết đa
chiều diễn ra mạnh mẽ nên khi sản phẩm bán được, lượng tồn kho ít nhất mới tạo ra
động lực kích thích sản xuất. Để gia tăng giá trị cho sản phẩm, nhà sản xuất cần tìm
kiếm và ký kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với hệ thống phân phối và bán hàng tại
thị trường có khả năng tiêu thụ lớn trong nước và quốc tế.

 Người tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng có vai trò quan trọng bởi quyết định
chi tiêu hằng ngày, họ sẽ quyết định một phần lớn đến việc sản xuất hàng hóa và dịch
vụ. Nguyên tắc trong nền kinh tế thị trường là tiêu dùng quyết định sản xuất. Người
tiêu dùng cuối cùng không tạo ra giá trị cho sản phẩm nhưng trong chuỗi cung sản
phẩm, việc xác định cụ thể người tiêu dùng cuối cùng của chuỗi có vai trò quyết định
sự thành công của một chuỗi bởi khi ta không biết họ là ai, ở đâu, họ muốn mua sản
phẩm gì, mua bao nhiêu, mua ở đâu và mua như thế nào thì không thể dự báo, định vị
được sản phẩm làm ra để tổ chức các hoạt động sản xuất, tiêu thụ.
1.1.3.3. Dòng thông tin trong chuỗi cung
Với nguyên tắc tiêu dùng quyết định các vấn đề sản xuất trong nền kinh tế thị
trường, hệ thống thông tin và thông tin thị trường có vai trò quyết định làm tăng giá trị
trong chuỗi cung sản phẩm. Dòng thông tin về nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, định
hướng tiêu dùng giúp cho các tác nhân trong chuỗi cung từ người sản xuất đến người
chế biến tạo ra được những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngược lại, dòng
20


thông tin từ sản xuất đến thị trường cũng giúp nhà quản trị chuỗi nắm được tình hình
sản xuất của các đối thủ cạnh tranh, dòng sản phẩm thay thế để có chiến lược phát triển
chuỗi hiệu quả nhất. Bên cạnh đó dòng thông tin trong hệ thống giúp cho việc quản trị
tồn kho, theo dõi bán hàng, định giá sản phẩm, bán sản phẩm, đáp ứng các yêu cầu
dịch vụ khách hàng để tạo ra nhiều giá trị hơn.
Khi nghiên cứu dòng thông tin trong chuỗi, vấn đề quan trọng là xem xét mức độ
lưu thông, truyền tải thông tin giữa các tác nhân trong chuỗi được thực hiện như thế
nào. Khi dòng thông tin được minh bạch, rõ ràng và thông suốt thì các quyết định sản
xuất và tiêu dùng được gắn kết chặt chẽ. Ngược lại, nếu dòng thông tin bị nghẽn hay bị
bóp méo tại một khâu nào đó trong chuỗi, các quyết định sản xuất và tiêu dùng sẽ khó
có sự gắn kết với nhau. Điều này sẽ ảnh hưởng đến quá trình phân phối giá trị và tính
bền vững của chuỗi.

Thông tin trao đổi lên xuống trong chuỗi, nó liên kết các nhà cung cấp và các
khách hàng trung gian với nhu cầu thị trường như dạng sản phẩm, số lượng và chất
lượng yêu cầu, liên kết thị trường. Một chuỗi cung bao gồm luồng sản phẩm dịch vụ từ
nhà cung cấp tới nhà sản xuất, nhà phân phối, nhưng cũng bao gồm luồng thông tin, tài
chính và sản phẩm theo cả hai hướng thuận và nghịch.
1.1.3.4. Quá trình tạo ra giá trị trong chuỗi cung
Giá trị gia tăng được tạo ra bởi các tác nhân của từng khâu trong chuỗi. Theo
dòng lưu chuyển của sản phẩm, khi đi qua một khâu trong chuỗi, sản phẩm tạo ra được
giá trị mới và giá trị mới tạo ra được gọi là giá trị gia tăng.
Đối với người sản xuất, khi sử dụng các yếu tố đầu vào, công lao động, vật tư tác
động vào sản xuất để làm ra sản phẩm; giá trị thu nhập tạo ra là hiệu số giữa giá trị gia
tăng có được với chi phí khấu hao tài sản cố định và các chi phí lao động trong quá
trình sản xuất; hiệu số này có giá trị dương càng lớn thì thu nhập của người sản xuất
càng cao. Đối với chế biến và thương mại, từ sản phẩm ban đầu, qua quá trình chế tạo
ra sản phẩm mới có giá trị cao hơn; sản phẩm lại tăng thêm giá trị trong quá trình
21


chuyển từ nơi sản xuất đến nới tiêu thụ cuối cùng và bán được cho người tiêu dùng.
Mức độ tạo ra được giá trị thường được tính theo cách cứ bỏ ra một đồng vốn vào sản
xuất, lưu thông thì sẽ thu được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng; tỷ suất này càng cao thì
giá trị tạo ra càng lớn.
Trong chuỗi, các bên tham gia chính là các tác nhân hoạt động trên mọi cấp độ
của chuỗi, bao gồm những người cung cấp sản phẩm đầu vào, người sản xuất, người
thu gom, các công ty chế biến, các đại lý vận tải, người phân phối, tiêu thụ và đại diện
của các đơn vị hỗ trợ, các trường, viện... những người đóng vai trò thúc đẩy chuỗi.
Đối với doanh nghiệp có thể hoạt động tại bất cứ vị trí nào trong chuỗi đầu vào,
sản xuất, chế biến, phân phối hay bán lẻ. Ở bất cứ vị trí nào trong chuỗi, các nguyên tắc
tạo giá trị vẫn tương tự nhau. Trước tiên doanh nghiệp sẽ phải có một hệ thống nguồn
lực có thể sử dụng để tạo ra giá trị. Các nguồn lực này có thể là vật chất hay tự nhiên,

vốn và nhân lực. Khả năng tận dụng tối đa các nguồn lực này của doanh nghiệp tùy
thuộc vào khả năng cải tiến của doanh nghiệp đó.
Như vậy, quá trình tạo ra giá trị trong chuỗi phụ thuộc vào các khâu với mối liên
kết hữu cơ về chất lượng, số lượng, công nghệ vào quá trình quản trị chiến lược, quản
trị sản xuất trong chuỗi nhằm làm cho sản phẩm đáp ứng được nhu cầu người tiêu thụ
và bán được giá cao.
1.1.3.5. Quá trình vận chuyển sản phẩm
Quá trình vận chuyển sản phẩm trong chuỗi cung bao gồm: tiếp nhận, lưu kho
nguyên vật liệu thô sau đó phân phối chúng đến các nhà máy sản xuất theo yêu cầu và
việc lưu kho, phân phối các sản phẩm sau thu hoạch, chế biến. Đây là quá trình chu
chuyển từ người sản xuất đầu tiên đến người tiêu dùng cuối cùng trong chuỗi sản phẩm
với các chức năng chính là quản lý vận chuyển, mua bán, lưu kho. Như vậy, quá trình
vận chuyển sản phẩm trong chuỗi có vai trò quan trọng trong kết nối và chu chuyển sản
phẩm hữu hiệu giữa các khâu trong chuỗi nhằm có được số lượng sản phẩm cần thiết ở
đúng thời điểm thíc hợp và chi phí tiết kiệm nhất, tạo cơ sở gia tăng giá trị sản phẩm.
22


1.1.3.6. Quá trình chi trả
Quá trình chi trả của các tác nhân trong chuỗi bao gồm: chi cho các yếu tố đầu
vào của quá trình sản xuất, chế biến, lưu thông và thương mại ứng với mỗi khâu, mỗi
hoạt động và mỗi tác nhân tham gia khác nhau.
Hoạt động chi trả kết thúc khác nhau ở mỗi khâu tùy vào dòng chu chuyển của
một sản phẩm trong chuỗi từ khi mới hình thành cho đến người tiêu dùng cuối cùng.
Tại mỗi khâu, tác nhân tham gia sẽ nhận được phần doanh thu từ sản phẩm, sau khi chi
trả các loại chi phí trung gian và các khoản chi phí khác như lao động, lãi vay, khấu
hao tài sản, vận chuyển, lưu kho... tác nhân sẽ thu được khoản lợi nhuận của mình.
Lợi nhuận của các tác nhân ở mỗi khâu khác nhau là rất khác nhau tùy vào mức
độ tập trung về số lượng cũng như việc áp dụng công nghệ, kỹ năng quản trị như thế
nào. Vì vậy, để đảm bảo chuỗi phát triển bền vững, các nhà vận hành cần xem xét điều

tiết việc chi trả lợi nhuận hài hòa giữa các tác nhân nhằm đảm bảo các mối liên kết chặt
chẽ và bền vững trong chuỗi.
1.1.4. Chức năng của chuỗi cung
Các chuỗi cung có một số chức năng hỗ trợ quá trình tạo ra giá trị. Đó là:
- Công tác hậu cần và việc bảo quản sản phẩm.
- Quản lý thông tin.
- Thống nhất các tiến trình thông qua việc quản lý các mối quan hệ.
Trong quá trình tạo ra giá trị, các chuỗi cung có chức năng hậu cần. Trong đó, các
sản phẩm được chuyển từ một điểm ở chuỗi này sang điểm kế tiếp có hiệu quả về mặt
thời gian và chi phí, trong khi vẫn đảm bảo duy trì được chất lượng sản phẩm trong quá
trình đóng gói và vận chuyển.
Thông tin trao đổi lên xuống trong chuỗi. Nó liên kết các nhà cung cấp và các khách
hàng trung gian với nhu cầu thị trường như dạng sản phẩm, số lượng và chất lượng yêu
cầu và các liên kết thị trường với nhà cung cấp (số lượng và chất lượng có sẵn).
Các chuỗi cung cũng có chức năng điều phối các quy trình hoạt động trong chuỗi.
23


Việc này có thể được thực hiện bằng 2 cách. Cách thứ nhất là khi người dẫn đầu chuỗi
thực hiện nhiều quy trình ví dụ như sản xuất, chế biến và phân phối đồng thời cũng duy
trì được quyền làm chủ sản phẩm. Cách này là hợp nhất theo chiều dọc. Theo cách thứ
hai, các tiến trình dọc chuỗi được điều phối thông qua việc quản lý các quan hệ của
nhiều bộ phận khi sản phẩm được chuyển xuống dưới chuỗi. Trong hầu hết các trường
hợp nhưng không phải bao giờ cũng vậy, những quan hệ đó có liên quan đến những
thay đổi về quyền sở hữu sản phẩm.
1.1.5. Định hướng và kiểm soát chuỗi cung
Các chuỗi được điều hành bởi một hay hai người đứng đầu chuỗi (được gọi là hoa
tiêu hay trưởng chuỗi), người này xác định nhu cầu của thị trường và điều phối các
nguồn của chuỗi để đáp ứng nhu cầu đó. Những người lãnh đạo chuỗi đặt ra những tiêu
chuẩn kiểm soát các quy trình và dòng thông tin trong chuỗi. Họ được hưởng lợi từ các

chức năng đó.
Các chuỗi hay các bộ phận trong chuỗi có thể là hợp tác hay cơ hội trong hoạt
động, với định hướng được quy định bởi các sức mạnh kinh tế cơ bản điều khiển ngành
hoạt động.
Các chuỗi hợp tác có khuynh hướng ổn định, có những người tiêu dùng trung
thành và cam kết dài hạn giữa các thành viên trong chuỗi cùng làm việc để đáp ứng
nhu cầu của người tiêu dùng này. Những chuỗi như vậy thực sự tuân theo thị trường và
có định hướng chuỗi cung, trong đó các thành viên trong chuỗi xem các tổ chức trên
hay dưới họ như những người đồng minh và xem những chuỗi cung khác cùng như
nhau như những đối thủ cạnh tranh.
Các thành viên trong chuỗi cơ hội thì ngược lại, có khuynh hướng xem các thành
viên của chuỗi trên hay dưới mình là những đối thủ cạnh tranh, vì thế không đảm bảo
được mức độ liên kết cao trong chuỗi. Những chuỗi như vậy phản ứng rất mạnh với thị
trường và nếu thị trường mà chúng hoạt động không ổn định thì bản thân các chuỗi cũng
sẽ không ổn định. Các thành viên trong chuỗi sẽ hợp nhất lại tạo thành một khối tận dụng
các cơ hội xuất hiện trên thị trường và nếu cơ hội này mất đi thì họ lại phân tán ra.
24


1.1.6. Mối liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi cung
 Mối liên kết theo chiều ngang
Liên kết ngang là liên kết giữa các tác nhân trong cùng một khâu, ví dụ liên kết
những người đang sản xuất, kinh doanh riêng lẻ để thành lập nhóm, tổ hợp tác nhằm
giảm chi phí sản xuất, tăng giá bán sản phẩm, tăng số lượng hàng bán...
Tạo lập được liên kết ngang có hiệu quả sẽ đem lại lợi ích to lớn cho các tác nhân
tham gia chuỗi sản xuất nhờ mang lại các lợi thế như: giảm chi phí sản xuất, kinh
doanh cho từng thành viên của tổ, nhóm, qua đó tăng lợi ích kinh tế cho từng thành
viên của tổ. Tổ, nhóm có thể ký hợp đồng bán sản phẩm hay sản xuất quy mô lớn, phát
triển sản xuất, kinh doanh một cách bền vững.
Một điều quan trọng khi thúc đẩy liên kết ngang là chuyển đổi tư duy về hình

thành quan hệ sản xuất phù hợp sự phát triển của lực lượng sản xuất; tránh áp đặt ý chí
chủ quan, thực hiện rập khuôn máy móc các quy định quản lý. Thành lập và hoạt động
tổ hợp tác, hợp tác xã phải xuất phát từ nhu cầu của người dân và tham gia vào tổ hợp
tác phải mang lại lợi ích kinh tế cho từng hộ.
 Mối liên kết theo chiều dọc
Liên kết dọc là liên kết giữa các tác nhân trong các khâu khác nhau của chuỗi, cụ
thể như tổ hợp tác liên kết với doanh nghiệp thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
Tạo lập được liên kết dọc có hiệu quả sẽ đem lại lợi ích to lớn cho các tác nhân
tham gia chuỗi sản xuất nhờ: giảm được chi phí chuỗi, có cùng tiếng nói hợp tác của
các tác nhân, người trong chuỗi, hợp đồng bao tiêu sản phẩm được bảo vệ bởi luật
pháp, thông tin thị trường được chia sẻ đều cho các tác nhân để điều chỉnh kế hoạch
sản xuất phù hợp và niềm tin phát triển chuỗi cao hơn.
Thúc đẩy liên kết dọc cần tập trung vào các biện pháp như: khuyến khích các tác
nhân trong chuỗi tham gia vào các hội chợ thương mại và tổ chức triển lãm nhằm tập
25


×