Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Nghiên cứu thực trạng sốt rét và đánh giá kết quả can thiệp phòng chống sốt rét tại một số xã biên giới của huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 137 trang )



1





Bộ giáo dục và đào tạo bộ quốc phòng
Học viện quân y



Bùi Quang Phúc


CAN THIP HểA Nghiên cứu cơ cấu ký sinh trùng sốt rét và
Plasmodium falciparum kháng thuốc bằng kỹ thuật
Polymerase Chain Reaction tại vùng sốt rét l-u hành nặng











2




- NMLuận án tiến sĩ Y học





Bộ giáo dục và đào tạo bộ quốc phòng
Học viện quân y



Bùi Quang Phúc

CAN THIP
HểA Nghiên cứu cơ cấu ký sinh trùng sốt rét và Plasmodium
falciparum kháng thuốc bằng kỹ thuật Polymerase Chain
Reaction tại vùng sốt rét l-u hành nặng





::703Ngi hng dn khoa hc
1. 2. - NM


3
Lời Cảm Ơn!


Tôi xin chân thành cám ơn Đại học Huế, Ban Giám hiệu, Phòng
sau đại học Trƣờng Đại học Y Dƣợc Huế. Cám ơn tất cả các Thầy, Cô đã dạy bảo
tôi trong suốt quá trình tôi đƣợc học đại học và sau đại học dƣới
mái trƣờng Đại học Y dƣợc Huế thân yêu để tôi có đƣợc kiến thức nhƣ ngày hôm
nay.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS. Nguyễn Văn Tập, PGS.TS. Lê Xuân
Hùng là những ngƣời thầy đã hƣớng dẫn, giúp đỡ, ngày đêm trăn trở cùng tôi trong
suốt quá trình làm luận án.
Tôi xin chân thành cám ơn PGS.TS Võ Văn Thắng, PGS.TS Đinh Thanh Huề,
PGS.TS Hoàng Trọng Sĩ và tập thể giảng viên, nhân viên khoa Y tế công cộng đã
giúp đỡ tận tình tôi trong thời gian tôi làm luận án.
Tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám đốc Sở Y tế, Trung tâm Y tế dự phòng
tỉnh Quảng Trị, các đồng nghiệp Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Quảng Trị đã cộng
tác, giúp đỡ và sẻ chia những khó khăn vất vả với tôi trong quá trình thực hiện đề
tài ở thực địa. Cám ơn Trung tâm y tế huyện Hƣớng Hoá, trạm y tế, nhân viên y tế
thôn và nhân dân 4 xã: Xy, Thuận, Thanh, A Xing đã nhiệt tình hợp tác trong quá
trình thực hiện đề tài nghiên cứu
Tôi xin gửi lời cám ơn Ban Quân y và các chiến sĩ quân y bộ đội biên phòng
tỉnh đã tham gia trực tiếp cùng chúng tôi điều tra sốt rét, giúp đỡ bạn Lào phòng
chống sốt rét.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Uỷ ban Y tế Hà Lan - Việt Nam đã giúp đỡ,
kết nối các hoạt động phối hợp điều tra sốt rét vùng biên giới giữa 2 tỉnh Quảng Trị
và Savannakhet.
Cám ơn sự phối hợp nhiệt tình có hiệu quả và tình cảm chân thành của Sở Y
tế, Trung tâm PCSR tỉnh Savannakhet đã phối hợp điều tra và phòng chống sốt rét
tại vùng biên giới giữa 2 tỉnh. Cám ơn sự hỗ trợ của các Giáo sƣ của trƣờng Đại học
Nagasaki, Đại học Ryukus đã giúp phân tích để tìm ra KSTSR mới tại Quảng Trị và
Savannakhet, Lào.
Lòng biết ơn sâu nặng tôi xin dành trọn vẹn cho gia đình, nơi hàng ngày tôi

nhận đƣợc sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ và mong mỏi cho tôi hoàn thành công
trình này.
Tác giả
Hoàng Hà






4


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan công trình này là nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là
trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác.


Tác giả




Hoàng Hà














5


ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh sốt rét hiện nay vẫn còn là một vấn đề sức khoẻ lớn trên thế giới nói
chung và tại Việt Nam nói riêng. Theo ƣớc tính của Tổ chức Y tế thế giới khoảng
40% dân số thế giới hiện nay đang sống trong vùng có nguy cơ mắc sốt rét. Hàng
năm có khoảng 350-500 triệu ngƣời mắc sốt rét và hơn 1 triệu ngƣời chết do sốt rét
[30]. Đến năm 2010 ƣớc tính trên thế giới có 216 triệu ngƣời mắc sốt rét và 655.000
ngƣời chết do sốt rét [122].
Vấn đề sốt rét biên giới đã đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới quan tâm nghiên cứu.
Đã có nhiều vụ dịch sốt rét đƣợc ghi nhận ở các vùng biên giới nhƣ ở các huyện của
Uganda nơi có biên giới với Tanzania và Rwanda, vùng biên giới của các nƣớc Ấn
Độ, Sri Lanka, Pakistan. Trong khu vực, vùng biên giới giữa các nƣớc Thái Lan -
Campuchia, Thái Lan-Myanmar luôn có tình hình sốt rét phức tạp [30].
Tại Việt Nam, theo số liệu báo cáo hàng năm của Chƣơng trình phòng chống
sốt rét Quốc gia nhiều tỉnh có mức độ lƣu hành sốt rét cao chủ yếu thuộc khu vực

Miền Trung - Tây Nguyên hầu hết các tỉnh có các xã, huyện có đƣờng biên giới với
Lào hoặc Campuchia đều có tỷ lệ bệnh nhân mắc sốt rét cao hơn so với các địa
phƣơng khác trong toàn quốc [28]. Bệnh sốt rét tuy đã giảm nhƣng có nguy cơ quay
trở lại lớn; đối tƣợng dễ mắc bệnh là những ngƣời sống ở vùng sâu, vùng xa và đặc
biệt là những ngƣời dân sống ở vùng biên giới giữa Việt Nam với Lào và
Campuchia. Tại các vùng này nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp, việc
nhiễm bệnh sốt rét chủ yếu thông qua giao lƣu tự do nên rất khó khăn trong việc
giám sát, phát hiện, điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét [42].
Quảng Trị là một tỉnh thuộc khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Tình hình sốt
rét của tỉnh tuy đã đƣợc cải thiện nhiều trong những năm qua nhƣng tỷ lệ mắc và
nguy cơ sốt rét vẫn còn cao. Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét, ký sinh trùng sốt rét/1.000 dân;
tỷ lệ tử vong do sốt rét/100.000 dân vẫn nằm trong số 6 tỉnh có tỷ lệ mắc sốt rét cao


6
nhất trong toàn quốc [74]. Tình hình dịch tễ sốt rét vùng biên giới giữa 2 tỉnh Quảng
Trị (Việt Nam) và Savanakhet (Lào) thƣờng diễn biến phức tạ
. Đặc biệt ở 12 xã thuộc vùng
Lìa của huyện Hƣớng Hoá giáp biên giới với Lào có tỷ lệ mắc sốt rét cao, có nhiều
ổ sốt rét trọng điểm nhƣ: xã Xy, xã Thanh [13], [18].
Hƣớng Hoá là một huyện trọng điểm sốt rét của tỉnh Quảng Trị , toàn bộ 22 xã
đều nằm trong vùng sốt rét lƣu hành nặng, có đƣờng biên giới dài 156 km giáp với
tỉnh Savanakhet (Lào). Theo báo cáo của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Quảng Trị
số bệnh nhân sốt rét hàng năm của huyện Hƣớng Hoá thƣờng chiếm trên 60% tổng
số bệnh nhân sốt rét của toàn tỉnh và số ký sinh trùng sốt rét luôn trên 50% tổng số
ký sinh trùng đƣợc phát hiện trong toàn tỉnh. Trong đó số bệnh nhân sốt rét đƣợc
phát hiện từ các xã biên giới luôn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số bệnh nhân sốt rét
toàn huyện [41].
Từ trƣớc đến nay các nghiên cứu về bệnh sốt rét ở nƣớc ta và ngay tại tỉnh
Quảng Trị vẫn tập trung vào dịch tễ sốt rét, phòng chống véc tơ [13], [14], kháng

thuốc sốt rét [42], [58], kiến thức-thái độ-thực hành [17], [41], xây dựng mạng lƣới
[12] và cũng đã đạt đƣợc nhiều kết quả về phòng chống bệnh sốt rét nhƣng vẫn còn
nhiều ổ bệnh dai dẵng chƣa đƣợc giải quyết triệt để do chƣa có một nghiên cứu nào
về mô hình về quản lý, giám sát, phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét ngay tại
hộ gia đình ở vùng biên giới.
Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia
đình ở vùng biên giới với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ sốt rét và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét tại
một số xã biên giới của huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị.
2. Đánh giá kết quả can thiệp phòng chống sốt rét tại một số xã biên giới.
Điểm mới của nghiên cứu này là:
Xây dựng mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng biên giới tỉnh
Quảng Trị với mục tiêu phát hiện, điều trị sớm và quản lý ca bệnh sốt rét tại nhà.
Phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới giữa 2 nƣớc Việt-Lào.


7
Phát hiện thêm về tác nhân gây bệnh sốt rét (KSTSR) mới ở tỉnh Quảng Trị.


8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH SỐT RÉT VÙNG BIÊN GIỚI
1.1.1. Tình hình mắc và chết do sốt rét trên thế giới
Theo số liệu thống kê của Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) đến năm 2009,
bệnh SR vẫn lƣu hành ở 108 quốc gia. Ƣớc tính có khoảng 225 triệu ngƣời mắc và
781 nghìn ngƣời chết do sốt rét (SR), riêng châu Phi chiếm 91%; Đông Nam Á 6%
[115]. Châu Mỹ có khoảng 1 triệu ngƣời mắc và khoảng 1 nghìn ngƣời chết. Khu

vực Đông Nam Á sốt rét lƣu hành ở hầu hết các nƣớc với 88% dân số trong tổng số
1.320 triệu ngƣời. Sốt rét trầm trọng hơn ở các nƣớc tiểu vùng sông Mê Kông nhƣ
Trung Quốc, Lào, Myanmar, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam [30]; có khoảng 24
triệu ngƣời mắc và khoảng 40 nghìn ngƣời chết, tính trung bình có 3.000 trẻ chết do
sốt rét ở Châu Phi mỗi năm, ƣớc tính 125 trẻ chết trong 1 giờ và 2 đứa trẻ chết trong
vòng 1 phút. Khu vực Tây Thái Bình Dƣơng có khoảng 2 triệu ngƣời mắc và
khoảng 3 nghìn ngƣời chết do sốt rét [30].
Mặc dù bệnh sốt rét đã đƣợc thanh toán ở nhiều nơi trên thế giới nhƣ Châu Âu,
Bắc Mỹ, một số nƣớc Bắc Á và bệnh SR cũng đã giảm nhiều ở một số nƣớc trong
đó có cả Việt Nam. Tuy vậy cho đến năm 2010 vẫn có 216 triệu ngƣời mắc sốt rét,
655.000 ngƣời chết do bệnh sốt rét, đặc biệt ở châu Phi (91%), Đông Nam Á (6%),
Địa Trung Hải (3%), khoảng 86% trẻ em dƣới 5 tuổi chết do sốt rét [115]. Ở các
nƣớc Châu Phi nhƣ Kenya, Uganda, Tanzania bệnh sốt rét luôn ở mức cao [88].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về sốt rét ở các dân tộc thiểu số vùng biên giới
Vấn đề sốt rét biên giới đã đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới quan tâm nghiên cứu.
Đã có nhiều vụ dịch sốt rét đƣợc ghi nhận ở các vùng biên giới nhƣ ở các huyện của
Uganda nơi có biên giới với Tanzania và Rwanda, vùng biên giới của các nƣớc Ấn
Độ, Sri Lanka, Pakistan [30]. Trong khu vực, vùng biên giới giữa các nƣớc Thái
Lan - Campuchia, Thái Lan - Myanmar luôn có tình hình sốt rét phức tạp, tỷ lệ mắc
sốt rét trong nhóm dân di cƣ và gia tăng tỷ lệ P. falciparum kháng thuốc khi họ trở


9
lại Campuchia để điều trị [112] và cũng đã có nhiều vụ dịch sốt rét xảy ra. Những
nghiên cứu về tình hình sốt rét của vùng biên giới giữa Thái Lan và Myanmar cho
thấy tỷ lệ mắc sốt rét cao ở những ngƣời dân di cƣ đến làm việc ở vùng biên giới
giữa 2 nƣớc này [112] đồng thời sốt rét là một vấn đề nghiêm trọng đối với 39,6%
số hộ gia đình đƣợc điều tra, ngƣời dân ở vùng này còn nghèo nên còn khó khăn,
thiếu thốn các nguồn phòng chống SR vì vậy ngƣời dân còn có nguy cơ mắc sốt rét
cao. Ở Thái Lan, sốt rét là một vấn đề nghiêm trọng ở biên giới [30]. Nghiên cứu

cũng cho thấy nơi ở của ngƣời dân ở trong rừng có nguy cơ mắc sốt rét cao 6,29
lần, không ở trong nhà trong vòng 7 ngày trƣớc thời điểm xét nghiệm máu có nguy
cơ mắc sốt rét cao 4,34 lần.
Một nghiên cứu của Xu J (1996) về sốt rét biên giới ở Trung Quốc cho thấy
vùng biên giới của tỉnh Vân Nam với Việt Nam, Lào và Myanmar có một số lƣợng
lớn bệnh nhân sốt rét ngoại lai là ngƣời dân tộc thiểu số với tỷ một tỷ lệ lớn bệnh
nhân nhiễm P. faciparum là do kết quả của việc di biến động dân cƣ đi lại làm ăn
giữa các tỉnh. Các kết quả nghiên cứu cho thấy còn tồn tại rất nhiều khó khăn, phức
tạp trong vấn đề quản lý sốt rét vùng biên giới do thói quen, tập quán lao động, sinh
hoạt, ngƣời dân giao lƣu qua lại biên giới nhiều. Giao thông đi lại tới các vùng biên
giới còn nhiều khó khăn nên việc tiếp cận với các dịch vụ y tế còn rất hạn chế và sự
khác nhau về việc áp dụng các biện pháp phòng chống trong Chƣơng trình PCSR
giữa các nƣớc có đƣờng biên giới chung.
Những kết quả và khó khăn trong phòng chống sốt rét tại vùng biên giới giữa
các nƣớc trên thế giới hiện nay nhƣ sau:
Tình hình ngƣời dân nhập cƣ và tỷ lệ mắc SR do qua lại vùng biên giới vẫn
không giảm do nhu cầu làm ăn kinh tế, buôn bán hàng lậu qua biên giới [122]. Vùng
biên giới lại là vùng rừng núi, sinh địa cảnh thuận lợi cho bệnh SR phát triển [30].
Việc phối hợp điều tra và phòng chống sốt rét (PCSR) tại vùng biên giới là rất
cần thiết [30] tuy nhiên hiện nay việc phối hợp PCSR tại vùng biên giới giữa các
nƣớc gặp phải khó khăn do nhiều nguyên nhân: thủ tục xuất nhập cảnh để thực hiện
các hoạt động chuyên môn về y tế; chính sách thực hiện các chƣơng trình y tế,
mạng lƣới y tế khác nhau ở mỗi nƣớc; vấn đề kinh phí chi trả cho các hoạt động y tế


10
ở nƣớc khác và nhiều khó khăn về chính trị, an ninh biên giới đã làm cho việc
phối hợp điều tra, đặc biệt việc phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới gần
nhƣ không thể thực hiện đƣợc. Việc phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên giới
giữa các nƣớc bị thất bại với các lý do nêu trên.

Vì vậy các nghiên cứu về sốt rét tại vùng biên giới phần lớn chỉ thực hiện ở
một một phía biên giới, các báo cáo cũng chỉ ghi nhận ở một phía và một số ít sốt
rét nhập cƣ bên kia biên giới sang mà họ ghi nhận đƣợc.
Từ trƣớc đến nay chƣa có một mô hình hợp tác phòng chống sốt rét tại vùng
biên giới nào đƣợc thực hiện. Mô hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình ở vùng
biên giới của nghiên cứu này là mới, nó bao gồm nội dung phối hợp phòng chống
sốt rét cả 2 bên biên giới của 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet (Lào).
1.1.3. Tình hình mắc và chết do sốt rét tại Việt Nam
Việt Nam đƣợc đánh giá là nƣớc đang áp dụng và duy trì các biện pháp PCSR
một cách hiệu quả.
Bảng 1.1. Tình hình sốt rét tại Việt Nam trong 5 năm từ 2006-2010

Chỉ số
2006
2007
2008
2009
2010
% giảm
2006/2010
Số BNSR
91635
70910
60547
60867
54296
- 40,75
Tỷ lệ mắc
SR/1000
1,08

0,83
0,70
0,69
0,62
- 42,59
Số KSTSR
22637
16389
11355
16130
17515
- 22,63
Tỷ lệ
KSTSR/1000
0,27
0,19
0,13
0,18
0,20
- 25,93
Số vụ dịch SR
1
1
1
0
1

Số chết SR
41
20

25
27
21
- 48,78
Tỷ lệ chết
SR/100.000
0,05
0,02
0,03
0,03
0,02
- 60,00
Kết quả thực hiện đến năm 2010, theo báo cáo của Dự án quốc gia PCSR nhƣ
sau. Tỷ lệ tử vong do SR đạt 0,02/100.000 dân, giảm 60% so với năm 2006. Năm


11
2010 có 21 ngƣời chết do SR so với 41 ngƣời chế 48,7%); Số
ngƣời chết do SR từ năm 2006-2009 giảm không ổn định. Tỷ lệ mắ
), giảm 42,6% so với năm 2006 [74].
Tình hình mắc và chết do sốt rét tại Miền Trung - Tây Nguyên từ 2006-2010.
So sánh 2010 với 2006 giữa miền Trung và Tây Nguyên thấy các chỉ số sốt rét
đều giảm, trong đó BNSR ở Tây Nguyên (-59,15%) giảm nhanh hơn miền Trung
(giảm 29,07%); Tử vong sốt rét tại Tây Nguyên (2 trƣờng hợp), miền Trung (6
trƣờng hợp); tỷ lệ KSTSR ở Tây nguyên giảm 53%, miền Trung tăng 5,11% [67].
Tình hình mắc và chết do sốt rét tại tỉnh Quảng Trị:
Xu hƣớng diễn biến mắc và chết do sốt rét ở Quảng Trị tƣơng tự ở khu vực
Miền Trung - Tây Nguyên. Số mắc sốt rét hàng năm từ 2006-2007 giảm chậm, năm
2009 có xu hƣớng tăng trở lại, chết do sốt rét không giảm.
Tình trạng ngƣời giao lƣu với vùng sốt rét ngày một nhiều, riêng tỉnh Quảng

Trị còn có đặc thù riêng khác biệt so với các tỉnh trong toàn quốc và khu vực đó là
dọc theo đƣờng biên giới của huyện Hƣớng Hoá và 2 huyện Sê Pôn, Nòng của tỉnh
Savannakhet (CHDCND Lào) có rất nhiều bản của cả 2 bên ở rất gần nhau, giao lƣu
qua lại để buôn bán thƣờng xuyên, nhiều ngƣời mắc sốt rét do qua lại biên giới,
hàng trăm BNSR từ Lào sang điều trị tại các xã biên giới của huyện Hƣớng Hoá.
1.1.4. Tình hình nghiên cứu và phòng chống sốt rét tại vùng biên giới Việt Nam
Việt Nam hiện nay có 25 tỉnh có biên giới đất liền với 3 nƣớc là Trung Quốc,
Lào và Campuchia. Hàng năm, số bệnh nhân mắc và chết do sốt rét tại các tỉnh có
biên giới đều cao hơn so với các tỉnh khác trong toàn quốc, trong đó tỷ lệ mắc sốt
rét ở các tỉnh giáp Campuchia là cao, sau đó đến các tỉnh giáp Lào [28]. Theo số
liệu thống kê năm 2007 của chƣơng trình Quốc gia PCSR cho thấy số BNSR của
các tỉnh biên giới tỷ lệ 63,7% tổng số BNSR của toàn quốc (45.191/70.910). Số
bệnh nhân chết do sốt rét ở các tỉnh này khoảng 70% tổng số chết do sốt rét toàn
quốc (14/20).
Một nghiên cứu của Lê Xuân Hùng (2007) về thực trạng, các yếu tố ảnh hƣởng
và biện pháp can thiệp sốt rét ở biên giới Việt Nam từ năm 2002 đến 2006 cho thấy


12
tỷ lệ mắc sốt rét hàng năm ở các tỉnh biên giới cao hơn so với các tỉnh không có
biên giới và so với cả nƣớc, tỷ lệ hiểu biết của ngƣời dân về bệnh sốt rét chỉ từ 63,3
đến 64,5% và số hộ dân có đủ màn nằm còn thấp từ 57% đến 65% [28]. Tại các
vùng biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia, giao lƣu biên giới làm cho
nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp, việc kiểm dịch biên giới tập trung
tại các cửa khẩu, nhƣng sự giao lƣu và nhiễm bệnh lại chủ yếu thông qua nhiều
đƣờng tiểu ngạch dọc theo biên giới nên rất khó khăn trong việc quản lý BNSR.
Hoàng Hà (2004) trong một điều tra cắt ngang tại xã Thanh cho thấy tỷ lệ mắc
sốt rét chung là 4,0% [16] và một điều tra khác tại 2 xã biên giới của huyện Hƣớng
Hoá tỉnh Quảng Trị (2006) cho thấy tỷ lệ hiện mắc ký sinh trùng sốt rét tại xã Xy
còn cao 10,8% [18]. Kết quả nghiên cứu của Đoàn Hạnh Nhân (2007) về thực trạng

sốt rét dai dẳng ở 2 huyện Hƣớng Hoá, Đakrông tỉnh Quảng Trị cho thấy bệnh sốt
rét lan truyền quanh năm đặc biệt tại các xã biên giới có lan truyền mạnh vào mùa
mƣa và tỷ lệ mắc sốt rét hàng năm luôn cao từ 17,1 - 38,7/1.000 dân [41], [42].
Những khó khăn trong phòng chống sốt rét tại vùng biên giới của Việt Nam
với các nước Trung Quốc, Lào và Campuchia
Hầu hết dân có nguy cơ mắc sốt rét của nƣớc ta, gần 16 triệu ngƣời (khoảng
40% dân số nguy cơ của cả nƣớc) đều sống ở các vùng rừng núi và có biên giới với
Trung Quốc, Lào và Campuchia [28]. Cũng nhƣ trên thế giới, việc nghiên cứu và
phòng chống SR do qua lại biên giới, tại vùng biên giới ở Việt Nam cũng gặp phải
những khó khăn, thất bại nói trên. Các kết quả nghiên cứu cũng mới chỉ dừng ở
mức báo cáo số liệu tỷ lệ mắc sốt rét của mỗi nƣớc, không đƣợc nghiên cứu cùng
một thời điểm, hoàn cảnh và cùng một nội dung, phƣơng pháp; không thực hiện
việc phối hợp PCSR tại vùng biên giới, chính vì vậy tình hình sốt rét tại các vùng
này vẫn cứ diễn biến phức tạp và dai dẳng không giải quyết đƣợc. Việc phối hợp
phòng chống sốt rét vùng biên giới cũng thực hiện ở Việt Nam và trên thế giới.
Chính vì vậy để giải quyết vấn đề khó khăn trên, nghiên cứu này thực hiện mô
hình phòng chống sốt rét tại hộ gia đình, phối hợp phòng chống sốt rét tại vùng biên
giới giữa 2 tỉnh Quảng Trị (Việt Nam) và Savannakhet (Lào).


13
1.2. DỊCH TỄ HỌC BỆNH SỐT RÉT
1.2.1. Định nghĩa về bệnh sốt rét
Bệnh sốt rét (SR) là một bệnh truyền nhiễm, do ký sinh trùng Plasmodium của
ngƣời gây nên. Bệnh lây theo đƣờng máu, do muỗi Anopheles truyền. Bệnh lƣu
hành ở từng địa phƣơng, trong những điều kiện thuận lợi có thể gây thành dịch.
1.2.2. Đặc điểm chung về sốt rét
Bệnh sốt rét lƣu hành chủ yếu ở các nƣớc nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ký sinh
trùng sốt rét (KSTSR) có thể gây nên bệnh sốt rét cho con ngƣời ở tất cả các nhóm
tuổi và đƣợc truyền từ ngƣời này sang ngƣời khác qua trung gian truyền bệnh là

muỗi Anopheles (An) [31].
Có 4 loài KSTSR gây bệnh ở ngƣời gồm: Plasmodium falciparum;
Plasmodium vivax; Plasmodium malariae và Plasmodium ovale, trong số đó P.
falciparum và P. vivax là 2 loài thƣờng gặp nhất. Từ năm 1965 ở Malaysia lần đầu
tiên đã phát hiện thêm loài thứ 5 là Plasmodium knowlesi lây từ khỉ sang ngƣời
[31], [118] sau đó cũng đƣợc phát hiện ở Thái Lan [99] và các khu rừng ở Đông
Nam Á [121]. Loài KSTSR này hiện nay là một vấn đê quan trọng cho sức khoẻ
cộng đồng [90], [118]. Nhƣ vậy cho đến nay đã khẳng định là có 5 loài KSTSR gây
bệnh ở ngƣời [120]
Bệnh sốt rét tồn tại và lan truyền đƣợc phải có hội tụ của 3 yếu tố: mầm bệnh
(ký sinh trùng); trung gian truyền bệnh (muỗi sốt rét); khối cảm thụ (con ngƣời). Sự
lan truyền bệnh sốt rét khác nhau về cƣờng độ và mức độ thƣờng xuyên phụ thuộc
vào các yếu tố tự nhiên tại chỗ nhƣ: lƣợng mƣa, khu vực sinh sản của muỗi và sự có
mặt của loài muỗi truyền bệnh. Ngoài ra yếu tố xã hội cũng là một trong những yếu
tố có tác động quan trọng tới quá trình lan truyền bệnh. Có những vùng bệnh sốt rét
lƣu hành quanh năm với số lƣợng BNSR đƣợc phát hiện tƣơng đối ổn định các
tháng trong năm. Trong khi đó, ở một số vùng bệnh nhân mắc SR theo mùa và
thƣờng vào mùa mƣa [56].


14
1.2.3. Tác nhân gây bệnh sốt rét
1.2.3.1. Chủng loài ký sinh trùng sốt rét trên thế giới và ở Việt Nam
Tác nhân gây bệnh sốt rét hay còn gọi là mầm bệnh sốt rét đƣợc xác định là ký
sinh trùng Plasmodium [108]. Ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể ngƣời gây bệnh sốt
rét, quan sát đƣợc bằng kính hiển vi [32], KSTSR lần đầu tiên đƣợc mô tả bởi
Laveran ở Angeria [35].
Loài KSTSR gây bệnh cho ngƣời là P. falciparum (Celli và Marchiafava ở
Italy báo cáo năm 1889-1890); P. vivax và P. malariae (1886 bởi Golgi ở Italy); P.
ovale (Stephens vào năm 1922)


[55]. Trong số 4 loài KSTSR gây bệnh ở ngƣời thì
P. falciparum, P. vivax là 2 loài thƣờng gặp nhất [35]. Hiện nay là 5 loài [120].
Ở Việt Nam có mặt cả 4 loài KSTSR, trong đó P. falciparum là loài có tỷ lệ
cao nhất 80-85%, sau đó đến P. vivax, loài P. malariae và P. ovale chỉ một tỷ lệ nhỏ
[40]; gần đây đã phát hiện thêm loài thứ 5 là Plasmodium knowlesi [22], [124].
Báo cáo về nhiễm Plasmodium knowlesi là loài ký sinh trùng sốt rét thứ 5 trên
thế giới lây từ khỉ sang ngƣời, đã có ở Đông Nam Á [72], [121], đặc biêt là ở
Malaysia [31], [36] và cũng đƣợc báo cáo ở Thái Lan [99]. Theo Indra Vythilingam
(taij Kuala Lumpur) thì ký sinh trùng sốt rét ở loài khỉ Malayan lần đầu tiên đƣợc
thông báo vào năm 1908 và nó đƣợc nhắc lại vào những năm thập kỷ 1960, sau khi
tình cờ phát hiện một loài ký sinh trùng ở khỉ không đuôi có thể truyền bệnh sang
ngƣời trong phòng thí nghiệm. Năm 2004, những ca sốt rét P.malariae phát hiện ở
Sarawak Malaysian Borneo đƣợc xác định là P.knowlesi bằng kỹ thuật sinh học
phân tử [31]. Đã có 4 bệnh nhân sốt rét bị tử vong do P.knowlesi [11]. Báo cáo gần
đây cho thấy Plasmodium knowlesi có ảnh hƣởng đối với sức khoẻ cộng đồng [99].
Plasmodium knowlesi lần đầu tiên đã đƣợc phát hiện ở Ninh Thuận Việt Nam,
năm 2007, từ một nghiên cứu hợp tác song phƣơng Việt - Bỉ [22] và lần thứ 2 năm
2010, đã đƣợc phát hiện ở vùng biên giới tỉnh Quảng Trị(Việt Nam) và
Savannakhet (Lào) [124]. Chu kỳ phát triển của KSTSR qua hai vật chủ. Giai đoạn
sinh sản hữu tính ở cơ thể muỗi (vật chủ chính) và giai đoạn sinh sản vô tính thực
hiện ở cơ thể ngƣời (vật chủ phụ) [72] gây ra những hiện tƣợng bệnh lý.


15
Gian đoạn sinh sản vô tính trong cơ thể ngƣời: Ký sinh trùng từ tuyến nƣớc bọt
của muỗi vào máu ngƣời, lƣu thông trong máu. Sau 30 phút toàn bộ thoa trùng xâm
nhập tế bào gan và phát triển ở đó tạo thành thể phân liệt, thể phân liệt vỡ ra giải
phóng ký sinh trùng non từ gan xâm nhập vào hồng cầu, lúc đầu là thể tƣ dƣỡng
(sporozoites) rồi phát triển thành ký sinh trùng non, thể phân liệt (schizont) non rồi

thể phân liệt già, phá vỡ hồng cầu giải phóng ký sinh trùng non, lúc này tƣơng ứng
với cơn sốt rét lâm sàng. Hầu hết những mảnh trùng này quay lại ký sinh trong hồng
cầu mới, một số biệt hoá thành thể hữu tính là giao bào đực và cái, những giao bào
này nếu đƣợc muỗi hút vào dạ dày sẽ tiếp tục phát triển trong cơ thể muỗi, nếu
không đƣợc muỗi hút, giao bào ở lại trong máu rồi bị tiêu đi.

Hình 1.1. Chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể ngƣời và muỗi
Nguồn. Bruce - Chwatt’s Esential Malariology.
Thời gian phát triển ký sinh trùng ở ngƣời từ khi muỗi đốt (giai đoạn ủ bệnh):
tuỳ thuộc vào loại ký sinh trùng sốt rét: P.falciparum từ 8-12 ngày; P.vivax, P.ovale
từ 11-21 ngày; P.malariae từ 21-42 ngày.


16
Ngi mang ký sinh trựng st rột cú th cú biu hin nhng triu chng lõm
sng in hỡnh: rột run, núng, ra m hụi v khỏt nc. Cng cú th biu hin bng
nhng triu chng khụng in hỡnh: St cao, nhc u, n lnh, au ton thõn,
nhng cng cú th khụng biu hin gỡ c ú l trng hp ngi mang ký sinh trựng
lnh. Tu theo loi ký sinh trựng st rột mang trong ngi m bnh nhõn st mi
ngy mt cn (P.falciparum), hai ngy mt cn (P.vivax), ba ngy mt cn
(P.malariae) cn st thng xut hin ỳng gi cú tớnh chu k rừ rt, n khp vi
nhng t phỏt trin ca ký sinh trựng st rột trong c th ngi.
Nu khụng b tỏi nhim hoc khụng c iu tr ký sinh trựng cú th tn ti
trong ngi tu chng loi: P.falciparum t 1-2 nm; P.vivax (P.ovale) t 1-5 nm;
P.malariae t 3-50 nm.
Thời gian phát triển ký sinh trùng ở muỗi phụ thuộc vào nhiệt độ: P.vivax
(P.malariae; P.ovale) >14,5 C; P.falciparum >16 C.
Vit Nam, theo nhiu nghiờn cu trc nm 2000, t l cao nht l
P.falciparum 75-80%, P.vivax 20-25%, P.malariae 1-2%, t l P.ovale rt him.
Nhng nm gn õy, s phõn b ny cú s thay i, P.vivax ti a phng khỏc, cú

chiu hng tri hn P.falciparum [65].
Theo Triu Nguyờn Trung, Vin SR - KST - CT Qui Nhn, c cu KSTSR
khu vc min Trung - Tõy Nguyờn giai on 2006-2010, loi P.falciparum 84,03%
(nm 2006) v 76,45% (nm 2010); loi P.vivax. 15,04% (nm 2006) v 21,98%
(nm 2010); P.malariae 0,01-0,2%; loi phi hp: 0,93-1,36% [67].
1.2.3.2. Ký sinh trựng st rột ti tnh Qung Tr
Ti tnh Qung Tr t nm 1989 - 2009, theo bỏo cỏo kt qu soi lam giỏm sỏt
dch t st rột, lam iu tr, lam nghiờn cu v phõn tớch bng k thut PCR ca
Vin SR - KST - CT Trung ng ch cú 2 loi KSTSR l P.falciparum, P.vivax v
th phi hp 2 loi ny [46], [57].
on Hnh Nhõn, Nụng Th Tin, Hong H nghiờn cu tỡnh hỡnh st rột tnh
Qung Tr trong 10 nm (1997-2006) nhn thy ch s KST l 2,47; trong lỳc ú
ton quc l 0,27 [41].


17
1.2.3.3. Nguồn bệnh sốt rét
Nguồn bệnh sốt rét là ngƣời mang KSTSR, có thể là bệnh nhân hoặc ngƣời
lành mang ký sinh trùng [43] (ký sinh trùng lạnh - asymptomatic). BNSR là nguồn
bệnh; bệnh nhân khi có thể hữu tính của ký sinh trùng ở máu ngoại vi mới là nguồn
lây bệnh sang ngƣời [35].
1.2.4. Tác nhân truyền bệnh sốt rét
1.2.4.1. Véc tơ truyền bệnh sốt rét trên thế giới và ở Việt Nam
Véc tơ truyền bệnh sốt rét đã đƣợc xác định là muỗi Anopheles, họ muỗi
Culicidae. Trên thế giới, có khoảng trên 420 loài muỗi thuộc giống Anopheles, trong
đó khoảng 70 loài là véc tơ truyền sốt rét cho ngƣời trong điều kiện tự nhiên [59].
Mỗi vùng, mỗi nƣớc có các loại truyền bệnh sốt rét chính khác nhau [55].
Tại Việt Nam cho đến nay phát hiện đƣợc 59 loài Anopheles trong đó có 3 loài
truyền bệnh chính là An. minimus, An. dirus và An. sundaicus (nay là An.
epiroticus) [31], [35]. Sự phân bố của An. minimus chủ yếu là ở miền Bắc trong khi

đó An. dirus chủ yếu ở miền Trung và Tây Nguyên [56].
1.2.4.2. Véc tơ truyền bệnh sốt rét tại Quảng Trị
Tại Quảng Trị qua điều tra số loài muỗi Anopheles giai đoạn năm 2000 là 18
loài [54], hiện nay sau nhiều năm phun hóa chất, tẩm màn điều tra hàng năm có 15
loài Anopheles; Véc tơ chính là An. minimus với mật độ 1,25 con/đèn/đêm; các địa
phƣơng có SRLH nặng nhƣ xã Thanh, xã Xy đều có mặt 2 loại véc tơ này tuy nhiên
mật độ vào nhà đốt ngƣời thấp sau khi phun hóa chất [6]. Thời tiết khí hậu của Miền
Trung-Tây Nguyên, trong đó có tỉnh Quảng Trị với nhiệt độ trung bình trong năm là
32,2
0
C rất phù hợp cho muỗi Anopheles phát triển.
Lƣợng mƣa trung bình hàng năm ở huyện Hƣớng Hóa và tỉnh Quảng Trị đo
đƣợc thƣờng trên 2065,5 mm rất thuận lợi cho muỗi sốt rét sinh sản [63]. Mùa mƣa
có ảnh hƣởng đến việc lan truyền bệnh sốt rét, bệnh sốt rét có 2 mùa truyền bệnh là
đầu và cuối mùa mƣa, mùa có điều kiện cho muỗi SR phát triển từ tháng 4-10 [6].
Về độ ẩm: ảnh hƣởng đến tuổi thọ của muỗi Anopheles, muỗi Anopheles sống
lâu khi có độ ẩm tƣơng đối cao [43]. Độ ẩm đo đƣợc trung bình ở huyện Hƣớng
Hóa, tỉnh Quảng Trị thƣờng trên 80% rất thuận lợi cho muỗi sốt rét sống lâu [63].


18
Về sinh cảnh: Tỉnh Quảng Trị nằm ở vùng Miền Trung, có dãy Trƣờng Sơn
chạy ở phía Tây tỉnh, địa hình từ biên giới ra biển hẹp, mạng lƣới sông, suối dày
đặc, phần lớn là rừng, núi rất phù hợp với sinh địa cảnh phát triển bệnh sốt rét [63].
1.2.5. Cơ thể cảm thụ
Vật chủ hay cơ thể cảm thụ là con ngƣời - ngƣời khỏe mạnh (ngƣời lành),
ngƣời chƣa có miễn dịch hoặc đã có miễn dịch với bệnh sốt rét nhƣng đã giảm thấp.
Khi muỗi Anopheles có thoa trùng đốt ngƣời và đƣa thoa trùng vào máu, KST
xâm nhập tế bào gan và tạo thành chu kỳ ngoại hồng cầu hay hồng cầu [35].
1.2.6. Dịch tễ học bệnh sốt rét

1.2.6.1. Dịch tễ học bệnh sốt rét là một phức hợp các yếu tố liên quan mắt xích
Dịch tễ học bệnh sốt rét là một phức hợp các yếu tố liên quan mắt xích Mối
liên quan giữa các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội với lan truyền bệnh sốt rét đƣợc
thể hiện qua sơ đồ sau [31].
VËt chñ ng-êi




T¸c nh©n






Sơ đồ 1.1. Các yếu tố dịch tễ học sốt rét. Vật chủ, tác nhân và môi trƣờng [31].
1.2.6.2. Đối tượng mắc
Mọi đối tƣợng từ trẻ em tới ngƣời già đều có thể bị mắc sốt rét. Tuy nhiên, trẻ
em đối tƣợng có tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn hơn ngƣời lớn. Bệnh sốt rét không có
Người bệnh
Ng-êi cã
ký sinh trïng
Cơ thể
cảm thụ
Ký sinh trùng
Véctơ

Tự nhiên Sinh học
Môi trường

Kinh tế-xã hội


19
miễn dịch sốt rét đặc hiệu [31], tuy nhiên có mối liên quan của mức độ có miễn dịch
thấp với những ngƣời đã từng nhiễm sốt rét [88].
1.2.6.3. Phân bố địa lý theo vùng sốt rét lưu hành
Theo thống kê của TCYTTG, hiện nay bệnh sốt rét lƣu hành ở các nƣớc nhiệt
đới và cận nhiệt đới với trên 100 nƣớc và khoảng 40% dân số thế giới với 2,2 tỷ
ngƣời có nguy cơ nhiễm sốt rét [30].
1.2.6.4. Phân vùng sốt rét ở một số nước khu vực
Về mục đích, tiêu chí phân vùng của các nƣớc trong khu vực thƣờng đơn giản,
số vùng phân trung bình từ 3 đến 4 vùng, chỉ mức độ, tính chất lƣu hành bệnh nhƣ:
vùng sốt rét; vùng khả năng dễ có sốt rét; vùng không có hoặc đã hết sốt rét [31].


Hình 1.2. Bản đồ phân bố và mức độ lƣu hành sốt rét trên thế giới
1.2.6.5. Phân vùng dịch tễ sốt rét ở Việt Nam

ể chỉ định hợ .
Rất cao
Cao
Trung bình
Thấp
Không có SR



20
1.2. ố 2009





ốt rét lƣu hành
5.636
54.530.178
62,5

2.798
17.393.146
19,9

1.527
10.537.391
12,1

810
3.538.473
4,1

341
1.203.661
1,3

[33].
1.2.6.6. Phân vùng dịch tễ sốt rét của tỉnh Quảng Trị
Tỉnh Quảng Trị có 10 huyện, thị, thành phố gồm 142 xã phân thành 5 vùng SR
Trong đó huyện Hƣớng Hoá có 22 xã gồm 18 xã thuộc vùng SRLH nặng và 4
xã vùng SRLH vừa. Các xã nghiên cứu đều nằm trong vùng SRLH nặng [33].

1.2.6.7. Dịch sốt rét
Theo dự án quốc gia PCSR của Việt Nam định nghĩa dịch sốt rét: “Dịch sốt rét
là khi ở một nơi có mức bệnh sốt rét (ca mắc mới) tăng đột ngột so với diễn biến
bình thƣờng trong một quần thể dân cƣ (tối thiểu một thôn bản, cụm dân cƣ) và có
lan truyền bệnh tại chỗ” [2], [45].
Sử dụng phƣơng pháp của Cullent. Sử dụng mô hình toán thống kê, 95%
khoảng tin cậy của phân phối thƣờng (mean + 2SD của 5 năm). Phƣơng pháp này
áp dụng trƣớc đây ở Thái Lan, hiện nay ở Việt Nam [2].
Trong 5 năm (2006-2010) cả nƣớc chỉ có 4 vụ dịch ở qui mô nhỏ [74].
1.2.6.8. Lan truyền bệnh sốt rét
Sự lan truyền bệnh sốt rét đƣợc quyết định bởi 3 yếu tố gồm: tác nhân gây
bệnh, véc tơ truyền bệnh và con ngƣời [32].
Một số yếu tố khác cũng có tác động đến sự lan truyền bệnh nhƣ: di biến động
dân cƣ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc lan truyền bệnh sốt rét, tỉnh


21
Quảng Trị có đƣờng biên giới giáp nƣớc bạn Lào dài 206 km, có 2 cửa khẩu Quốc
tế và quốc gia và nhiều cửa khẩu phụ nên vấn đề sốt rét do giao lƣu biên giới ngày
càng nhiều và phát hiện bệnh nhân chỉ theo phƣơng thức thụ động [61], [62].
Theo đánh giá của TCYTTG bệnh sốt rét còn phổ biến trên nhiều vùng, các
nguyên nhân chính đƣợc xác nhận bao gồm:
Tăng kháng thuốc. Biến động dân cƣ. Tăng phạm vi các vùng lƣu hành bệnh.
Du lịch và buôn bán ngày một nhiều. Giảm các nỗ lực phòng chống muỗi
(phun hoá chất). Khai thác lâm sản và hầm mỏ. Điều kiện thời tiết thay đổi.
1.3. CHIẾN LƢỢC PHÒNG CHỐNG BỆNH SỐT RÉT
Chiến lƣợc phòng chống bệnh sốt rét trên qui mô toàn cầu, với 4 nguyên tắc:
- Phát hiện sớm và điều trị có hiệu quả.
- Dự phòng, bao gồm phòng chống véc tơ.
- Khống chế dịch bệnh, giám sát đánh giá và tái đánh giá thƣờng xuyên và

nghiên cứu thực địa [50].
Phòng chống véc tơ vẫn còn là một biện pháp có hiệu quả nhất để PCSR. Vì
vậy đây là 1 trong 4 yếu tố kỹ thuật cơ bản của Chiến lƣợc PCSR toàn cầu [55]. Các
biện pháp phối hợp: VSMT, dời chuồng gia súc ra xa nhà
1.3.1. Chiến lƣợc phòng chống sốt rét toàn cầu hiện nay
Do diễn biến phức tạp cũng nhƣ những khó khăn ngày càng nhiều, tình hình
SR thay đổi khắp nơi trên thế giới, TCYTTG đã triệu tập Hội nghị Bộ trƣởng y tế
các nƣớc thành viên vào tháng 10/1992 tại Amsterdam (Hà Lan). Hội nghị thông
báo tình hình SR thế giới, chấp nhận 1 chiến lƣợc toàn cầu mới là:
Giảm mắc sốt rét, giảm tử vong do sốt rét, giảm thiệt hại về kinh tế - xã hội
thông qua việc cải thiện và củng cố các khả năng của địa phƣơng và quốc gia. Bốn
yếu tố kỹ thuật của chiến lƣợc này:
Cung cấp chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời.
Lập kế hoạch, thực hiện các biện pháp phòng bệnh chọn lọc, có thể duy trì.
Phát hiện sớm, khống chế hoặc ngăn chặn dịch SR.


22
Củng cố khả năng của địa phƣơng dựa trên các nghiên cứu cơ bản và ứng dụng
cho phép đánh giá đều đặn tình hình SR của đất nƣớc đặc biệt là yếu tố sinh thái, xã
hội và kinh tế có tính quyết định với bệnh SR.
1.3.2. Chiến lƣợc phòng chống sốt rét ở Việt Nam
Chiến lược quốc gia phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét ở Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030
Mục tiêu chung:
Khống chế tỷ lệ ngƣời dân mắc bệnh sốt rét dƣới 0,15/1.000 dân, tỷ lệ chết do
bệnh sốt rét dƣới 0,02/100.000 dân; không còn tỉnh nào trong giai đoạn PCSR tích
cực; 40 tỉnh trong giai đoạn đề phòng bệnh sốt rét quay trở lại; 15 tỉnh trong giai
đoạn loại trừ sốt rét và 8 tỉnh trong giai đoạn tiền loại trừ sốt rét vào năm 2020 [53].
Mục tiêu cụ thể:

Tăng cƣờng quản lý chƣơng trình, nâng cao chất lƣợng hoạt động và tính bền
vững của chƣơng trình quốc gia phòng chống và loại trừ sốt rét. Tỷ lệ mắc sốt rét
(ca sốt rét lâm sàng và ca sốt rét xác định có ký sinh trùng) xuống dƣới 0,33 /1.000
dân vào năm 2015 [53]. Tỷ lệ ca xác định giảm xuống dƣới 0,08/1.000 dân. Tỷ lệ ca
xác định đƣợc chẩn đoán bằng kính hiển vi và tét chẩn đoán nhanh 70% so với tổng
số ca sốt rét. Tỷ lệ ca sốt rét ác tính giảm xuống dƣới 100 ca và tỷ lệ chết do sốt rét
toàn quốc giảm xuống dƣới 0,02/100.000 dân vào năm 2015 [53].
1.3.3. Những khó khăn thách thức hiện nay đối với chƣơng trình PCSR
Dân số sống trong vùng có nguy cơ sốt rét lớn với khoảng 37 triệu ngƣời hơn
40% dân số của cả nƣớc, trong khi đó độ bao phủ và chất lƣợng PCSR còn hạn chế.
Số ngƣời mắc sốt rét và mang KSTSR còn cao ở một số cộng đồng dân cƣ ở
vùng vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa
Di biến động dân cƣ, số ngƣời ngủ trong rừng, rẫy; qua lại biên giới còn lớn.
Kinh tế, tập quán, nhận thức, hành vi PCSR của ngƣời dân còn thấp.
Màng lƣới YTCS còn thiếu, yếu; quản lý y, dƣợc tƣ nhân còn chƣa đầy đủ.
Nguồn lực cho hoạt động PCSR không ổn định.


23
1.3.4. Các giải pháp của chƣơng trình phòng chống SR trên thế giới, Việt Nam
Để PCSR có hiệu quả và có tính bền vững cần nắm vững các chiến lƣợc và
giải pháp PCSR của chƣơng trình PCSR trên thế giới và Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay và một số giải pháp bổ sung tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng của từng vùng.
Nắm vững quá trình lây truyền bệnh sốt rét và thực hiện đầy đủ có hiệu quả 7
nhóm giải pháp phòng chống sốt rét đó là:
Nhóm giải pháp về quản lý. Nhóm giải pháp về nhân lực. Nhóm giải pháp về
đầu tƣ. Nhóm giải pháp về truyền thông giáo dục sức khỏe thay đổi hành vi PCSR.
Nhóm giải pháp về chuyên môn kỹ thuật. Nhóm giải pháp về xã hội hóa
PCSR. Nhóm giải pháp về hợp tác quốc tế
Các nhóm giải pháp này không tách rời, thực hiện riêng lẻ mà cần phối hợp

thực hiện một cách đồng bộ mới đạt hiệu quả cao.
Trong đó tập trung vào các nội dung sau: phun, tẩm hóa chất phòng chống
muỗi sốt rét, công tác chẩn đoán sớm và điều trị bệnh sốt rét đúng, kịp thời là một
biện pháp quan trọng để phòng, chống bệnh sốt rét, để diệt mầm bệnh (KSTSR ở
ngƣời bệnh và ở ngƣời lành mang KST), hạn chế sốt rét ác tính và chết do sốt rét
đồng thời giảm lây lan cho cộng đồng. Bổ sung đào tạo đội ngũ YTTB [9].
Việc phòng chống véc tơ cho đối tƣợng nguy cơ, phát hiện bệnh sốt rét sớm,
điều trị kịp thời, an toàn và hiệu quả. Bảo vệ ngƣời lành bằng mang màn theo để
ngủ, cấp thuốc tự điều trị khi đi vào vùng sốt rét lƣu hành, qua lại biên giới.
Tăng cƣờng PCSR dựa vào cộng đồng, xã hội hóa tốt công tác PCSR, phối hợp
quân dân y trong PCSR. Tăng cƣờng công tác TTGDSK về PCSR [9].
1.4. BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT
1.4.1. Sử dụng hóa chất diệt muỗi truyền bệnh sốt rét hiện nay
Có rất nhiều biện pháp phòng, chống muỗi sốt rét hiện nay đang đƣợc áp dụng.
Tuy nhiên, hai biện pháp phòng chống véc tơ sốt rét đƣợc sử dụng rộng rãi và có
hiệu quả nhất là phun hoá chất tồn lƣu và màn tẩm hoá chất. Hiện nay loại hoá chất
đƣợc sử dụng rộng rãi là các hoá chất thuộc nhóm Pyrethroid [73].
Phun hóa chất loại Fendona cho vùng có tỷ lệ nằm màn dƣới 80%.


24
Tẩm màn: tẩm màn cho vùng có tỷ lệ nằm màn trên 80%. Các loại hóa chất
tẩm màn những năm 80-90 của thế kỷ 20 là Permethrine thuộc nhóm Pyrethroite,
sau đó ngƣời ta sử dụng sang I Con hoặc Fendona cho đến ngày nay [73].
Tuy nhiên cũng cần đánh giá mức độ nhạy, kháng của Anopheles đối với hoá
chất sau một thời gian sử dụng. Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Quang và cs ở khu
vực Miền Trung-Tây Nguyên giai đoạn 2006-2010 cho thấy một số loài Anopheles
nhƣ An. Maculatus có thể đã kháng (tỷ lệ chết 73 và 78%) với Fendona và Icon ở
Bình Định và Quảng Trị [47].
1.4.2. Bảo vệ ngƣời lành (khối cảm thụ)

Song song với việc diệt muỗi sốt rét vốn chỉ đƣợc sử dụng trong nhà và khi đi
ngủ, thì việc bảo vệ khối cảm thụ là rất cần thiết cả khi ở trong nhà cũng nhƣ khi ở
trong rừng [31].
Trong giai đoạn tiêu diệt hoặc thanh toán bệnh sốt rét các thập kỷ trƣớc đây,
với việc phát hiện ra thuốc Chloroquine, Mefloquine ngƣời ta cho uống thuốc dự
phòng những đối tƣợng ở trong vùng sốt rét hoặc đi vào vùng sốt rét lƣu hành.
Sau đó với việc bệnh sốt rét đã giảm, việc uống thuốc không đủ liều góp phần
đƣa đến việc KSTSR kháng thuốc ngày càng gia tăng, các chƣơng trình PCSR các
quốc gia (trong đó có Việt Nam) không sử dụng uống thuốc phòng SR mà chuyển
sang cấp thuốc tự điều trị đối với đối tƣợng có nguy cơ mắc SR cao [3], [4].
1.4.3. Chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét
1.4.3.1. Chiến lược chẩn đoán của bệnh sốt rét
Có triệu chứng điển hình của bệnh sốt rét với 3 giai đoạn: sốt, rét run, vã mồ
hôi. và có chu kỳ [40]. Hoặc có triệu chứng không điển hình của cơn sốt rét: Sốt
không thành cơn, hoặc sốt cao liên tục, sốt dao động. Nếu không đƣợc điều trị kịp
thời có thể có một hoặc nhiều biến chứng đe doạ tính mạng ngƣời bệnh [3], [4].
Các phương pháp chẩn đoán sốt rét
Chẩn đoán bệnh sốt rét dựa vào khám lâm sàng và xét nghiệm máu.
Chẩn đoán lâm sàng dựa vào các triệu chứng của bệnh và yếu tố dịch tễ.
Chẩn đoán sốt rét bằng xét nghiệm máu: hiện nay có nhiều phƣơng pháp đƣợc
áp dụng từ phƣơng pháp đơn giản nhƣ test chẩn đoán nhanh, xét nghiệm lam máu


25
tìm ký sinh trùng bằng kính hiển vi đến các phƣơng pháp hiện đại khác nhƣ ELISA,
PCR [114]. Tuy nhiên, phƣơng pháp xét nghiệm lam máu tìm KSTSR vẫn đƣợc
sử dụng rộng rãi và đƣợc coi là “Chuẩn vàng” trong chẩn đoán sốt rét [72]. Tuy
nhiên, với phƣơng pháp này đòi hỏi kỹ thuật viên xét nghiệm có kinh nghiệm, kính
hiển vi tốt.
Kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction) là kỹ thuật sinh học phân tử đã

đến trình độ cao, kỹ thuật có độ nhạy ( trên 90%) và độ đặc hiệu (100%), chính xác
cao, có khả năng phát hiện đƣợc những trƣờng hợp có mật độ nhiễm KST thấp
(< 1KST/ l máu), xác định chủng loại ký sinh trùng sốt rét [31].
Bùi Quang Phúc khi tiến hành nghiên cứu KSTSR đã sử dụng kỹ thuật PCR.
Tại Quảng Trị chỉ phát hiện hai loài KSTSR, trong đó P.falciparum 68,73%,
P.vivax.1,27%. Chƣa phát hiện P.malariae và P.ovale [45], [46].
Tuy nhiên đến năm 2010 Maeno, Tiengkham, Hoàng Hà & cs trong một
nghiên cứu phối hợp sốt rét vùng biên giới Quảng Trị-Savanakhet (Lào) bằng kỹ
thuật PCR đã phát hiện thêm loài ký sinh trùng mới ở Quảng Trị và Savanakhet là
Plasmodium knowlesi lây từ khỉ sang ngƣời mà nhiều năm trƣớc đây đã không phát
hiện đƣợc [124].
1.4.3.2. Điều trị bệnh nhân sốt rét
Hiện nay trên thế giới (2011) đang áp dụng điều trị nhiễm P.falciparum bằng
thuốc Artemisinin phối hợp (ACTs) và Chloroquine đối với P. vivax [113], [116].
Đến năm 2011 theo TCYTTG đã có 79 nƣớc sử dụng ACTs để điều trị P.f [123].
Tại Việt Nam, theo phác đồ của Bộ Y tế [3], [4], 100% các ca sốt rét lâm sàng và
các ca P.falciparum (bao gồm cả các ca ký sinh trùng lạnh) ở các tỉnh khu vực miền
Trung - Tây Nguyên, Nam bộ và 100% các ca P.falciparum ở các tỉnh phía Bắc
đƣợc điều trị bằng thuốc phối hợp có dẫn xuất của Artemisinin ACT (Arterakine;
CV artecan hoặc Coaterm ). Điều trị chống lây lan của P.falciparum bằng
Primaquine [3], [4] và mới nhất phác đồ 2013 [4] đã có điều trị P. knowlesi.
Các ca P.vivax đƣợc điều trị bằng Chlorquine ở những vùng còn hiệu quả,
vùng P.vivax đã kháng Chlorquine sử dụng ACT [117], [123]. Kết hợp với điều trị

×