Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Quan hệ việt mỹ nhung thay doi dang ke trong moi quan he 2 nuoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.09 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Nhận thức về tầm quan trọng của mối quan hệ hòa bình,ổn định và hợp tác để cùng
phát triển ngày trở thành yêu cầu của các quốc gia và dân tộc trên thế giới
xu thế liên kết khu vực,liên kết quốc tế về kinh tế,thương mại,chính trị ngày càng
tăng,ý thức về chủ quyền và bản sắc dân tộc thì ngày càng được nâng cao,nổi bật là vừa
hợp tác vừa đấu tranh,cùng tồn tại giữa các chế độ chính trị xã hội khác nhau
Đứng trước tình hình thế giới có những thay đổi,quan hệ hai nước tuy có trải qua
thăng trầm nhưng ngày càng phát triển.Sau khi tổng thống Biclinton tuyên bố bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam 11/7/1995,chấm dứt 50 năm quan hệ bất bình
thường,mở ra một trang sử mới trong quan hệ hai nước.Từ đây quan hệ Việt –Mỹ nhanh
chóng phát triển
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp,cả hai nước
Việt –Mỹ đều đứng trước thời cơ và thách thức mới.Hơn bao giời hết hai bên cần môi
trường hòa bình,ổn dịnh để phát triển ở mỗi nước.Vì vậy nghiên cứu quan hệ Việt-Mỹ và
một yêu cầu rất cần thiết.Qua đó để nhìn lại thực trạng và nhũng vấn đề đặt ra trong quan
hệ hai nước,từ đó đề xuất những kiến nghị đóng góp vào chính sách ngoại giao của Việt
Nam đối vói Mỹ nhằm tiến tói quan hệ ngoại giao phát triển đi vào chiều sâu,ổn định,bền
vững trong bối cảnh thế giới đang đầy rẫy các bất ổn.


NỘI DUNG
I. Khái quát quan hệ ngoại giao Việt- Mỹ (1945-1975)
1. Khái quát quan hệ ngoại giao Việt- Mỹ (1945-1954)
Trước thế kỷ 20 đã có những động thái nhằm xúc tiến quan hệ bang giao Việt-Mỹ
nhưng vì chính sách “ Bế quan tỏa cảng” của nhà Nguyễn đã làm mọi nỗ lực bang giao
Việt-Mỹ bế tắc.
Mãi đến năm 1873, lần này do xúc tiến của triều đình nhà Nguyễn, Bùi Viện được
vua Tự Đức cử sang Mỹ như một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền" để cầu viện tìm cách
chống Pháp. Bùi Viện sau đó đã đi qua Yokohama (Nhật Bản) để đáp tàu sang Mỹ, rồi
lưu lại đó một năm mới gặp được Tổng thống Ulysses Grant (nhiệm kỳ1868-1876). Lúc
này Pháp và Mỹ đang đụng độ trong trận chiến ở México nên Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp


một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Nhưng Bùi Viện không mang theo quốc thư nên
không đạt được cam kết chính thức. Vì vậy, ông lại quay về Việt Nam trở lại kinh thành
Huế. Có được thư ủy nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa.
Năm 1875 ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ và
Pháp đã hết thù địch nên Ulysses Grant lại khước từ sự cam kết giúp Đại Nam đánh Pháp
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939) ở châu Âu và nhanh chóng lan rộng ra
phạm vi toàn thế giới. Ở Châu Á Thái bình dương phát xít Nhật tăng cường công cuộc
xâm lược Trung Quốc và tiến xuống xâm lược Đông Dương.
Trong thời gian này, Đảng ta cũng đề ra chủ trương đối ngoại đúng đắn, tranh thủ
sự ủng hộ từ bên ngoài, góp phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, ủng hộ
Liên bang Xô viết, giao thiệp với chính phủ kháng chiến Trung quốc, thực hiện khẩu hiệu
“Hoa – Việt kháng Nhật trên đất Đông Dương” trên nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ” và
liên hiệp có điều kiện với Anh – Mỹ để chống phát xít Nhật giành độc lập.
Với tinh thần trên, ngày 13/8/1942, Nguyễn Ái Quốc (với tên ghi trên giấy tờ tùy
thân là Hồ Chí Minh) lên đường sang Trung Quốc để liên hệ với các lực lượng cách
mạng ngừơi Việt Nam và Đồng minh, nhằm tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài.
Ngày 27/8/1942, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam 13
tháng, sau đó tướng Quốc dân Đảng là Trương Phát Khuê quyết định trả tự do cho
Người. Việc làm của Trương Phát Khuê nhằm lợi dụng Nguyễn Ái Quốc và một số yếu
nhân theo chủ nghĩa dân tộc ở miền Nam Trung Quốc chống phát xít Nhật.


Sau khi ra tù, Hồ Chí Minh cùng các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp
chủ động tìm cách liên hệ với quân Đồng Minh để chống phát xít Nhật. Cuối 1944, một
máy bay do thám Mỹ bị quân Nhật bắn rơi trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, Trung úy
phi công William Saw nhảy dù xuống Cao Bằng và được Việt Minh cứu thoát khỏi vòng
vây của Nhật-Pháp. Ngày 2/11/1944, Hồ Chí Minh đã tiếp Trung úy Saw một cách thân
mật và Người tìm cách đưa viên phi công về Trung Quốc cho Tập đoàn không quân số 14
Mỹ. Đầu tháng 3/1945, nhân danh lực lượng Việt Nam giải cứu cho Trung úy Saw, Hồ
Chí Minh tiếp xúc với AGAS. Phía Mỹ cảm ơn và tặng người thuốc men, tiền bạc. Người

không nhận tiền. Ngày 17/3/1945, Hồ Chí Minh gặp Charles Fenn - Trung úy OSS (cơ
quan tình báo chiến lược Mỹ). Charles Fenn đã thỏa thuận trên nguyên tắc giúp đỡ Việt
Minh. Ngày 29/3/1945, Hồ Chí Minh gặp Trung tướng Chennault tại Côn Minh (Trung
Quốc). Trung tướng cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể theo yêu cầu.
Còn Hồ Chí Minh Người khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía
Đồng Minh chống phát xít Nhật. Cuộc gặp diễn ra trong không khí tin cậy và hiểu biết
lẫn nhau, những quan điểm lớn đầu tiên giữa Việt Nam và Mỹ được thống nhất
Sau khi Bác về nước, Người vẫn giữ mối liên lạc với các cơ quan quân sự Mỹ.
Tháng 6/1945, phía Mỹ, thông qua Thiếu tá A.Patty yêu cầu phía Việt Minh chuẩn bị một
sân bay cho máy bay cỡ nhỏ có thể lên, xuống được, và Mỹ sẽ cho một đội sĩ quan, do
một sĩ quan cao cấp sẽ nhảy dù xuống Tuyên Quang. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được
Bác giao nhiệm vụ chuẩn bị địa điểm làm sân bay. Sân bay được đặt tại hai xã Lũng Cò
và xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. “Ngày 17/7/1945 đội “Con
Nai” gồm 5 người do Thiếu tá Mỹ E.Tômat phụ trách nhảy dù xuống Tân Trào”, làm
nhiệm vụ hoạt động huấn luyện cho khoảng 2000 bộ đội ta. Người Mỹ cũng đã cung

cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men bằng cách thả dù xuống khu căn cứ
Việt Bắc hoặc đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc) để Việt Minh chuyển về nước.
Với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, lại trực tiếp phục trách
công tác ngoại giao, Hồ Chí Minh đã thảo bản tuyên bố về chính sách ngoại giao
trong đó khẳng định chủ trương quan hệ hoà bình hữu nghị với tất cả các nước trên
thế giới, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước. Với Mỹ,
Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì những quan hệ đã có trong chiến tranh. Nhân dân
Chính phủ Việt Nam, Người đã gửi hàng chục bức thư, điện, công hàm tới Tổng
thống Truman, Chính phủ và Bộ Ngoại giao Mỹ. Nội dung của các văn bản ấy


xoay quanh vấn đề yêu cầu Mỹ ủng hộ nen độc lập của Việt Nam, khẳng đinh sự
hợp tác của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Tháng 10/1945 Tổng thống Truman ra tuyên bố 12 điểm về chính sách đối ngoại

của Mỹ, Hồ Chí Minh đã bày tỏ thái độ hoan nghênh và mong muốn Chính phủ Mỹ sẽ
thực hiện đúng tinh thần của Bản tuyên bố, ủng hộ chủ quyền của các dân tộc nhược tiểu.
Song lúc này Chính phủ Mỹ đã ngả hẳng sang chủ trương ủng hộ Pháp ữở lại Đông
Dương. Những cố gắng trong quan hệ ngoại giao chính thức với Mỹ đã không đạt kết
quả. Tuy vậy, Việt Nam vẫn luôn chú ý đến việc giữ tôn ừọng của Chính phủ mình đối
với vai trò của Mỹ ừong đồng minh, sự có mặt của đại diện phái bộ Mỹ trong các buổi lễ
ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 cũng như ừong các văn bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi cho Chính phủ Mỹ đã nói lên điều đó.
Trong thòi gian này, tuy quan hệ ngoại giao chính thức nhưng quan hệ của Việt
Nam với Chính phủ Mỹ vẫn có dấu hiệu khả quan thông qua hình thức ngoại giao nhân
dân mà điển hình là Hội hữu nghị Việt - Mỹ.Ngày2/9/1 947, trong thư gửi Việt - Mỹ áỉ

hữu hội, Hồ Chủ Tịch đã viết:
“Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác giúp đỡ thân ái của các bạn người Mỹ hồi
chủng ta du kích chổng Nhật và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục trong
cuộc tranh đẩu cửi chủng ta chống thực dân phản động Pháp giành thống nhất và độc lập.
Chúng ta mong rằng Hoa Kỳ, nước đầu tiên đã tranh đấu cho nền độc lập và dân chủ của
quốc gia,... sẽ giúp chúng ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng hiện nay và trong công
cuộc kiến thiết xây dựng sau này”
Cho đến khi cách mạng tháng Tám thành công, người “bạn” ngoại quốc đầu tiên có
mặt bên cạnh Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cũng chính là Hoa Kỳ…Thế
nhưng, vì nhiều lí do khác nhau OSS không những đã bỏ lỡ cơ hội thiết lập mối quan hệ
tốt đẹp với Việt Nam mà còn đưa đến một kết cục bi thảm: Việt Nam và Mỹ từ chỗ cùng
là đồng minh trong cuộc chiến chống phát xít Nhật ở châu Á dần dần đã trở thành kẻ thù
“không đội trời chung” trong cuộc chiến ở Đông Dương và Việt Nam về sau này.
Có thể nói, quan hệ Việt – Mỹ được hình thành từ cuộc chiến chống phát xít Nhật.
Trên tinh thần hiểu biết, cần nhau trong cuộc chiến nên Hồ Chí Minh và Việt Minh luôn
mong muốn có sự ủng hộ giúp đỡ về mọi mặt của Mỹ, Đồng Minh; ngược lại Mỹ cùng
Đồng minh lại hết sức mong muốn có một chỗ đứng ở Đông Dương – vị trí chiến lược
quan trọng ở châu Á - Thái bình dương trong cuộc chiến tiêu diệt chủ nghĩa quân phiệt

Nhật Bản.


2. Khái quát quan hệ ngoại giao Việt-Mỹ(1954-1975)
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, Mỹ không những không bị hao hụt về
người và của mà lại thu được nhiều lợi nhất nhờ làm giàu bằng bán vũ khí.Cùng thời gian
này,cách mạng Việt Nam thành công,lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.Dười sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập ,cách mạng Việt Nam
đã trở thành ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại,cho xu
thế phát triển tất yếu của phòng trào giải phóng dân tộc lên chủ nghĩa xã hội.
Do vậy ,sau khi Pháp thua, Mỹ đã thế chân Pháp can thiệp trưc tiếp vào Việt Nam,
dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã chứng tỏ rõ ràng ý đồ của Mỹ. Ngày
23/10/1954.sau khi Eisenhour gửi bức thư cho Ngô Đình Diệm cam kết Mỹ ủng hộ hoàn
toàn và sẽ viện trợ đối với chế độ của ông ta.Điều đó có ý nghĩa rõ ràng là Mỹ chính thức
và công khai cam kết chống lại Việt Nam dân chủ cộng hòa với miền nam Việt Nam.
Cuộc chiến đấu của Đảng và nhân dân ta chống cuộc chiến tranh phá hoại ở miền
Bắc và cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam.đã khởi đàu trong so sánh lực lượng bất lợi
cho ta,chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “không có gì quý hơn độc lập tự do”,nhân dân cả hai
miền đều đứng lên kiên quyết chống Mỹ xâm lược.
Năm 1967 ta thấy cơ hội dẫn đến Đảng ta quyết định mở mặt trận ngoại giao phối
hợp với mặt trận quân sự và mặt trận chính trị cùng đánh Mỹ.Ta tăng cường đoàn kết với
Liên Xô và Trung Quốc cùng các nước XHCN khác,củng cố và phát triển mặt trận Đông
Dương,kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẵn sáng đàm phán với điều kiện là quân Mỹ phải
rút khỏi cuộc chiến tranh Viêt Nam.Với mục đích đó,ta chủ động buộc địch xuống thang
từng bước ,giánh thắng lợi từng phần.mở cho ta cục diên vừa đánh vừa đàm,kết hợp đấu
tranh quân sự và ngoại giao,tạo điều kiện cho thắng lợi sau này.
Mỹ phải kí Hiệp định pari,theo Hiệp định pari 1973 thì “Hiệp định này sẽ tạo điều
kiện thiết lập quan hệ mới,bình đẳng và cùng có lợi giữa Viêt Nam dân chủ cộng hòa và
Mỹ,trên cơ sở tôn trọng đọc lập , chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công việc

của nhau”.
Ngày 29/4/1975: sứ quán Mỹ đã rút hết số nhân viên và đóng cửa. Ngày 30/4/1975
ta giải phóng Sái Gòn, thống nhất đất nước mở ra một chương mới trong lịch sử 4.000
năm của dân tộc Việt Nam . Cùng từ đó ,sau khi thua trên chiến trường ,Mỹ lại quyết
định cấm vận Việt Nam ,và từ đây Viêt Nam và Mỹ cắt đứt quan hệ
II. Hoạt động ngoại giao của Việt Nam – Mỹ(1975- 2015)
1. Hoạt động ngoại giao của Việt Nam – Mỹ (1975-1995)


Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức ra đời ngày 2/7/1976, đã
đánh dấu bước phát triển rực rỡ của nước Việt Nam. Cũng trong thời gian này, hai Chính
phủ Việt Nam và Mỹ đã bắt đầu đàm phán để thiết lập quan hệ ngoại giao. Phía Việt Nam
đã bày tỏ quan điểm của mình : Mỹ phải thực hiện đúng Hiệp định Pari 1973, theo đó Mỹ
đã cam kết viện trợ tái thiết cho Việt Nam sau chiến tranh, nhưng Tổng thống Mỹ Ford
đã bác bỏ yêu cầu này.
Trong 2 năm (1975-1976), Mỹ 3 lần phủ quyết việc Việt Nam gia nhập Liên Hiệp
Quốc, Ngân hàng thế giới (WB), Qũy tiền tệ quốc tế(IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á
(ADB). Mỹ làm ngơ trước thiện chí mà Chính phủ ta đã nhiều lần bày tỏ điều kiện cho 2
bên có thể gặp nhau, nhằm giải quyết vấn đề còn lại giữa 2 bên.
Đầu năm 1977, Jimmy Carter lên làm Tổng thống và ngày 16/3/1977, Carter cử
đoàn phái viên của Tổng thống sang Việt Nam, do ông L.Woodcook dẫn đầu để thăm dò
khả năng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Cũng trong tháng 3/1977, Tổng thống
J.Carter cũng cho phép tàu thủy, máy bay các nước khác trở hàng cho Việt Nam được
phép ghé qua các sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu. đây là một cố gắng của Chính phủ
Mỹ nhằm đạt dược sự bình thường hóa với Việt Nam.
Trong khi các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ chưa có một chút biến chuyển
gì thì tình hình quốc tế có nhiều thay đổi. năm 1978,Mỹ và Trung Quốc bắt đầu có sự hợp
tác để đi đến bình thường hóa quan hệ. cuối 1978, Trung Quốc và Mỹ xúc tiến ddàm
phán để bình thường hóa qua hệ. Đối với Việt Nam, Tổng thống Mỹ J.Carter đã quyết
định xếp lại kế hoạch đàm phán. Năm 1979, các cuôc đàm phán để bình thường quan hệ

Vệt – Mỹ ngừng trệ. Vì phía Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Luật quốc tế khi đưa
quân vào Campuchia đế lập ra chính quyền Campuchia – Hiengmrin.Mỹ đã lấy lý do này
để lôi kéo cac nước ủng hộ những hành động chống phá Việt Nam dưới danh nghĩa bảo
vệ ổn định an ninh thế giới. Vấn đề Campuchia đã kéo theo sự dính líu của nhiều nước và
sự phân cực gay gắt trong nền chính trị khu vực. Từ đó đánh dấu thời kỳ băng giá trong
quan hệ Việt - Mỹ.
Tháng 1/1981, Tổng thống Mỹ Regan tuyê n hệ nhận chức.Dưới sức ép mạnh mẽ
vấn đề MIA. Nhưng trong nhiệm kỳ đầu của ông, ngoại giao giữa hai nước ít đạt được
kết quả. Năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới cải thiện vị thế của mình trong khu vực
và trên thế giới nên Mỹ bắt đầu thay đổi chính sách quan hệ với Việt Nam.
Từ tháng 1 đến 3/8/1987 Tướng Vetsxi đặc phái viên của Tổng thống Regan thăm
Việt Nam lần thứ nhất, thảo luận về vấn đề nhân đạo mà hai bên cùng quan tâm. Năm


1989, Tổng thống Bush đắt cử và đã quyết định thay đổi chính sách với Việt Nam, mở ra
thời kỳ mới với nhiều hy vọng. Ngày 6/8/1990 đối thoại Việt – Mỹ vòng một giữa đại sứ
Trịnh Xuân Lãng và phó trợ lý Bộ trưởng ngoại giao K.Quyn về quan hệ Việt – Mỹ.
Ngày 9/4/1991, phía Mỹ đưa ra lộ trình (Roadmaping) bốn bước bình thường hóa quan
hệ với Việt Nam lần đầu tiên đưa ra công khai, chính thức chính sách đối với Việt Nam.
Ngày 20/4/1991, tướng Vetxi vào Việt Nam lần hai bàn về vấn đề văn phòng MIA tại
Hà Nội. Cuối tháng 1/1991 đặc phái viên Tướng Vetxi vào Việt Nam lần nữa bàn về các
biện pháp thúc đẩy vấn đề MIA và các vấn đề khác trong quan hệ Việt – Mỹ.
Ngày 8/10/1992, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp ngoại trưởng Mỹ
Eagleburger và bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chenry lần đầu tiên tại bộ ngoại giao Mỹ trao
đổi về quan hệ giữa hai nước. Ngày 23/10/1992, Tổng thống Bush tuyên bố rằng Mỹ sẽ
nhanh chóng tiến tới bình thường hoá, kể cả bãi bỏ cấm vận với Việt Nam. Năm 1993,
Bill Clinton đắt cử Tổng thông Mỹ. Chính quyền của Clinton cũng kế thừa chính sách ”
lộ trình” của chính quyền G.Bush, trong đó cốt lõi của quá trình bình thường hóa quan hệ
vẫn là “ tốc độ và quy mô” của quá trình bình thường hóa bị tác động bởi sự hợp tác của
Việt Nam về vấn đề POW/MIA. Tuy rằng lộ trình bốn giai đoạn cho quá trình bình

thường hóa quan hệ với Việt Nam do chính quyền Mỹ công bố tháng 4/1991 không được
coi chính thức là bản chỉ dẫn tuyệt đối cho việc cải thện quan hệ hai nước nhưng trên
thực tế nhiều bước đi đã diễn ra theo đúng lịch trình này, Mỹ sẽ lập quan hệ ngoại giao
cấp đại sứ với Việt Nam, xem xét Việt Nam việc giành chế độ buôn bán với Việt Nam
của Mỹ.
Ngày 28/1/1995, chính phủ Việt Nam và chính phủ Mỹ chính thức thông báo mở cơ
quan liên lạc ở thủ đô hai nước. Với nổ lực và thiện chí của cả hai bên, ngày 25/7/1995
chinh thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Đây là một bước đi quan trọng đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân hai nước phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của tình hình
quốc tế, đồng thời góp phần vào sự nghiệp hòa bình ổn định và phát triển ở Đông Nam Á.
2. Hoạt động ngoại giao của Việt Nam – Mỹ sau khi bình thường hóa quan hệ
(1996 -2015)
a. Chính trị - ngoại giao
Sau khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố thiết lập quan hệ ngoai giao với Việt Nam
ở cấp đại xứ, thủ Tướng Võ Văn Kiệt đã hoan nghênh và nói phía Việt Nam sẵn sàng
trao đổi đại sứ. Đầu tháng 8/1996, chính quyền Bill Clinton đã quyết định bổ nhiệm hạ
nghị sỹ Douglas Peterson làm đại sứ tại Việt Nam và đề nghị quốc hội Mỹ thông qua theo
luật của Mỹ. Nhưng khi đó ông Peterson là nghị sỹ đương nhiệm, do đó không được giữ


một chức vụ của chính quyền mới lập ra và hưởng lương cao hơn mức lương hiện tại của
dân biểu, những người chống đối đã dựa vào đó để trì hoãn công việc ông Peterson điều
trần trước quốc hội cho đến đầu năm 1997. Ngày 13/2/1997 tiểu ban Châu Á – Thái Bình
Dương thuộc ủy ban đối ngoại thượng viện Mỹ thông qua việc cử ông Peterson, Ngày
10/41997 toàn thể thượng nghị viện Mỹ đã nhất trí phê chuẩn việc ông Peterson làm đại
sứ tại Việt Nam. Về phía Việt Nam, đã cử ông Lê Văn Bàng làm đại sứ tại Hoa Kỳ. Ngày
9/5/1997 ông Lê Văn Bàng tới Oasinhton trong khi cùng ngày ông Peterson cũng đến Hà
Nội. Ngày 14/5/1997 tại Nhà trắng ông Lê Văn Bàng đại sứ đặt mệnh toàn quyền nước
Cộng hòa chủ nghĩa Việt Nam, trình thư ủy nhiệm lên Tổng thông Bill Clinton. Cùng
ngày tại Phủ Chủ tịch ông Peterson, đại sứ đặt mệnh toàn quyền Hoa kỳ trình thư ủy

nhiệm lên phó chủ tịch Nguyễn Thị Bình.
Có thể nói, đây là kết quả quan trọng và cao nhất về mặt ngoại giao. Nó là điều kiện
cần thiết về mặt pháp lý để mở rộng các quan hệ khác cho cả hai bên.
Với việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao việc tạo lập cơ sở vật chất,cơ cấu tổ
chức bộ máy cho hoạt động của đại sứ quán ở thủ đô mỗi nước đã được tiến hành tuần tự
theo từng bước một.
Về cơ sở vật chất của đại diện ngoại giao của hai bên đã thiết lập với việc khai
trương đi vào hoạt động và việc mở lãnh sứ quán của Việt Nam tại Sanphrangxitco, lãnh
sứ quan Hoa Kỳ tại TP. Hồ Chí Minh cơ sở vật chất của đại diện ngoại giao hai bên đã
được thiết lập cơ cấu, bộ máy tổ chức, nhân sự của các đại sứ quán về cơ bản đã được
hình thành và thực thi chức năng của mình. Phía Hoa Kỳ cũng có tùy viên quân sự, tùy
viên văn hóa, đại diện thương mại tại Việt Nam. Về phía mình, Việt Nam cũng đã thiết
lập đại diện Thông tấn xá Việt Nam, đại diện văn hóa tị sứ quán của mình ở Oasinhton.
Là đại diện chính thức của chính phủ mỗi bên ở nước sở tại, các đại sứ là kênh chính để
hai bên trao đổi thông tin về nhau giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quan hệ song
phương, để các bên thâm nhập, trực tiếp tìm hiểu nhau. Trước khi Mỹ vào Việt Nam
chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, chưa có đại sứ quán thì mọi vấn đề nảy sinh
trong quan hệ giữa hai nước rất khó giải quyết hoặc nếu có được giải quyết thì cũng đòi
hỏi thời gian khá dài vì phải trải qua các khâu trung gian phức tạp, do vậy đôi khi những
cơ hội thuận lợi bị bỏ lỡ. Giờ đây mọi vấn đề đều nhanh chóng được phản ánh một cách
chính thức tới chính phủ hai nước, và những cơ hội cũng được tận dụng không bị bỏ lỡ.
Nhờ có đại sứ quán, lãnh sứ quán mà việc đi lại, trao đổi các đoàn ở cấp chính phủ
cũng như phi chính ,phủ của hai nước có nhiều thuận lợi và có cơ hội tăng cường.Điều


này giúp cho ngoại giao nhân dân được mở rộng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp của
hai nước tìm hiểu, thâm nhập vào thị trường, đầu tư kinh doanh buôn bán.
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay, hai nước đã tăng cường trao đổi các
đoàn quan chức chính phủ, các nghị sĩ quốc hội, tận dụng cơ hội để tiếp xúc với nhau ở
cấc diễn đàn, tổ chức khu vực cũng như quốc tế. Có thể nói, tháng nào cũng có ít nhất

một đoàn của Hoa Kỳ tới Việt Nam và mở đầu cho hoạt động ngoại giao chính thức của
Mỹ ở Việt Nam từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ là chuyến công du tới Việt Nam
của ngoại trưởng W.Chirstopher (tháng 8/1995). Sứ mệnh lịch sử của ông trong chuyến
thăm đầu tiên là “ Nhân danh Tổng thống Bill Clinton và nhân dân Hoa Kỳ để mở đầu
một chương mới trong quan hệ hai nước” . Ông cũng là người chính thức khai trương đại
sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội.
Tháng 7/1996, một phái đoàn cấp cao của chính phủ Mỹ do cố vấn an ninh quốc gia
Mỹ Athony Lake dẫn đầu tới Việt Nam. Trong đoàn có các nhân vật quan trọng của
Chính phủ Mỹ như trợ lý ngoại trưởng chuyên trách khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,
phó bí thư báo chí nhà trắng Đ.Gionxen,… Một trong những sứ mệnh chủ chốt của đoàn
tới Việt Nam lần này là phía Hoa Kỳ cùng Việt Nam kiểm điểm, đánh giá tình hình phát
triển quan hệ hai nước một năm sau khi bình thường hóa.
Tháng 6/1997 sau chuyến thăm của ông A.Lake, tân ngoại tưởng Hoa Kỳ bà
Albright đã đến thăm Việt Nam. Chuyến viếng thăm của bà nhằm khảo sát và đánh giá
quan hệ hai nước sau hai năm bình thường hóa. Đặc biệt, nhiệm vụ trọng tâm của bà
Albright trong chuyến viếng thăm này là nhằm hối thúc hai phía tăng cường phát triển
kinh tế thương mại. Vì vấn đề POW/MIA là vấn đề mà Mỹ lấy làm điều kiện tuyên quyết
trước khi bình thường hóa thì chính bản thân phía Mỹ cũng phải công nhận sự hợp tác rất
có hiệu quả của Việt Nam trong lĩnh vực này. Giờ đây, vấn đề nổi lên hơn cả trong quan
hệ hai nước là vấn đề hợp tác kinh tế, thương mại.
Ngày 16/11/2000 máy bay của Tổng thống hợp chuẩn quốc Hoa Kỳ - Bill Clinton
đến Hà Nội và ông được tháp tùng bởi một đoàn các nhà doanh nghiệp lớn. Đoàn doanh
nghiệp này đã đạt được mục đích của mình và một loạt các công ty liên doanh đã được
thành lập trong đó có lễ ký kết bản ghi nhớ giữa hãng Boeing và hàng không Việt Nam
về việc mua ba máy bay Boeing 777 -200 ER thỏa thuận liên doanh sản xuất cáp quang
được ký kết giữa Corining International và tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam,
… Tổng thông Bill Clinton đã tặng thêm một khoản tín dụng 200 triệu USD cho những
công ty muốn vào khinh doanh tại Việt Nam, tiếp đó là lời cam kết của Chủ tịch Hội



đồng, Giams đốc điều hành Tổng công ty đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC) Mỹ George
Munor thăm Việt Nam trong tháng 12/2000. Munor cho biết những doanh nghiệp Mỹ có
ít nhất 25% cổ phần trong liên doanh đầu tư đủ tư cách để vay từ 250 nghìn tới 200 triệu
USD đầu tư cho các dự án có khả năng thành công cao, tạo nên công ăn việc làm và ít ô
nhiễm môi trường. Ngày 1/12/2000 công ty mới nhất của Mỹ vào thị trường Việt Nam
kinh doanh là New York life International, đại diện hải ngoại của công ty bảo hiểm nhân
thọ New York life Insurance đã mở văn phòng đại diện tại Hà Nội với hi vọng tiếp cận
được thị cận Việt Nam đầy hứa hẹn với gần 80 triệu dân và ghóp phần cho sự phát triển
của thị trường vốn Việt Nam.
Cũng có nhiều đoàn quan chức cao cấp của Việt Nam sang thăm Mỹ như: Bộ
trưởng bộ tài chính, bộ trưởng công nghiệp, bộ trưởng kế hoạch và đầu tư, thứ trưởng bộ
khoa học công nghệ và môi trường Việt Nam. Ngày 29/9 đến 2/10/1998 phó thủ tướng
Nguyễn Mạnh Cầm thăm chính thức Hoa Kỳ, đây là chuyến thăm đầu tiên của một quan
chức cấp cao của Việt Nam sau ba năm bình thường hóa quan hệ hai nước, Những
chuyến viếng thăm nhau giữa hai nước kể trên và những kết quả đạt được là những tín
hiệu khả quan về quan hệ Việt –Mỹ
Ngày 19/6/2005, Thủ tướng Phan Văn Khải là lãnh đạo chính phủ Việt Nam đầu
tiên thăm Mỹ sau khi hòa bình lập lại. Thủ tướng đã thảo luận với Tổng thống George
Bush về sự ủng hộ của Mỹ với nỗ lực tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của
Việt Nam.
Giữa tháng 11/2006, Tổng thống George Bush thăm chính thức Việt Nam khi tham
dự cuộc họp APEC tổ chức ở Hà Nội.
Đến tháng 6/2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trở thành người đứng đầu nhà
nước đầu tiên của Việt Nam sang Mỹ sau giai đoạn chiến tranh.
Ngày 25/6/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đoàn đại biểu Việt Nam đã đến
Nhà Trắng để hội đàm với Tổng thống George Bush. Thủ tướng Việt Nam và Tổng thống
Mỹ đã ra tuyên bố chung sau cuộc hội đàm.
Chuyến thăm Mỹ cuối tháng 7/2013 của Chủ tịch Trương Tấn Sang đánh dấu bước
phát triển mới trong quan hệ song phương. Sau cuộc hội đàm tại Nhà Trắng ngày
25/7/2013, Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama đã xác lập Quan hệ

Đối tác Toàn diện giữa Việt Nam và Mỹ.
Từ ngày 6/7, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính thức thăm Mỹ. Đây là lần đầu
tiên một Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đến Mỹ. Tổng Bí thư và Tổng thống


Barack Obama đã đưa ra Tuyên bố Tầm nhìn Chung sau cuộc hội đàm ngày 7/7. Ông
Obama cũng nhận lời mời của Tổng Bí thư về chuyến thăm Việt Nam trong tương lai
gần.
b. Những vấn đề khác
Về quan hệ thương mại, kim ngạch thương mại của Việt Nam và Mỹ tăng từ 500
triệu USD năm 1995 lên 35 tỷ USD trong năm 2014. Ngày 13/7/2000, hai nước ký kết
Hiệp định thương mại song phương, chính thức mở ra chương mới trong lĩnh vực hợp tác
kinh tế giữa 2 quốc gia.
Mỹ là một trong những nhà đầu tư hàng đầu vào Việt Nam. Tính tới cuối năm 2014,
tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Mỹ vào Việt Nam đạt gần 11 tỷ USD, xếp
thứ 7 trong hơn 100 quốc gia đầu tư vào Việt Nam.
Theo Phòng Thương mại Mỹ (AmCham), xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ tăng
mạnh trong 15 năm qua. Năm 2000, số hàng hóa Việt Nam xuất sang Mỹ có giá 800 triệu
USD. Hiện nay, Việt Nam đã vượt Thái Lan, Malaysia và Indonesia để trở thành nước
Đông Nam Á xuất khẩu nhiều nhất vào Mỹ.
AmCham dự đoán, tính đến năm 2020, giá trị hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ
sẽ đạt xấp xỉ 57 tỷ USD, bỏ xa các nước còn lại trong khu vực.
Trong khi đó, Việt Nam và Mỹ là 2 trong số 12 nước thành viên Hiệp định Đối tác
Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Khi hiệp định này được thông qua,
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius cho rằng, GDP của Việt Nam có thể tăng tới 30% nhờ
TPP.
Về hợp tác quốc phòng, chính quyền Tổng thống George Bush tuyên bố dỡ bỏ lệnh
cấm bán các trang thiết bị quân sự không sát thương cho Việt Nam vào năm 2007, mở ra
cơ hội đầu tiên để hai nước hợp tác quốc phòng.
Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ William Cohen từng tới thăm Việt Nam năm

2000 và Bộ trưởng Quốc phòng, Đại tướng Phạm Văn Trà tới Mỹ năm 2003. Năm 2010,
Việt Nam và Mỹ tổ chức các hoạt động đào tạo phi chiến tranh tại Đà Nẵng.
Năm 2012, Leon Panetta trở thành Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đầu tiên thăm Cam
Ranh từ sau Chiến tranh Việt Nam. Cùng năm, Việt Nam cử Quan sát viên tới dự Tập
trận Hải quân lớn nhất thế giới mang tên Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC 2012) do
Mỹ khởi xướng.


Đầu tháng 10/2014, Mỹ đã tuyên bố dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát
thương cho Việt Nam. Tháng 3 vừa qua, phía Mỹ công bố trao 6 tàu tuần tra cao tốc, giúp
đỡ Việt Nam vận hành, bảo trì và xây dựng xưởng sửa chữa nhằm tối ưu hóa khả năng
hoạt động của các thiết bị này.
Trong những năm gần đây, chiến hạm Mỹ, liên tục cập cảng Việt Nam. Đầu tháng
4, tàu khu trục có tên lửa dẫn đường USS Fitzgerald (DDG 62) và tàu tác chiến ven biển
USS Fort Worth của Mỹ đã cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng trong khuôn khổ giao lưu hải
quân thường niên lần thứ 6 giữa Mỹ và Việt Nam.
.
Theo báo cáo của Viện Giáo dục Quốc tế (IIE), 16.579 sinh viên Việt Nam học tập
tại Mỹ trong năm học 2013 - 2014, (tăng 3% so với năm 2012), đưa Việt Nam trở thành
nước đứng đầu Đông Nam Á và xếp thứ 8 về số lượng du học sinh tại quốc gia này.
Ở chiều ngược lại, 878 sinh viên Mỹ học tập tại Việt Nam trong năm 2011-2012,
tương đương với các năm trước.
Nổi bật trong hợp tác giáo dục Việt - Mỹ là Chương trình Giảng dạy Kinh tế
Fulbright (FETP). Theo Tuyên bố Tầm nhìn Chung giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
và Tổng thống Barack Obama ngày 7/7, FETP sẽ chuyển đổi thành một tổ chức hoàn
chỉnh có tên là trường Đại học Fulbright Việt Nam (FUV) với số vốn đầu tư ban đầu là
20 triệu USD
III. Đánh giá vai trò ngoại giao với quan hệ hai nước Việt Nam-Mỹ (1975-2015)
1. Thuận lợi của Việt- Mỹ trong quan hệ ngoại giao
a. Đối với Mỹ

Với một siêu cường như Mỹ muốn nắm giữ vai trò “Người lãnh đạo thế giới ” thì
cần phải có sự điều chỉnh chiến lược và sách lược của minh cho phù hợp với tình hình thể
giới.Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, người có tham
vọng để lại dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ băng một chiến lược mới thay cho chiến lược
“ngăn chặn” của thời kỳ chiến tranh lạnh, đó là chiến lược “mở rộng dân chủ của Bill
Clinton. Ngày 27/19/1993 trong diễn đàn đầu tiên đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc
nói rõ: “Trong chiến tranh lạnh chúng ta tìm cách ngăn mối đe doạ đối với sự sống còn
của các thể chế tự do,... giờ đây chúng ta tìm cách mở rộng tập hợp các quốc gia sống
dưới các thể chế tự do đó ”.
Đưa ra chiến lược này, nhưng mức độ áp dụng vào từng khu vực như thế nào là còn
tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của khu vực đó đối với Mỹ. Với khu vưc Châu Á - Thái
Binh Dương, Mỹ cho rằng đây là khu vực sẽ đem lại lợi ích cho nước Mỹ và Mỹ đã đặt


khu vực này vào vị trí ưu tiên ngang hàng với Châu Âu. Bởi lẽ, Châu Á Thái Bình Dương
là một ừong những khu vực có nền kinh tế phát triển năng động của thế giới. “Trong thập
kỷ này, hơn 60% của sự phát triển kinh tể thể giới là từ Châu Ả, khu vực chiếm hơn 1/2
dân số thế giới”. Với tổng số 13.400 tỷ USD, Châu Ả - Thái Bình Dương chiếm 54%
GDP của thế giới, và do vậy, khu vực này có vị trí ngày càng quan trọng đòi với các nước
lớn trong đó có Mỹ. Đặc biệt đây cũng là khu vực bao gồm hầu hết các nước lớn mà Mỹ
phải quan tâm và kiêng nể như Nhật Bản, Trung Quốc
Với Trung Quốc, là một nước có dân số đông nhất thế giới, là thị trường tiêu thụ
hàng hoá đầy tiềm năng. Thêm vào đó, Trung Quốc lại đang hiện đại hoá quân đội, phổ
biến vũ khí hạt nhân tăng ngân sách quốc phòng, đây là điều mà Mỹ lo ngại và Mỹ đã
điều chỉnh lại chính sách đối với Trung Quốc. Từ chỗ xem Trung Quốc là “con bài” là
“đồng minh thực tế” trong việc ngăn chặn và kìm chế Liên Xô sang thành một đối thù.
Đã diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ về hoạch định
một chính sách mói đối với Trung Quốc trong thời kỳ sau ciiến tranh lạnh này. Nhưng
thực tế thì Mỹ đã thi hành chiến lược kép đối với Trung Quốc. Tức là vừa dính líu vừa
kìm chế, Trung Quốc luôn bị coi là vật càn trong bước đường tiến đến chủ nghĩa bá

quyền của Mỹ. Hơn nữa, mối lo ngại tiềm ẩn của Mỹ về việc Trung Quốc hợp nhất với
Đài Loan, Ma Cao thì Trung Quốc sẽ là một Đại Trung Hoa, điều đó sẽ thách thức đối
với vai trò vị thế của Mỹ ở khu vực. Do vậy, Mỹ cố gắng củng cố vị trí cùa mình ở khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương nhằm ngăn chặn bất cứ cường quốc nào nồi lên thách
thức vai trò vị trí ảnh hưởng ấy, thực hiện “diễn biến hoà bình” với các nước XHCN còn
lại.
Đối với các nước Đông Dương, chính sách của Mỹ chuyển từ gây căng thẳng, chia
rẽ các quốc gia sang lôi kéo, thu hút tang cường ảnh hưởng của Mỹ với các quốc gia ở
khu vực này.
Chính sách cùa Mỹ với các nước lớn trong khu vực ta thấy mục tiêu của Mỹ khi
quan hệ với Việt Nam không nằm ngoài mục tiêu chung trong chiến lược toàn cầu hay
chỉnh sách với Đông Nam Á của siêu cường này. Một trong những mục tiêu Mỹ hướng
tới khi quyết định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam là muốn thu hút, lôi kéo Việt
Nam lại gần Mỹ và tách Việt Nam ra khỏi các đổi tác truyền thống. Tuy nhiên, để đi đến
bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, trong Quốc hội Mỹ còn có nhiều tranh luận gay
gắt và nổ đã chi phối phần lớn chỉnh sách của Mỹ trong suốt 20 năm qua.


Việc Mỹ thiết lập quan hệ với Việt Nam còn để làm nguôi ngoai nỗi đau của ngưới
dân Mỹ và trong tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam Tổng thống Bill
Clinton đã nói “Bước đi này sẽ giúp đất nước chủng ta tiến lên phía trước về một vẩn đề
chia rẽ người Mỹ với nhau quá lâu rồi. Chủng ta hãy hưởng về tương lai, chủng ta có quả
nhiều việc phải làm ở phía trước. Đây là lúc tạo cho chúng ta cơ hội để hàn gắn các vết
thương của chúng ta. Những vết thương này đã không chịu lành quả lâu rồi. Giờ đây
chúng ta cỏ thể tiến tới một cơ sở chưng bất kể những gì đã chia rẽ chúng ta trước đây,
chúng ta hãy xếp vào quả khứ, hãy để giây phút này, theo từ cùa kinh thánh là một thời
điểm để kiến tạo”
Mỹ mong muốn sự hợp tác với Việt Nam để giải quyết vấn đề POW- MIA, vấn đề
về tù binh chiến tranh và quân nhân Mỹ mất tích. Đây là điều kiện Mỹ đặt hàng đầu để
quan hệ với Việt Nam cũng là để giải quyết "Hội chứng Việt Nam” trong lòng dân Mỹ.

Thêm vào đó, những người quan tâm đến Việt Nam đánh giá Việt Nam có vai trò quan
trọng ở Đông Dương và Đông Nam Á vì nếu xét về diện tích là nhỏ nhưng vị trí lại rất
quan trọng. Việt Nam nằm án ngữ con đường biển huyết mạch từ Bắc Á xuống Đông
Nam Á và Ấn Độ Dương. Việt Nam còn có cảng Cam Ranh là căn cứ quân sự chiến lược
trong khu vực. Việt Nam tuy diện tích nhỏ nhưng có tiềm năng lớn, dân số đông, có trình
độ dân trí cao, tài nguyên thiên nhiên phong phú, hứa hẹn nhiều khả năng hợp tác và đầu
tư. Cộng thêm chiến lược “ mở rộng dân chủ ” nhằm làm thay đổi chế độ - chỉnh trị xã
hội của Việt Nam, Mỹ cho rằng, việc xoá bỏ cấm vận giúp Việt Nam phát triển kinh tế là
nhằm đưa Việt Nam vào vòng ảnh hưởng chi phối của Mỹ, xoá bỏ thù hận của người dân
Việt Nam đối với Mỹ từ đó thực hiện dễ dàng diễn biến hoà bình ở Việt Nam.
b. Đối với Việt Nam.
Năm 1991,Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra đường lối:”Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển”. Sự điều chỉnh chính sách và đường lối đối ngoại đã đem lại cho Vietj Nam
những thành tựu to lớn về kinh tế và mở rộng quan hệ với nhiều nước, thu hút được nhiều
nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc phát triển quan hệ với các nước lớn đã được
đưa ra trong đường lối chiến lược phát triển của Việt Nam, trong đó có Hoa Kỳ là nhân tố
quan trọng chính sách đối ngoại của mình, từng bước có sự điều chỉnh chiến lược để làm
thay đổi thái độ, lập trường của Mỹ đối với Việt Nam. Với phương châm:”Khép lại quá
khứ, hướng tới tương lai”. Việt Nam đã làm hết sức mình để khép lại quá khứ của cuộc


chiến tranh tàn khốc để cùng Mỹ hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn trong quan hệ song
phương.
Bằng sự cố gắng của mình, Việt Nam đã tích cực giải quyết vấn đề POW-MIA về
những quân nhân Mỹ bị mất tích và chết trong chiến tranh Việt Nam và thành công trong
việc tìm ra giải pháp cho vấn đề Campuchia mà kết quả là Hiệp định Paris về vấn đề
Campuchia ra đời ngày 23/10/1991đã gỡ bỏ dàn những áp đặt được đưa ra trong những lộ
trình bốn giai đoạn của Mỹ. Những cố gắng của Việt Nam cùng sự ủng hộ của Mỹ đã làm
xoay chuyển được cục diện quan hệ Việt Nam và Mỹ theo chiều hướng tốt đẹp. Vì chính

Mỹ cũng hiểu rằng: nếu tiếp tục đối đầu sẽ không có lợi mà Việt Nam và Mỹ phải tìm
cách cải thiện quan hệ thì các quan hệ khác mới được thúc đẩy và đem lại lợi ích cho cả 2
nước. Về phần Việt Nam, mục tiêu chiến lược của Việt Nam đề ra trong quan hệ với Mỹ
là đạt những vấn đề sau:
Bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Việt Nam có điều kiện hối thúc Mỹ giúp đỡ để
giải quyết những hậu quả chiến tranh do Mỹ để lại.
Việt Nam và Mỹ sẽ cùng hợp tác để giải quyết dứt điểm những vấn đề còn lại trong
công tác POW/MIA.
Củng cố và nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho việc cải
thiện quan hệ với các nước khác và khai thông quan hệ với các tổ chức, thể chế tài chính,
kinh tế thương mại khu vực cũng như toàn cầu, giúp Việt Nam hội nhập với khu vực và
thế giới.
Tạo điều kiện cho khả năng tận dụng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý cuả Mỹ,
các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm ở một nước phát triển cao
như Mỹ, tạo môi trường thuận lợi cho việc hợp tác đầu tư, trao đổi kinh tế, thương mại.
điều này hỗ trợ trực tiếp cho Việt Nam thoát khỏi nguy cơ tụt hậu và giúp Việt Nam
thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
2. Khó khăn của Việt – Mỹ trong quan hệ ngoại giao
Mặc dù quan hệ Việt – Mỹ đã có những kết quả tích cực, đáng khích lệ trên mọi
lĩnh vực đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những
tồn tại, hạn chế nhất định cần khắc phục.
Trước hết , Việt Nam là một nướcngheo nàn lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của
chiến tranh, nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi; Mọi điều kiện cơ sở hạ tầng xã
hội, pháp lý còn chưa hoàn thiện. vậy khi đàm phán với Việt Nam,phía Mỹ thường đưa ra
những đòi hỏi áp dụng nhung tiêu chuẩn cur một nền kinh tế đã phát triển, những đòi hỏi,


điều kiện quá khắt khe mà Việt Nam chắc chắn với thực tế của mình chưa thể chấp nhận
được.
Trông qua việc bình thường hóa quan hệ, Mỹ muốn can thiệp sâu vào công việc nội

bộ của Việt Nam ở Châu Á – Thái Bình Dương. Trong tuyên bố bình thường hóa, tổng
thống BillClintơn đã nói: “Bằng việc giúp Việt Nam hòa nhập vaò cộng đồng các dân tộc
, việc bình thường hóa còn phục vụ lợi ích của chúng ta trong việc phấn đấu cho một
nước Việt Nam tự do hòa bình ở Châu Á và ổn định”. Còn ngoại trưởng Chirstoper thì
cho rằng việc Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam không phải vì mục đích kinh tế
nhưng lợi ích kinh tế sẽ là một trong những lợi ích mà Mỹ có được từ sự bình thừơng hóa
đó: “ không phải vì mục đích kinh tế “ và “… tôi cho rằng việc tiến tới trong một mối
quan hệ kinh tế với Việt Nam sẽ nằm trong lợi ích của Mỹ, nhưng chúng ta sẽ không bỏ
qua các lợi ích khác của chúng ta và đó là lợi ích của chúng ta trong việc thúc đẩy nhân
quyền”.
3. Hướng phát triển mới Việt – Mỹ trong quan hệ ngoại giao
Về ngoại giao, cơ cấu, bộ máy nhân sự của các đại sứ quán sẽ tiếp tục dược bổ xung
và hoàn thiện. hai nước sẽ tiếp tục sủ dụng ngoại giao để giải quyết những vấn đề còn tồn
đọng nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế, văn hóa giáo dục, tăng cường trao đổi các đoàn
quan chức ngoại giao ở mọi cấp độ cũng như mở rộng ngoại giao phi Chính phủ, ngoại
giao nhân dân.
Về lĩnh vực kinh tế : nhận thấy rõ lợi ích kinh tế ở Việt Nam đặc biệt là sau khi bãi
bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam và bình thường quan hệ với Việt Nam đã thúc
đẩy các cá nhân và tổ chức của Mỹ quan tâm và thúc đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối với
Việt Nam,tạo ra bước tiến có ý nghĩa rất lớn trong quan hệ giữa hai nước. Ngày
10/03/1998, Mỹ quyết định bãi bỏ điều bổ sung Luật Jackson – Vanik mà Mỹ đã áp dụng
vào Việt Nam trong nhiều năm qua đã mở đường cho Việt Nam tham gia các chương
trinh khuyến khích xuất khẩu và hỗ trợ đầu tư của Mỹ.
Nhìn chung, quan hệ Việt-Mỹ đã có nhiều chuyển biến tích cực không thể công
nhận xong vẫn còn những lĩnh vực chưa tiến triển theo nhịp độ cần thiết để tiến tới sự
bình thường hóa hoàn toàn. Đặc biệt là phát biểu của tổng bí thư Lê Khả Phiêu đưa ra sau
buổi gặp Tổng thống Bill Clinton rằng. các xí nghiệp quốc doanh Việt Nam vẫn thua lỗ
do quản lý tồi, số lượng người quá nhiều và đang trong tình trạng thiếu vốn và khoản nợ
tới trên 14 tỷ USD. Trong năm 2000 , Việt Nam mới cổ phần hóa đối với 150 xí nghiệp,



đưa tổng số xí nghiệp quốc cự cổ doanh được cổ phần hóa là 370 con số quá thấp so với
chỉ tiêu đặt ra là cổ phần hóa 1.000 xí nghiệp quốc doanh vòa cuối năm 2000.
Mặc dù vậy, chủ tịch hội đồng, giám đốc điều hành tổng công ty đầu tư tư nhân hải
ngoại Mỹ, ông George tỏ ý tin tưởng tiến trình cải cách kinh tế ở Việt Nam sẽ tiếp tục
được tiến hành. Ông nói: “ tôi tin ban lãnh đạo Việt Nam đều có thái độ đồng tình với cải
cách kinh tế, coin đây là vấn đề quan trọng để cải tạo thêm công ăn việc làm cho và nâng
cao mức sông cho người dân. Sự phản đối của một số người quan liêu trung lưu là
chuyện thường tình trong qua trình cải cách kinh tế nhưng tôi tin những nhà lãnh đạo
Việt Nam theo xu hướng cải cách sẽ ciến thắng” và quan hệ Việt- Mỹ sẽ ngày càng gắn
kết trong các lĩnh vực nếu cả hai bên giành cho nhau quy chế tối huệ quốc và tạo điều
kiện hợp tác hai bên cùng có lợi.
Chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 6/7 được nhiều
chuyên gia quốc tế nhận định là sự kiện mang tính lịch sử.
Trong buổi hội đàm ngày 7/7 với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống
Obama khẳng định, Mỹ rất coi trọng quan hệ với Việt Nam và vai trò của Việt Nam ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời gọi Việt Nam là "đối tác xây dựng" trên
nhiều lĩnh vực, bao gồm biến đổi khí hậu và gìn giữ hòa bình toàn cầu.
Đáp lời Tổng thống Obama, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết: "Từ hai nước
cựu thù, chúng ta đã chuyển thành những người bạn, đối tác, và đối tác toàn diện. Quá
khứ không thể thay đổi nhưng tương lai thuộc về trách nhiệm của chúng ta".
Khi phát biểu tại Bộ Ngoại giao Mỹ, Tổng Bí thư nhấn mạnh tinh thần "gác lại quá
khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai" và thái độ đối thoại
“chân thành, thẳng thắn” làm nên sự khác biệt trong quan hệ Việt - Mỹ so với quan hệ
với các nước khác.
Tổng Bí thư cũng dẫn câu nói của Tổng thống Theodore Roosevelt, "Có lòng tin là
đã đi được nửa đường", để bày tỏ lạc quan về tương lai Việt - Mỹ trong một bài nói
chuyện ở trung tâm CSIS.
giáo sư Carl Thayer (Australia) cho rằng, chuyến thăm là bước tiến đánh dấu sự
công nhận của Mỹ về vai trò quan trọng của Đảng trong hệ thống chính trị Việt Nam, từ

đó tăng cường lòng tin lẫn nhau.
“Ý nghĩa quan trọng từ chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ở chỗ nó
để lại di sản (hợp tác) cho thế hệ lãnh đạo tương lai ở cả 2 quốc gia, đặc biệt khi hai nước
sẽ có bộ máy lãnh đạo mới vào năm 2016”, ông nói.


Báo Washington Times nhận định chuyến thăm “báo hiệu tầm quan trọng của quan
hệ đối tác”, đồng thời cho rằng quan hệ Việt - Mỹ đang bước vào kỷ nguyên mới.


KẾT LUẬN
Nhìn lại một chặng đường lịch sử đã qua,ta cần khẳng định rằng trong quan hệ Việt
–Mỹ từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay đã có những thay đổi mới về chính trị,xã
hội. Nhất là trước đây khi Việt Nam và Mỹ đã từng là kẻ thù của nhau,đứng ở hai bên
chuyến tuyến của cuộc chiến tranh thì giờ đây hai nước đã đồng ý khép lại quá khứ để
cùng thiết lập quan hệ ngoai giao với nhau,mở ra được những thời cơ và vận hội mới hợp
tác cùng phát triển
Tuy nhiên thời gian qua chỉ là hàng gắn vết thương chiến tranh,vượt qua những hận
thù mà quá khứ để lại,vừa là quá trình đặt nền móng cho quan hệ hợp tác lâu bền trong
tương lai
Trong quá trình hợp tác nhiều cơ hội mới sẽ được mở ra và những thách thức mới
cũng sẽ xuất hiện,hai nước.Vì thế cần có nhiều hoạt động tích cực hơn nữa nhằm thúc
đẩy bình thường hóa quan hệ và cùng hợp tác phát triển cho mỗi nước
Ngoai giao Việt –Mỹ đã trở nên sâu và đa dạng hơn trong những năm bình thường
hóa chính trị.Hai nước đã thường xuyên mở rộng trao đổi chính trị,đối thoại về nhân
quyền và an ninh khu vực
Cuối cùng ta có thể khẳng định qua quá trình nghiên cứu quan hệ ngoại giao giũa
hai nước dù lá tích cực hay tiêu cực,dù là thù địch hay hợp tác,đều có những nhân tố của
thời đại,chính sách đối ngoai của mỗi nước quy định,đều bị chi phối bởi lợi ích quốc
gia.Đây cũng là điều quan trọng cho mỗi nước khi hoạch định chính sách đối ngoại.



Mục lục
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................................2
I. Khái quát quan hệ ngoại giao Việt- Mỹ (1945-1975)........................................2
1. Khái quát quan hệ ngoại giao Việt- Mỹ (1945-1954)...................................2
2. Khái quát quan hệ ngoại giao Việt-Mỹ(1954-1975).....................................5
II. Hoạt động ngoại giao của Việt Nam – Mỹ(1975- 2015)..................................5
KẾT LUẬN.............................................................................................................19
Mục lục....................................................................................................................20



×