Đề bài
Anh( chị) hãy đánh giá những thay đổi về cơ cấu xuất khẩu hàng hóa Việt nam sau
khi Việt Nam gia nhập WTO
Bài làm
Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong 15 năm gần đây đã có sự thay đổi theo hướng tích
cực. Tỷ trọng nhóm hàng nông - lâm - thủy sản đã giảm từ 52,2% năm 1990 xuống còn
khoảng 20,5% năm 2006. Tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ
nghệ tương đối ổn định: 33,9% năm 2001; 40,4% năm 2004 và 39,0% năm 2006. Tỷ
trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản cũng dao động trong khoảng từ 21,6 % năm
2001 đến 24,7% năm 2005 và 23,4% năm 2006
* Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2006 (%)
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Nông, Lâm, Thuỷ sản 24,3 23,9 22,1 20,5 21,1 20,5
Nhiên liệu,khoáng sản 21,6 20,5 19,9 22,7 24,7 23,4
CN và TCMN 33,9 40,0 40,5 40,4 38,4 39,0
Hàng hoá khác 20,2 15,6 17,5 16,4 15,6 17,1
Nguồn: Báo cáo tổng kết của Bộ Thương mại 2005, 2006
Ba yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
- Trước hết, các yếu tố kìm hãm xuất khẩu có thể không còn là hàng rào bảo hộ tại các
nước bạn hàng, mà ở mức độ nhất định là do những hạn chế mang tính cơ cấu nội tại nền
kinh tế như năng suất có hạn, khả năng cạnh tranh thấp do quy trình thủ tục xuất khẩu
vẫn còn chưa thuận tiện; chi phí liên quan đến dịch vụ hậu cần (chuyên chở, bưu chính
viễn thông, kho bãi, cảng) và dịch vụ tài chính ngân hàng còn cao; công nghiệp phụ trợ
chưa phát triển nên phải nhập hầu hết nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu... cũng
là các yếu tố kìm hãm đáng kể.
- Yếu tố thứ hai là khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và
khai thác các thị trường xuất khẩu còn hạn chế. Các doanh nghiệp cũng chưa tận dụng
triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại song phương và khu vực
1
để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Trung
Quốc... Công tác xúc tiến thương mại nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả chưa cao.
- Yếu tố thứ ba là biến động của nền kinh tế toàn cầu. Hội nhập sâu rộng hơn cũng có
nghĩa là tăng trưởng xuất khẩu của nhiều mặt hàng, nhất là đối với các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực, biến động mạnh cùng với thăng trầm của nền kinh tế thế giới, nhất là của
các bạn hàng chính. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may suy giảm và kim ngạch
xuất khẩu gạo tăng đột biến là hai thí dụ điển hình minh chứng cho điều này.
* Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sau khi Việt nam gia nhậ WTO.
Việc Việt Nam ra nhập WTO đã khiến hàng rào bảo hộ tại các nước nhập khẩu hàng hóa
Việt Nam giảm mạnh, hàng hóa VN đã không bị phân biệt đối xử như trước. Điều này tạo
đà cho hoạt động xuất khẩu (XK) mạnh, hiện hàng hóa XK của Việt Nam đã được mở
rộng đến 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Không chỉ có vậy, hàng hóa Việt Nam đã thâm
nhập sâu hơn vào các thị trường XK trọng yếu như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản…
Đặc biệt, năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam tại các thị trường trọng yếu tăng đáng
kể .
Ngay sau khi gia nhập WTO, một số mặt hàng đã tăng đột biến về kim ngạch XK như:
Sản phẩm nhựa tăng 56,9%, dệt may 32,1%, túi xách và ví tăng 24,9%. Trong 2 năm
2008-2009, kim ngạch xuất nhập khẩu trung bình đạt 150 tỷ USD/năm, tương đương với
hơn 160% GDP của cả nước. Tuy nhiên điều đáng mừng hơn cả là sự thay đổi tích cực
trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Cơ cấu XK chuyển dịch dần từ XK sản phẩm thô (dầu mỏ,
than đá, cao su, gạo…) sang sản phẩm công nghệ chế biến, kể cả sản phẩm có hàm lượng
công nghệ và giá trị gia tăng cao như điện tử - máy tính luôn có mức tăng trưởng từ 20,8
- 28,4% trong giai đoạn 2006 - 2008, trong năm 2009 mặc dù gặp nhiều khó khăn do
khủng hoảng tài chính, mặt hàng này vẫn có tốc độ tăng trưởng 15,3%. " Điều đó chứng
tỏ Việt Nam bước đầu đã phát huy được lợi thế động bên cạnh việc tiếp tục tận dụng
những lợi thế tĩnh vốn có của mình", ông Tú nhận định.
Việc gia nhập WTO cũng góp phần làm tăng tính cạnh tranh của các mặt hàng XK của
Việt Nam. Điều này được thể hiện qua việc trong giai đoạn 2007- 2008, tốc độ tăng
trưởng XK của Việt Nam vào các thị trường chính luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng nhập
2
khẩu của các nước này. Năm 2009, mức XK của Việt Nam tại các thị trường này nhỏ hơn
mức giảm nhập khẩu của họ. Điều này cho thấy sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam
đã được cải thiện và thị phần của hàng Việt Nam trên các thị trường lớn đã gia tăng. Theo
đánh giá của nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan: 3 năm hội nhập với nền kinh tế thế giới,
đã thúc đẩy việc gia tăng XK, mặc dù năm 2009 bị âm 9% do tác động của khủng hoảng
kinh tế thế giới. Nhưng nếu chúng ta không tham gia hội nhập, XK sẽ còn bị giảm nhiều
hơn.
Nông nghiệp
Nông nghiệp được coi là lĩnh vực chịu nhiều tác động nhất trong quá trình gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam. Nhiều lo ngại về sức cạnh tranh của
nông sản Việt Nam trên sân chơi lớn này xuất phát từ những hạn chế trong năng lực sản
xuất, chế biến, tạo dựng thương hiệu và uy tín của từng mặt hàng nông sản.
Nhìn từ khía cạnh xuất khẩu nông sản, sau một năm gia nhập WTO, những mặt hàng chủ
lực của nền nông nghiệp Việt Nam vẫn đang chứng tỏ thế và lực của một đất nước với
không ít sản phẩm nông nghiệp được ghi danh trên thương trường thế giới.
Theo đánh giá của Vụ Kế hoạch (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), năm 2007
tiếp tục là năm thành công trong xuất khẩu nông sản. Đến thời điểm này, kim ngạch xuất
khẩu nông, lâm, thuỷ sản của cả nước đã đạt 10,5 tỷ USD. So với năm 2006, năm cũng
được coi là rất thành công trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam, con số này đã tăng tới
20%. Đến hết tháng 10/2007, xuất khẩu gạo đã hoàn thành chỉ tiêu với sản lượng xuất
khẩu xấp xỉ năm trước (4,5 triệu tấn) nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng 18% (1,42 tỷ
USD). Trong tuần đầu của tháng 11, cà phê Việt Nam vượt ngưỡng xuất khẩu 1 triệu tấn
với tổng giá trị kim ngạch 1,55 tỷ USD (cao hơn mức dự kiến xuất khẩu của cả năm).
Hiện đã có tới 5 mựt hàng là thuỷ sản, gỗ và sản phẩm gỗ, cà phê, gạo và cao su đạt giá
trị xuất khẩu từ 1-3 tỷ USD.
Cùng với những ưu thế sẵn có của nông sản Việt Nam, việc gia nhập WTO tiếp tục tạo đà
thuận lợi cho xuất khẩu nông sản. Bên cạnh những bạn hàng truyền thống, hầu hết các
ngành hàng xuất khẩu trong năm nay đều tiếp nhận thêm những bạn hàng mới. Nếu như
nhiều năm trước đây, xuất khẩu cao su của Việt Nam chủ yếu tập trung vào thị trường
3
Trung Quốc thì năm qua đã có sự chuyển dịch rõ rệt. Từ đầu năm đến nay sản lượng cao
su xuất khẩu sang Trung Quốc giảm chỉ còn khoảng 59%, trong khi xuất sang các thị
trường khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Đức lại tăng đáng kể.
Đặc biệt, sản lượng cao su xuất sang thị trường Malaixia trong năm nay đã tăng 3 lần so
với năm trước và đây được đánh giá là thị trường chiến lược của cao su Việt Nam trong
tương lai.
Với ngành chè, những nỗ lực cải thiện chất lượng chè Việt Nam sau khi gia nhập WTO
còn mang lại kết quả rõ nét hơn. Theo Hiệp hội hội Chè Việt nam, sau những nỗ lực của
ngành chè trong việc đầu tư phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến chè theo quy
hoạch, đồng thời tổ chức lại ngành chè theo hướng từng bước hiện đại hoá, tăng nhanh tỷ
lệ các sản phẩm chè tinh chế, có chất lượng cao và đa dạng hoá sản phẩm, năm nay giá
chè xuất khẩu của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể với mức tăng khoảng 25%, tương
ứng mức tăng 270-280 USD/tấn.
Thủy sản
Theo nhận định của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), trong
quý I/2009, cá tra, basa chiếm tỷ trọng cao nhất trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Tuy
nhiên, ngày càng có nhiều thị trường tiêu thụ sản phẩm này của Việt Nam (Pháp, Tây
Ban Nha, Na Uy, Italy, Ai Cập, Mỹ...) đã và đang sử dụng các chương trình truyền thông
nhằm hạ bệ sản phẩm cá tra để bảo vệ sản phẩm cá trong nước. Điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến xuất khẩu sản phẩm cá tra của Việt Nam.
Dự báo vấn đề này còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới, vì vậy cần chuẩn bị tốt trong
việc phản hồi với những thông tin không đúng và có hệ thống giúp người tiêu dùng các
nước có cái nhìn đúng và sát thực hơn.
Thêm vào đó, xuất khẩu tôm dự báo sẽ không có tín hiệu khả quan do nhu cầu của đa số
các thị trường chính giảm, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, đồng USD rớt giá.
Hiện nay, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu tôm chỉ hoạt động cầm chừng do thiếu
tôm nguyên liệu, lượng tồn kho lớn trong khi vốn không đảm bảo. Nhu cầu thực phẩm
cao cấp như cá ngừ sẽ tiếp tục giảm, ngay thị trường các nước lớn cũng sút giảm nên xuất
khẩu cá ngừ cũng không có triển vọng tươi sáng.
4
Do vậy, VASEP cho rằng xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong các tháng tới sẽ tiếp tục
khó khăn, giá trị xuất khẩu cả năm 2009 hy vọng đạt bằng mức năm ngoái là 4,5 tỷ USD
đã là thành công. Tuy nhiên, sự năng động của cộng đồng doanh nghiệp và các đơn vị sản
xuất nhằm giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường sẽ là những giải pháp
cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong năm khó khăn 2009.
Quý I/2009, xuất khẩu thủy sản cả nước đạt 166.695 tấn, trị giá 579,26 triệu USD, giảm
trên 8% về cả khối lượng và giá trị so với cùng kỳ. Trong đó cá tra, basa chiếm tỷ trọng
cao nhất 36% với 208,4 triệu USD, giảm 5%; tôm đông lạnh tụt xuống thứ 2 với giá trị
kim ngạch trên 181,2 triệu USD; xuất khẩu cá ngừ giảm mạnh nhất với gần 40%./.\
Dầu thô Kim ngach xuất khẩu khẩu dầu thô giảm mạnh
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) cho biết: Qúy I/2009, kim ngạch xuất khẩu
dầu thô chỉ đạt 1,45 tỷ USD, giảm 47% so với cùng kỳ năm 2008.
Mặc dù sản lượng dầu thô khai thác qúy I đạt 4,36 triệu tấn nhưng do giá dầu trung bình
trong qúy I chỉ đạt khoảng 45 USD/thùng, giảm 55USD/thùng so với trung bình quý
I/2008 làm giá trị xuất khẩu giảm đáng kể.
Bên cạnh đó, nhu cầu dầu thô cho các nhà máy lọc hóa dầu trên thế giới giảm, đồng thời
sản lượng từng hợp đồng thấp hơn trước cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến kim ngạch
xuất khẩu dầu thô của Việt Nam.
Theo PVN, do giá dầu giảm nên doanh thu toàn Tập đoàn cũng giảm 20% so với cùng kỳ
năm 2008 và nộp ngân sách đạt 18.600 tỷ đồng, giảm 26% so với cùng kỳ năm 2008 và
giảm 33% so với quý IV năm 2008.
Trong tình hình các chỉ tiêu tài chính đều đạt thấp hơn so với cùng kỳ, PVN hiện đang tập
trung việc nâng cao hiệu quả quản lý, tiết kiệm nhằm giảm chi phí. /.
Dệt may
Sau 3 năm Việt Nam gia nhập WTO, dù gặp nhiều thách thức nhưng thị trường dệt may
VNkhông ngừng phát triển và hiện nay đã đạt được con số kim ngạch xuất khẩu 10,5 tỷ
USD/năm, thị trường xuất khẩu mở rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới.
Việt Nam phấn đấu là 1 trong 10 nước xuất khẩu lớn nhất hàng dệt may trên thế giới vào
năm nay. Theo ông Phan Chí Dũng, Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ thuộc Bộ Công
5