Tải bản đầy đủ (.pdf) (194 trang)

Lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân Bình Dương (19541975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.57 MB, 194 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO PHƯƠNG THẢO

LỊCH SỬ ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG
CỦA QUÂN VÀ DÂN BÌNH DƯƠNG
(1954-1975)
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Hồ Sơn ĐÀI
2. TS. Trần Thị Nhung

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

Cao Phương Thảo


MỤC LỤC



Trang

Mở đầu

1

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN

8

ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu chung về cuộc kháng chiến chống Mỹ có

8

liên quan đến luận án
1.2. Nhóm các công trình đề cập trực tiếp đến đấu tranh cách mạng ở Thủ Dầu

16

Một trong chống Mỹ
1.3. Vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án

23

Chương 2. NHỮNG YẾU TỐ ĐỊA LÝ VÀ LỊCH SỬ CHI PHỐI ĐẾN
CUỘC ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA QUÂN VÀ DÂN THỦ DẦU

25


MỘT
2.1. Đặc điểm địa lý, tự nhiên, hành chính, quân sự và cư dân

25

2.2. Truyền thống yêu nước, chống xâm lược của quân và dân tỉnh Thủ Dầu

34

Một đến trước năm 1954
Chương 3. DIỄN BIẾN ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA QUÂN VÀ

42

DÂN THỦ DẦU MỘT TỪ 1954 ĐẾN 1965
3.1. Giai đoạn 1954-1960

42

3.2. Giai đoạn 1961-1965

59

Chương 4. DIỄN BIẾN ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA QUÂN VÀ

75

DÂN THỦ DẦU MỘT TỪ 1965 ĐẾN 1975
4.1. Giai đoạn 1965-1968


75

4.2. Giai đoạn 1969-1972

89

4.3. Giai đoạn 1973-1975

100

Chương 5. ĐẶC ĐIỂM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

112

5.1. Đặc điểm

112

5.2. Bài học kinh nghiệm

130

KẾT LUẬN

140

CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

146


TÀI LIỆU THAM KHẢO

147

PHỤ LỤC

159


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình Dương là một tỉnh thuộc phía Bắc miền Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp
tỉnh Bình Phước, phía đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh, phía
Tây Nam và Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là vùng đất có vị trí trọng yếu
về kinh tế và quân sự, do nằm tiếp giáp với Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố lớn
nhất nước, và nằm ở vị trí cầu nối giữa Nam Trường Sơn với Nam Bộ. Trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược của quân và dân Việt Nam,
Bình Dương là bàn đạp tiến công vào sào huyệt cuối cùng của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn từ hướng Bắc. Chiến trường Bình Dương rất thuận lợi cho các hoạt động
tác chiến với quy mô tập trung của các binh đoàn chủ lực cơ động và cũng là nơi mà
phong trào chiến tranh du kích rất phát triển. Chính vì vậy, cả thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ đều xem Bình Dương là địa bàn mà họ tập trung dồn sức tiến công. Đặc
biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), vùng đất Bình
Dương ngày nay là một trong những địa bàn đụng đầu vô cùng quyết liệt giữa quân
cách mạng và quân đội Mỹ và Sài Gòn1. Trên chiến trường Bình Dương, tất cả
những đơn vị “sừng sỏ” của đội quân viễn chinh Mỹ và đồng minh của họ đều có
mặt. Đây cũng là nơi mà quân đội Mỹ đã tiến hành những cuộc hành quân khốc liệt,
trong đó có sử dụng những loại vũ khí tối tân nhất lúc bấy giờ nhằm tiêu diệt lực
lượng cách mạng của Việt Nam.

Với truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang, Bình Dương có rất nhiều địa
danh gắn liền với những chiến công vang dội, là niềm tự hào đối với quân và dân cả
nước như Chiến khu Đ, Chiến khu Thuận An Hòa, Chiến khu Long Nguyên, Tam
giác sắt, chiến thắng Phước Thành, Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Bông Trang, Nhà Đỏ…
Trải qua 21 năm kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ nhưng rất đáng tự hào, dưới sự
lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, quân và dân Bình Dương
. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), chính quyền Sài Gòn ban hnh Sắc lệnh số 143-NV
thành lập tỉnh Bình Dương bao gồm các quận: Châu Thành, Lái Thiêu, Bến Cát, Dầu Tiếng, Củ Chi. Năm
1959, chính quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số 25-NV thành lập tỉnh Phước Thành trên cơ sở một phần đất tách ra
từ tỉnh Bình Dương, đến năm 1965 thì tỉnh này bị giải thể. Trong thời gian này, chính quyền cách mạng vẫn
sử dụng tên gọi Thủ Dầu Một để chỉ vùng đất Bình Dương ngày nay.
1

1


đã phát huy cao độ lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường, vừa
chiến đấu vừa xây dựng lực lượng, lập nên những chiến công xuất sắc, hoàn thành
nhiệm vụ trên một địa bàn chiến lược ở miền Đông Nam Bộ, góp phần xứng đáng
cùng quân và dân cả nước “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, hoàn thành thống nhất đất nước.
Từ trước đến nay, do còn có nhiều hạn chế về mặt tư liệu thành văn cũng như
chưa có sự thống nhất cao trong việc nhận định, đánh giá từ các nhân chứng lịch sử,
nên lịch sử tỉnh Bình Dương nói chung và lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và
dân tỉnh Bình Dương trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) nói riêng
chưa được tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ. Vì vậy, luận án về
đề tài này sẽ góp phần bổ sung cho những công trình nghiên cứu về cuộc đấu tranh
cách mạng trong thời kỳ chống Mỹ ở Bình Dương và miền Đông Nam Bộ được
toàn diện và sâu sắc hơn.
Ngoài ra, trước đây bản thân tác giả luận án cũng đã có điều kiện nghiên cứu

về lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Bình Dương (19451954), vì vậy những kinh nghiệm và tư liệu thu thập được từ quá trình nghiên cứu
sẽ giúp cho tác giả có thêm những hiểu biết cần thiết và điều kiện thuận lợi để nhận
thức một cách đầy đủ về lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân Bình Dương
trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước (1954-1975).
Từ những nhu cầu thực tiễn nêu trên, vấn đề “Lịch sử đấu tranh cách mạng
của quân và dân Bình Dương (1954-1975)” được tác giả chọn làm đề tài nghiên
cứu cho luận án tiến sĩ Khoa học Lịch sử với mong muốn góp phần vào việc tìm
hiểu một cách có hệ thống và toàn diện về lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và
dân Bình Dương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, tỉnh Bình Dương ngày nay được gọi với tên là tỉnh Thủ Dầu
Một, vì vậy chúng tôi sẽ gọi là tỉnh Thủ Dầu Một trong luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu “Lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và
dân tỉnh Bình Dương (1954-1975)” thứ nhất là nhằm tổng hợp, xâu chuỗi các nội

2


dung đấu tranh cách mạng của Bình Dương thành một hệ thống để đưa ra một cái
nhìn tổng thể về cuộc đấu tranh cách mạng của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một trong
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Hai là từ việc xâu chuỗi và hệ thống hóa lại để rút ra
một số đặc điểm, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm trong đấu tranh
cách mạng của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là phục dựng chân thật và khoa học cũng
như đánh giá những đóng góp của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
Ngoài ra, trên cơ sở mục đích nghiên cứu trên, đề tài tập trung giải quyết
những mục tiêu cụ thể sau:

- Sưu tầm, hệ thống hóa và đánh giá tài liệu thông qua các vấn đề nghiên cứu.
- Trình bày các nội dung đấu tranh cách mạng trong một thể thống nhất nhằm
luận giải một cách hệ thống và toàn diện tiến trình đấu tranh cách mạng trong thời
kỳ chống Mỹ, cứu nước của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của các cấp Đảng bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam ở địa phương qua từng giai
đoạn lịch sử.
- Rút ra một số đặc điểm và bài học kinh nghiệm lịch sử nhằm làm rõ hơn
thực tiễn sinh động về việc thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng Cộng sản
Việt Nam thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội… ở một địa bàn cụ thể là tỉnh Thủ Dầu Một
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là phong trào đấu tranh cách mạng
của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Nội dung nghiên cứu:
Đấu tranh cách mạng là phạm vi rất rộng. Luận án chỉ tập trung trình bày:
- Hoạt động của bộ máy chính trị tỉnh (Đảng, chính quyền cách mạng, Mặt
trận Dân tộc giải phóng tỉnh).

3


- Hoạt động của các lực lượng cách mạng (nông dân, công nhân, công nhân
cao su, học sinh sinh viên…).
- Hoạt động xây dựng căn cứ địa – hậu phương tại chỗ, chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hóa – xã hội…
3.2.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài luận án giới hạn nghiên cứu trong giai đoạn từ tháng 7-1954 đến tháng
4-1975, tức trong thời kỳ đấu tranh chống Mỹ cứu nước của quân và dân cả nước.

Mặc dù đề tài chỉ giới hạn trong giai đoạn này, nhưng thực tế cuộc đấu tranh cách
mạng của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một có liên hệ rất lớn đối với các giai đoạn
trước. Do đó, luận án cũng đề cập khái quát đến lịch sử truyền thống của tỉnh Thủ
Dầu Một cho đến trước tháng 7-1954.
3.2.3. Không gian nghiên cứu
Luận án tập trung phản ánh các cuộc đấu tranh cách mạng chống Mỹ, cứu
nước của quân và dân trên địa bàn tỉnh Thủ Dầu Một trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ cứu nước gồm có thị xã Thủ Dầu Một, huyện Tân Uyên, huyện Bến Cát,
huyện Thuận An, huyện Phú Giáo (tức phạm vi thuộc tỉnh Bình Dương hiện nay,
bao gồm thành phố Thủ Dầu Một; các thị xã Bến Cát, Tân Uyên, Thuận An, Dĩ An
và các huyện Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú Giáo, Bàu Bàng, Bắc Tân Uyên).
Đồng thời, luận án cũng chú trọng mở rộng hướng nghiên cứu, đặt cuộc đấu
tranh cách mạng của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một trong tiến trình đấu tranh cách
mạng trên phạm vi toàn miền Nam và cả nước, để từ đó làm nổi bật những nét đặc
thù của tỉnh Bình Dương trong các cuộc đấu tranh cách mạng chống Mỹ, cứu nước.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phong trào đấu
tranh cách mạng của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc ở các nước thuộc địa.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Hướng tiếp cận: Khác với các công trình nghiên cứu lịch sử Đảng bộ và
lịch sử kháng chiến (nghiên cứu quá trình hình thành, tổ chức và lãnh đạo của các tổ

4


chức Đảng), lịch sử cuộc đấu tranh cách mạng của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một
trong giai đoạn 1954-1975 là cuộc chiến tranh nhân dân. Do đó, luận án tập trung
làm rõ những nguyên nhân, quá trình diễn biến và đặc điểm lịch sử của cuộc đấu

tranh cách mạng của quân và dân Bình Dương qua từng giai đoạn lịch sử. Trong đó
nhấn mạnh: Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ địa phương; Vai trò của quần chúng nhân
dân; Các vấn đề liên quan đến cuộc đấu tranh như vấn đề xây dựng căn cứ địa
kháng chiến, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân...
- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu lịch sử đấu tranh cách mạng của
quân và dân từ góc độ sử học, đề tài vận dụng chủ yếu hai phương pháp nghiên cứu
cơ bản của khoa học lịch sử, đó là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên
cạnh đó, đề tài còn chú trọng sử dụng các phương pháp: tổng hợp, so sánh, phỏng
vấn hồi cố, phương pháp liên ngành,…
- Phương pháp lịch sử: Giúp chúng tôi xem xét và trình bày quá trình hình
thành và xây dựng lực lượng cách mạng của quân và dân tỉnh Bình Dương qua các
thời kỳ và giai đoạn lịch sử cụ thể, gắn với bối cảnh tình hình của mỗi thời kỳ, mỗi
giai đoạn; làm rõ các sự kiện và vấn đề lịch sử như nó đã từng xảy ra trong quá khứ.
Kết hợp phương pháp logic với phương pháp lịch sử, đề tài hệ thống lại các sự kiện,
đúc kết những đặc điểm, vai trò, thành công, hạn chế trong quá trình hình thành,
xây dựng và đấu tranh của lực lượng cách mạng tỉnh Bình Dương ở từng thời kỳ,
từng giai đoạn cũng như trong suốt quá trình chống Mỹ xâm lược (từ 1954 đến
1975). Qua đó rút ra những bài học bổ ích cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay.
- Phương pháp phỏng vấn hồi cố: Nhằm khai thác tư liệu từ các nhân chứng
lịch sử, nhất là các nhân chứng đã trực tiếp tham gia các trận đánh lịch sử, các
phong trào đấu tranh tiêu biểu, sôi nổi trong giai đoạn 1954-1975, để thu thập thêm
nguồn tư liệu sống, đối chiếu và bổ sung thêm vào nguồn tư liệu thành văn có phần
ít ỏi, phân tán ở các giai đoạn này; góp phần làm rõ thêm hiện thực sinh động của
nội dung nghiên cứu mà tài liệu thành văn chưa phản ánh đầy đủ.
Bên cạnh đó, để giải quyết những vấn đề khoa học của luận án, tác giả vận
dụng thêm các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, liên ngành trong việc khai thác,

5



chọn lọc và phân tích các tài liệu thu thập được.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Về tài liệu
Sưu tầm và hệ thống hóa các tài liệu đa dạng và phong phú từ nhiều nguồn
như thư viện, bảo tàng, cục lưu trữ, nguồn tài liệu mà chúng tôi sưu tầm được,... về
lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975). Luận án góp phần bổ sung tài liệu phục vụ cho việc
tham khảo, nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương. Đây đồng thời là nguồn tài
liệu bổ khuyết cho việc nghiên cứu về lịch sử đấu tranh của quân và dân miền Đông
Nam Bộ nói chung và tỉnh Thủ Dầu Một nói riêng trong một giai đoạn kháng chiến
đầy cam go và thử thách.
5.2. Về nội dung
- Luận án góp phần phục dựng một cách hệ thống và toàn diện về tiến trình
đấu tranh cách mạng của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một trong 21 năm chiến tranh
giải phóng (1954-1975). Đặc biệt, chúng tôi chú ý đến việc làm rõ vai trò lãnh đạo
của Đảng bộ địa phương, vấn đề xây dựng căn cứ địa kháng chiến, vấn đề xây dựng
lực lượng vũ trang 3 thứ quân và vai trò của quần chúng nhân dân, vai trò của lực
lượng chủ lực, xây dựng hậu phương tại chỗ, xây dựng các tổ chức cách mạng trên
địa bàn tỉnh. Đây chính là những nhân tố tích cực, nêu bật tinh thần “lấy dân làm
gốc”, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng của quân và dân Thủ Dầu Một.
- Làm rõ đặc điểm và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ
của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một. Trong đó, chú trọng nêu bật vai trò lãnh đạo
sáng suốt và đường lối quân sự đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc
kết hợp sức mạnh tổng hợp của quân và dân Thủ Dầu Một “chung sức, chung lòng”
đấu tranh chống xâm lược.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- “Lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân tỉnh Bình Dương (19541975)” là một bộ phận của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
miền Nam. Viết về lịch sử Bình Dương trong thời kỳ 1954-1975 có ý nghĩa góp
phần cụ thể để góp phần đánh giá, tổng kết về những năm đấu tranh hào hùng của


6


dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều có ý nghĩa khoa học
và thực tiễn.
- Bình Dương – Thủ Dầu Một lúc đó (một tỉnh nằm giữa miền Đông Nam
Bộ) là chiến trường chính của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền
Nam vì nơi này là một trong những địa bàn chiến lược quan trọng. Giải quyết được
những vấn đề được đặt ra, luận án sẽ bổ sung những luận cứ khoa học không những
để hoàn chỉnh bức tranh đầy đủ, chân thực quá trình đấu tranh cách mạng, đầy tính
sáng tạo, quả cảm của quân và dân tỉnh Bình Dương, mà còn góp phần làm rõ nét
tính độc đáo của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hào hùng của dân tộc Việt
Nam. Đồng thời, những nhận xét được rút ra trong quá trình nghiên cứu sẽ gợi mở
những bài học thiết thực đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân
dân tỉnh Bình Dương giai đoạn hiện nay. Đây chính là ý nghĩa khoa học và giá trị
thực tiễn của đề tài luận án.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của
luận án gồm 4 chương:
- Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài
luận án.
- Chương 2. Những yếu tố địa lý và lịch sử chi phối đến cuộc đấu tranh cách mạng
của quân và dân Thủ Dầu Một
- Chương 3. Diễn biến đấu tranh cách mạng của quân và dân Thủ Dầu Một
từ 1954 đến 1965.
- Chương 4. Diễn biến đấu tranh cách mạng của quân và dân Thủ Dầu Một
từ 1965 đến 1975.
- Chương 5. Đặc điểm và bài học kinh nghiệm.


7


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu chung về cuộc kháng chiến chống Mỹ
có liên quan đến luận án
- Công trình “Lịch sử Việt Nam”, tập XII (từ năm 1954 đến năm 1965)
do Trần Đức Cường chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2014) và Lịch sử
Việt Nam, tập XII (từ năm 1965 đến năm 1975) do Nguyễn Văn Nhật chủ biên
(Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2014). Trong tập XII, ở chương 2, công trình đề
cập đến “Miền Nam dưới sự thống trị của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Nhân dân
miền Nam đấu tranh chính trị, giữ gìn và phát triển lực lượng, tiến lên Đồng
Khởi (1954-1960)” và chương 4: “Quân và dân miền Nam đánh thắng chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt của Mỹ”; Sang tập XIII, nói đến cách mạng miền
Nam, có chương 2: “Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ”,
chương 4: “Đánh thắng một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hoá chiến
tranh” của đế quốc Mỹ (1969-1973)” và Chương 6: “Hoàn thành sự nghiệp giải
phóng miền Nam (1973-1975)”. Hai tập Lịch sử Việt Nam (tập XII và tập XIII)
nói trên đã nêu khái quát về công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
làm hậu phương chi viện sức người và sức của cho công cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở miền Nam từ năm 1954 đến 1975 cũng như việc quân và dân
miền Nam từng bước đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, hoàn
thành thống nhất đất nước nói chung nhưng chưa đề cập chi tiết vào lịch sử đấu
tranh cách mạng của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một trong giai đoạn 1954-1975.
- Công trình “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng
lợi và bài học” (Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính trị, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996) trình bày một cách hệ thống về nguyên nhân,

đặc điểm, tính chất, diễn biến, nhận xét ưu khuyết điểm và bài học kinh nghiệm
của cuộc kháng chiến chống Mỹ trong cả nước và tại miền Đông Nam Bộ. Công

8


trình đã cung cấp cho chúng tôi cái nhìn toàn cảnh và cụ thể khi xem xét về lịch
sử đấu tranh cách mạng ở Thủ Dầu Một trong bối cảnh chung và từ đó sẽ có các
đánh giá khách quan hơn, cũng như thấy rõ hơn những đặc điểm riêng của địa
phương, của vùng.
- Công trình “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975”,
gồm 9 tập (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, trực thuộc Bộ Quốc Phòng, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013) đã trình bày một cách có hệ thống về tiến
trình lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 trên phạm vi cả
nước, cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và có hệ thống về cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân
trên cả nước, đánh bại chủ nghĩa thực dân mới mà Mỹ thực hiện ở Việt Nam.
Bằng nhiều chiến lược chiến tranh, họ đã huy động đến mức cao nhất những
tiềm lực kinh tế, quân sự, đồng thời lôi kéo các nước phụ thuộc tham gia vào
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Công trình trên đã trình bày đường lối kháng chiến của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, huy động sức mạnh của
toàn dân tộc để tiến hành cuộc chiến tranh yêu nước vì độc lập, tự do của Tổ
quốc. Trong đó, quân và dân Việt Nam đã nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết
thắng, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng cách mạng về mọi mặt, vừa ra sức
xây dựng và bảo vệ hậu phương miền Bắc, vừa anh dũng chiến đấu giải phóng
miền Nam. Trước một kẻ thù lớn mạnh hơn Việt Nam về mọi mặt, quán triệt tư
tưởng tiến công cách mạng, quân và dân Việt Nam đã sáng tạo ra nhiều cách
đánh độc đáo, hiệu quả, vừa đánh vừa thăm dò, vừa đánh vừa đúc rút kinh
nghiệm chiến đấu, đánh địch bằng ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược

rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, sử dụng nghệ thuật quân sự đi từ khởi
nghĩa từng phần, tiến lên chiến tranh cách mạng, lần lượt đánh bại từng chiến
lược chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất Tổ quốc. Đồng thời, công trình này cũng đã luận giải, phân tích

9


tính chất, đặc điểm, tầm vóc và những bài học lịch sử của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước trên phạm vi cả nước.
- Công trình “Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, tập II (1954-1975)” cùng 2
công trình khác là “Những vấn đề chính yếu của lịch sử Nam Bộ kháng chiến
(1945-1975) và “Biên niên sự kiện lịch sử Nam Bộ kháng chiến 1945-1975”
thuộc bộ sách Nam Bộ kháng chiến (Hội đồng chỉ đạo lịch sử Nam Bộ kháng
chiến, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2010). Đây là những công
trình nghiên cứu mà chúng tôi đặc biệt quan tâm vì nó có liên quan đến luận án.
Các công trình này phản ánh cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp (1945-1954)
và đế quốc Mỹ (1954-1975) của nhân dân Nam Bộ nói chung và của nhân dân
tỉnh Thủ Dầu Một nói riêng. Công trình chủ yếu nêu lên cuộc kháng chiến, quá
trình tổ chức kháng chiến của nhân dân Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương, của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Xứ ủy và Ủy ban hành
chính kháng chiến Nam Bộ nhằm chống lại chính sách xâm lược của thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ.
- Công trình “Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam bộ lãnh đạo kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975)” (Hội đồng chỉ đạo
biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2003). Công trình này đã phục dựng các giai đoạn chống Mỹ (1954-1975) dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ đối với phong trào đấu tranh cách mạng của quân và dân
các tỉnh miền Đông Nam Bộ (trong đó có tỉnh Thủ Dầu Một). Công trình này
cũng làm rõ đường lối, nghệ thuật, kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ miền Đông

Nam Bộ, một trong những yếu tố tiên quyết đưa đến thành công của cuộc kháng
chiến chống Mỹ tại miền Đông Nam Bộ nói chung và Thủ Dầu Một nói riêng.
- Công trình “Lịch sử miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ kháng
chiến (1945-1975)” (Đảng uỷ – Bộ tư lệnh Quân khu 7, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2011) đã đề cập đến địa bàn miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ
là địa bàn chiến lược có tính chất sống còn trong cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ suốt 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc của

10


nhân dân Việt Nam. Trong đó, Sài Gòn được quân xâm lược xây dựng thành thủ
đô, trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, nơi đặt bộ máy chỉ huy chiến
tranh với những lực lượng chính trị, quân sự tinh nhuệ và hệ thống kho tàng dự
trữ hậu cần và phương tiện chiến tranh khổng lồ. Đối với lực lượng kháng chiến,
miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ là địa bàn chiến lược trọng yếu cả về
chính trị, quân sự, kinh tế. Đây là địa bàn trở thành chiến trường trọng yếu giành
giật quyết liệt, dai dẳng giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù xâm lược, nơi khởi
đầu và cũng là nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược cuối cùng kết thúc chiến
tranh. Công trình đã phục dựng lại thời kỳ quân và dân miền Đông Nam Bộ và
cực Nam Trung Bộ đã chiến đấu hy sinh trên chiến trường này trong 30 năm
chiến tranh giải phóng dân tộc. Các tác giả của công trình này đã trình bày một
cách có hệ thống về diễn biến cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa
vào sức mình là chính, đồng thời tìm ra những bài học lịch sử, cổ vũ những
người đang sống, đặc biệt là thế hệ trẻ, nhiệt tình và trách nhiệm để kế tục truyền
thống vẻ vang của lớp người đi trước.
Công trình này là những nguồn tài liệu tham khảo giúp chúng tôi bám sát
các diễn biến lịch sử chống Mỹ của quân và dân Nam Bộ. Trên cơ sở đó, chúng
tôi rút ra những vấn đề phù hợp phục vụ cho đề tài.
- Công trình “Cuộc kháng chiến 1945-1975 nhìn từ Nam Bộ”, của tác

giả Hồ Sơn Đài (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008). Công trình đã đề cập
đến nhiều nội dung có liên quan đến đề tài luận án như sự lãnh đạo của các đảng
bộ địa phương; vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa; vấn đề
đấu tranh chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa tại Nam Bộ trong 30 năm chiến
tranh giải phóng.
Ngoài những công trình khoa học đề cập chung đến cuộc kháng chiến
chống xâm lược của nhân dân và lực lượng vũ trang cả nước nói chung và Nam
Bộ nói riêng, còn có một số công trình nghiên cứu về từng lĩnh vực của cuộc đấu
tranh cách mạng có liên quan đến đề tài luận án. Cụ thể như sau:

11


- Về phương thức đấu tranh cách mạng, có:
1) Công trình “Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá “quốc sách”
ấp chiến lược của Mỹ - ngụy ở miền Nam Việt Nam (1961-1963)” được xuất
bản năm 2003, tác giả Trần Thị Thu Hương. Công trình này tập trung trình bày
vai trò, định hướng, chỉ đạo có tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công
cuộc đấu tranh chống Mỹ. Đặc biệt, đây là công trình nghiên cứu công phu với
nhiều tài liệu trong và ngoài nước đã mang lại cho chúng tôi một cái nhìn bao
quát hơn cho đề tài của luận án. Cụ thể là sự đoàn kết của quân và dân miền
Nam chống Mỹ đã được sự quan tâm và chỉ đạo tận tình của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phương pháp và tinh thần đấu tranh cách mạng. Trong đó, hoạt động
chống phá ấp chiến lược được tác giả tập trung phân tích khá rõ nét. Những
thông tin từ công trình này cũng giúp luận án của chúng tôi có được cái nhìn bao
quát và phong phú hơn.
2) Công trình “Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương, Chuyên đề:
Kết hợp đấu tranh hai chân, ba mũi giáp công trên ba vùng chiến lược trong
kháng chiến chống đế quốc Mỹ ở miền đông Nam Bộ (1954-1975)” (Bộ Tổng
tham mưu, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001) (tài liêu lưu hành nội bộ).

Chuyên đề tập trung nói về nghệ thuật chiến tranh nhân dân của Việt Nam bằng
việc đấu tranh chống Mỹ với phương châm “hai chân, ba mũi” trong việc đánh
phá càn quét của địch, phá ấp chiến lược, phá hệ thống đồn bót... là một nghệ
thuật chiến tranh nhân dân chống chính sách bình định của kẻ thù một cách sáng
tạo ở miền Nam nói chung và ở miền Đông Nam Bộ nói riêng. “Hai chân, ba
mũi giáp công, trên ba vùng chiến lược” để chỉ sự kết hợp đấu tranh bằng hình
thức sáng tạo, độc đáo của chiến tranh cách mạng. Hai chân là lực lượng chính
trị và vũ trang; ba mũi là chính trị, vũ trang và binh vận; ba vùng chiến lược là
đồng bằng, đô thị và rừng núi. Tất cả đã kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau
đắc lực tạo điều kiện cho quân cách mạng đánh bại những chiến lược chiến tranh
của Mỹ và cũng nhờ vận dụng phương châm này, cách mạng đã phát huy được
sức mạnh tổng hợp của các lực lượng đấu tranh với kẻ thù xâm lược bằng cả hợp

12


pháp và bất hợp pháp, từ đó giúp cho cách mạng miền Nam giữ được thế chủ
động tiến công. Do đây là công trình tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương
thông qua chuyên đề về việc “Kết hợp đấu tranh hai chân, ba mũi giáp công trên
ba vùng chiến lược trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ ở miền đông Nam Bộ
(1954-1975)” nên công trình này không nghiên cứu sâu về phong trào đấu tranh
cách mạng của quân và dân Thủ Dầu Một một cách toàn diện cũng như chưa có
những đánh giá đầy đủ về đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm rút
ra từ cuộc kháng chiến của quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một.
3) Công trình: “Phong trào chống phá bình định nông thôn ở Nam Bộ
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1969-1972)” (Hà Minh Hồng,
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000) đã cung cấp một cái nhìn rõ nét hơn về
những chiến lược của quân và dân miền Nam trong phong trào chống phá bình
định nông thôn của kẻ thù. Trong đó, những bài học này khi được so sánh đối
chiếu cũng cho thấy đó là kinh nghiệm mà quân và dân Thủ Dầu Một đã áp dụng

hiệu quả và sáng tạo trong cuộc đấu tranh cách mạng chống Mỹ xâm lược.
4) Công trình “Phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược” (Nguyễn
Công Thục, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006) tập trung đề cập đến chiến
lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Chính quyền Mỹ đã sử dụng “ấp chiến lược”
là xương sống của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và là một biện pháp chiến
tranh tổng lực nhằm tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân, để tiến tới bình
định miền Nam trong vòng 18 tháng. Công trình tập trung phân tích các phong
trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược trong hai năm 1963 và 1964 mà tiêu biểu
là chiến thắng Ấp Bắc (Mỹ Tho) và Bình Giã (Bà Rịa) trên địa bàn miền Nam.
Trên cơ sở đó, công trình cũng đã đúc kết ý nghĩa thắng lợi và bài học kinh
nghiệm của phong trào đấu tranh này. Những ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
này cũng cho thấy quân và dân miền Đông và miền Tây Nam Bộ đã đánh bại
chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ và chính quyền Sài Gòn như thế nào,
trong đó có quân và dân Thủ Dầu Một cũng đã hưởng ứng phong trào đấu tranh
để chống lại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” này.

13


- Về xây dựng tiềm lực và căn cứ địa kháng chiến, có:
1) Công trình “Tổng kết công tác hậu cần chiến trường Nam Bộ - Cực
Nam Trung Bộ (B2) trong kháng chiến chống Mỹ” (Tổng cục Hậu cần xuất
bản, Hà Nội, 1986). Công trình này đã cung cấp cho người đọc những kiến thức
quan trọng về hệ thống cung cấp hậu cần trong cuộc kháng chiến chống đế quốc
Mỹ xâm lược trên toàn chiến trường Nam Bộ và Cực Nam Trung bộ, trong đó đề
cập về những hoạt động của các khu vực hậu cần quan trọng nằm trên đất Thủ
Dầu Một, được nhân dân che chở và ủng hộ (thuộc các Đoàn hậu cần 81, 82).
2) Công trình “Căn cứ địa ở miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975)” là luận án tiến sĩ lịch sử của Trần Thị Nhung (bảo
vệ tại Viện Khoa học xã hội tại TP. Hồ Chí Minh năm 2001) đã tập trung trình

bày về hệ thống căn cứ địa trên toàn miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến
chống Mỹ. Trong đó, tác giả đã đề cập đến vai trò và hoạt động của các căn cứ
địa trên địa bàn của tỉnh Bình Dương, như căn cứ địa đạo Nam Bến Cát, vùng
Tam giác sắt, Long Nguyên… Chúng tôi xem các kiến thức tổng quan về sự phát
triển của các căn cứ địa từ giai đoạn kháng chiến chống Pháp sang giai đoạn
chống Mỹ là sự chuyển biến có tính kế thừa với những nội dung quan trọng cần
nghiên cứu kỹ lưỡng để phục vụ cho luận án.
3) Công trình “Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945-1954)” (Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, 1996) của tác giả Hồ Sơn Đài. Công trình đã tập trung
làm rõ vai trò của các chiến khu được thành lập trong kháng chiến chống Pháp ở
miền Đông Nam Bộ, tiền đề quan trọng cho sự ra đời của hệ thống căn cứ địa
trong kháng chiến chống Mỹ sau này.
4) Công trình “Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm hình thành và phát
triển”, (Nhiều tác giả, Nxb. Đồng Nai, 1998) có các bài viết “Biên Ḥòa, nơi sản
sinh cách đánh đặc công” và “Chiến khu Đ còn – Sài Gòn mất” v.v… Các
chuyên đề này đã nhấn mạnh tầm quan trọng của những căn cứ địa liên hoàn ở
tỉnh Thủ Dầu Một, từng là nơi đứng chân hoạt động của các lực lượng cách
mạng, là bàn đạp tấn công và là trung tâm điều hành cuộc kháng chiến chống

14


thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở miền Đông Nam Bộ. Chúng tôi xem đây là một
trong những nội dung quan trọng có liên quan đến đề tài luận án.
- Về đánh giá kẻ thù, có:
1) Công trình “Vì sao Mỹ thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt
Nam” của tác giả Phạm Văn Đồng (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986) đã ra đời vào
thời điểm đất nước đang hàn gắn những vết thương chiến tranh và tiến bước vào
thời kỳ “cải cách và mở cửa”. Giai đoạn “Đổi mới” cần một cái nhìn toàn diện
về nguyên nhân Mỹ thất bại ở Việt Nam để rút ra nhiều bài học kinh nghiệm.

Trong đó, chúng tôi nhận thấy, tình đoàn kết quân và dân keo sơn gắn bó là một
trong những nguyên nhân hàng đầu mà người Mỹ đã chủ quan không tính đến kỹ
lưỡng. Đây là một trong những nội dung quan trọng để chúng tôi xem xét sự gắn
kết của quân và dân Thủ Dầu Một trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ...
2) Các bài viết như: “Vài suy nghĩ về hậu phương chiến tranh nhân dân
Việt Nam” (Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 3, năm 1993) của nhà nghiên cứu Trần
Bạch Đằng hay “Căn cứ địa cách mạng – truyền thống và hiện tại” (Tạp chí
Lịch sử quân sự, số 4, năm 1995) của nhà sử học Văn Tạo cũng có đề cập chi tiết
đến những đặc trưng của các căn cứ địa Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ.
Nhìn chung, các tác giả đã nhận định và đánh giá xác đáng về tầm quan trọng
của các căn cứ địa như là trận địa vững chắc để góp phần đưa hoạt động đấu
tranh cách mạng đến thắng lợi. Vai trò của các căn cứ địa cùng thực tiễn triển
khai hoạt động trong các căn cứ để phục vụ cho công cuộc đấu tranh cách mạng
là nội dung có giá trị tham khảo cho luận án. Chính vì vậy, chúng tôi xem đây là
nội dung quan trọng mà luận án cũng phải cần chú ý đến.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu mà chúng tôi đã đề cập như trên là
những kiến thức tổng quan nhiều mặt về cuộc đấu tranh cách mạng trên phạm vi
cả nước trong những năm 1954-1975, trong đó việc nghiên cứu riêng ở tỉnh Thủ
Dầu Một không thể đặt ngoài những vấn đề trên, nếu không nói là phải được
xem xét kỹ lưỡng dưới ảnh hưởng chung của vùng và cả nước.

15


1.2. Nhóm các công trình đề cập trực tiếp đến đấu tranh cách mạng ở Thủ
Dầu Một trong chống Mỹ
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu có đề cập trực
tiếp đến cuộc đấu tranh cách mạng của quân và dân Bình Dương trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tiêu biểu là các công trình sau đây:
- Về sự chỉ đạo và điều hành của đảng bộ, chính quyền địa phương, có:

1) Công trình “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1930-1975)” (Ban
chấp hành Đảng Bộ tỉnh Bình Dương, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003)
đã nêu cụ thể hơn diễn biến cuộc kháng chiến của quân và dân tỉnh Bình Dương,
trong đó phân tích rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quần chúng
nhân dân đấu tranh chống Mỹ giai đoạn 1954-1975. Trong Phần IV của công
trình đề cập đến: “Đảng bộ tỉnh lãnh đạo nhân dân trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (20-7-1954 – 30-4-1975)” là nội dung quan trọng có liên
quan đến giai đoạn lịch sử mà luận án đề cập. Các tổ chức Đảng ở Bình Dương
được ra đời từ trong lòng quần chúng nhân dân, mặc dù luôn đứng trước rất
nhiều gian lao, hy sinh, mất mát nhưng tổ chức Đảng vẫn luôn nhận được sự tin
cậy và động viên, hỗ trợ từ quần chúng nhân dân. Thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cho thấy các cấp Đảng bộ địa phương đã giữ vai trò quan trọng
và đáp ứng được những yêu cầu của cuộc kháng chiến trong từng giai đoạn cụ
thể. Quá trình lãnh đạo của Đảng để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá về
phát huy sức mạnh của nhân dân khi tiến hành công cuộc đấu tranh cách mạng
để giải phóng dân tộc. Nhìn chung, công trình này là tài liệu cần thiết để chúng
tôi tham khảo về vai trò của các tổ chức Đảng trong mối quan hệ với phong trào
đấu tranh cách mạng của quân và dân Bình Dương giai đoạn 1954-1975.
2) Công trình “Lịch sử công tác Đảng, công tác chính trị lực lượng vũ
trang nhân dân tỉnh Bình Dương (1945-2010)” (Đảng bộ, Bộ chỉ huy quân sự
tỉnh Bình Dương, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2014) viết về sự lãnh đạo
của Đảng Công sản Việt Nam với công tác chính trị lực lượng vũ trang nhân dân
tỉnh Thủ Dầu Một trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-

16


1954) và chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975) cũng như công cuộc xây
dựng tỉnh nhà từ sau ngày đất nước hoà bình và thống nhất đến năm 2010.
3) Công trình “Lịch sử chính quyền nhân dân tỉnh Bình Dương (19452005)” (Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật,

Hà Nội, 2014). Chương III của chuyên khảo này tập trung nói về giai đoạn
chống Mỹ cứu nước của nhân dân tỉnh Thủ Dầu Một là “Chính quyền nhân dân
ở Bình Dương trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975” gồm
149 trang (từ trang 104 đến trang 252). Chuyên khảo nêu lên tiến trình chiến
tranh cách mạng của nhân dân tỉnh Thủ Dầu Một đấu tranh chính trị kết hợp với
đấu tranh vũ trang, tiến tới Đồng khởi giành quyền làm chủ (1954-1960); Việc
xây dựng tổ chức cách mạng, đấu tranh vũ trang, kết hợp ba mũi giáp công, phá
ấp chiến lược để đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ; Phát huy
vai trò của chính quyền cách mạng để từng bước đánh bại các chiến “Chiến tranh
cục bộ”, “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ và đẩy mạnh đấu tranh
tiến công và nổi dậy sau Hiệp định Paris năm 1973… Như vậy, chuyên khảo này
không có chủ ý nghiên cứu sâu về phong trào đấu tranh cách mạng của quân và
dân Bình Dương trong những năm 1954-1975 một cách hệ thống, toàn diện cũng
như chưa đưa ra những đánh giá đầy đủ về đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học
kinh nghiệm của quân và dân tỉnh Bình Dương.
- Về điều kiện tự nhiên, xã hội và các yếu tố liên quan đến đấu tranh
cách mạng ở Bình Dương, có các công trình “Địa chí Bình Dương, tập I: Tự
nhiên – Nhân Văn”, (Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2010); “Thủ Dầu Một Bình Dương Đất nước – con người” (Hồ
Sơn Diệp chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012)… Nói về kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của công trình này, ở
chương II, mục V: “Cư dân Bình Dương trong hai cuộc kháng chiến chống xâm
lược 1945-1975”, mục này gồm 4,5 trang (từ trang 77 đến trang 81) chủ yếu
trình bày về sự biến động dân cư của tỉnh Thủ Dầu Một trong những năm 19451975. Trong chương IV, mục I: “Tiến trình giữ nước” gồm 27 trang (từ trang

17


145 đến trang 171) công trình trình bày khái quát về tiến trình giữ nước của nhân
dân tỉnh Thủ Dầu Một cho đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước. Ở mục II của chương 2: “Di tích lịch sử cấp quốc gia ở Bình Dương” gồm
23 trang (từ trang 172 đến trang 194), công trình cũng chỉ khái quát vài nét về
cuộc kháng chiến chống Mỹ như Di tích chiến khu Đ; Di tích lịch sử cách mạng
Địa đạo Tây Nam Bến Cát; Di lịch lịch sử cách mạng Sở chỉ huy tiền phương
Chiến dịch Hồ Chí Minh…Tóm lại, công trình này không chủ ý nghiên cứu sâu
về phong trào đấu tranh cách mạng của quân và dân Thủ Dầu Một.
- Về cuộc chiến tranh chống xâm lược của quân và dân tỉnh Sông Bé
cũ (Bình Dương và Bình Phước ngày nay) và tỉnh Bình Dương nói riêng, có:
1) Công trình “Sông Bé lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (19451975)” (Cao Hùng chủ biên, Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1990), công trình “Địa
chí tỉnh Sông Bé” (Nhiều tác giả, Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1998), cũng có bài
viết tiêu biểu về vấn đề lịch sử đấu tranh cách mạng của Sông Bé như “Lịch sử
đấu tranh cách mạng Sông Bé 1920-1945” của tác giả Lưu Huỳnh Thống và
công trình “Sông Bé 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975)” do tác giả
Nguyễn Viết Tá chủ biên; v.v… Tuy nhiên, các công trình của các tác giả nêu
trên chủ yếu chỉ dừng lại ở việc đề cập đến bối cảnh lịch sử chung, vai trò lãnh
đạo của Đảng bộ địa phương và của Khu ủy, vấn đề củng cố chính quyền, vấn đề
xây dựng căn cứ địa, xây dựng các lực lượng vũ trang, đồng thời trình bày diễn
biến của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược trên
địa bàn cả hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước ngày nay.
2) Công trình “Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh Bình Dương (19451975)” (Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2014) đề cập đến quá trình trình 30 năm chiến tranh (1945-1975) của Đảng
bộ, quân và dân tỉnh Thủ Dầu Một. Trên cơ sở đó, Đảng bộ, quân và dân tỉnh
Thủ Dầu Một đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân,
giành được những thắng lợi to lớn, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Với tính chất của cuộc chiến tranh nhân dân

18


do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và tổ chức triển khai trong suốt hai thời kỳ

kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, quân và dân Thủ
Dầu Một đã sáng tạo ra nhiều cách đánh độc đáo, phong phú và linh hoạt. Đó là
cách đánh kết hợp các hình thức tác chiến tập trung của các đơn vị chủ lực đóng
trên địa bàn, các phương thức tác chiến kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn,
vừa để nâng cao năng lực đánh địch, vừa để củng cố và mở rộng không ngừng
quyền làm chủ của nhân dân trên khắp các địa bàn chiến lược. Tinh thần tiến
công địch của quân và dân Thủ Dầu Một còn được thể hiện trong việc vận dụng
một cách linh hoạt thế trận chiến tranh nhân dân, kết hợp đánh địch cả bằng quân
sự, chính trị và binh vận; bằng tiến công quân sự và khởi nghĩa của quần chúng
với phương châm mỗi thôn xóm là một pháo đài chiến đấu, mỗi người dân là
một chiến sĩ tự mình chủ động tìm mọi cách để chống địch, sáng tạo ra những
cách đánh địch thích hợp bằng 3 mũi giáp công: chính trị, quân sự, binh vận;
bằng mọi thứ phương tiện, mọi thứ vũ khí có trong tay. Công trình còn phản
ánh những đóng góp lớn lao về của cải vật chất, công sức, trí tuệ và cả máu
xương của các tầng lớp nhân dân Thủ Dầu Một và biết bao cán bộ, chiến sĩ từ
mọi miền đất nước đã từng công tác, chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến
đầy gian lao mà anh dũng trên vùng đất Thủ Dầu Một. Công trình này không
những có giá trị lưu giữ những trang tư liệu lịch sử quý giá về cuộc chiến
tranh nhân dân, phục vụ công tác giáo dục truyền thống, là niềm tự hào của
thế hệ hôm nay và mai sau đối với thế hệ cha anh, mà còn là sự tri ân những
người đã cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, cho
đất nước hòa bình. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn cuộc
chiến tranh nhân dân ở Thủ Dầu Một từ năm 1945 đến 1975 ngoài giá trị về
mặt học thuật, nó còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay ở địa phương.
3) Công trình “Thủ Dầu Một – Bình Dương đất lành chim đậu” (Sở văn
hoá Thông tin tỉnh Bình Dương, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1999).
Ở chương I của công trình này với tiêu đề “300 năm một vùng đất”, công trình

19



khái quát về lịch sử phát triển của Bình Dương ngày nay. Với mục “Bình Dương
trong kháng chiến chống Mỹ” (từ trang 102 đến trang 115), tác giả Hồ Hữu Nhựt
đã khái quát về quá trình đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Bình Dương góp
phần cùng nhân dân miền Nam đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ...
Đây là một công trình tập hợp các bài viết, các bài báo viết về mọi mặt hoạt động
trong đời sống xã hội của nhân dân Bình Dương từ xưa đến nay, do đó công
trình này không nghiêng về hướng nghiên cứu phong trào đấu tranh cách mạng
của quân và dân Thủ Dầu Một giai đoạn 1954-1975.
- Về từng lĩnh vực cụ thể trong đấu tranh cách mạng ở Bình Dương, có:
1) Công trình “Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Bình Dương
(1945-2005)” (Quân Khu 7, Đảng ủy, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Dương,
Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2010), trình bày một mảng quan trọng
trong lịch sử đấu tranh cách mạng của tỉnh Thủ Dầu Một, đó là lịch sử hình
thành, xây dựng, chiến đấu và công tác của các lực lượng vũ trang tỉnh Thủ Dầu
Một cả trong thời kỳ kháng chiến chống xâm lược, cũng như trong thời kỳ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc kéo dài suốt 60 năm (1945-2005). Trong quá trình đó,
lực lượng vũ trang nhân dân Thủ Dầu Một đã sáng tạo nhiều cách đánh độc đáo,
hoàn chỉnh từng bước nghệ thuật tác chiến tiêu diệt địch. Trong các chiến thuật
du kích, cũng như các trận đánh chống càn, phòng ngự, phản công và tiến
công..., các đơn vị bộ đội tỉnh, bộ đội huyện và dân quân du kích đều quán triệt
tư tưởng kiên quyết tiến công, phát huy lối đánh sở trường, truyền thống, linh
hoạt, mưu trí, nhằm vào chỗ yếu, sơ hở của địch, tạo và nắm thời cơ đánh những
trận giành thắng lợi lớn. Đồng thời phối hợp nhịp nhàng giữa hai lực lượng, hai
hình thức là đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, lực lượng vũ trang Thủ
Dầu Một đã vận dụng thực hiện sáng tạo cách đánh đặc công, cách đánh quân
viễn chinh xâm lược Mỹ hay cách thức đấu tranh ba mũi giáp công: chính trị, vũ
trang, binh vận. Quá trình ấy còn thể hiện một cách sinh động trong việc thực
hiện phương châm tác chiến ở từng vùng chiến trường: căn cứ địa, nông thôn

đồng bằng, thị xã, thị trấn... Từ đó đề cập đến các bài học kinh nghiệm thiết thực

20


về xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang.
2) Công trình “Lịch sử chiến khu Đ” (Hồ Sơn Đài (chủ biên), Nxb. Đồng
Nai, 1997). Công trình này chủ yếu nói về lịch sử hình thành chiến khu Đ, việc
xây dựng và bảo vệ căn cứ địa trong kháng chiến cũng như việc chống phá kẻ
thù bao vây nhằm tiêu diệt căn cứ địa cách mạng. Trong lời nói đầu của công
trình, nhóm tác giả viết: “Trong dòng phát triển chung của lịch sử hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ diễn ra trên địa bàn miền Đông Bam Bộ,
chúng tôi cố gắng tìm chọn, trình bày riêng lịch sử chiến khu Đ – với tư cách là
một căn cứ địa kháng chiến. Đó là sự hình thành chiến khu, quá trình xây dựng
đi đôi với bảo vệ chiến khu, mọi hoạt động xung quanh việc thực hiện nhiệm vụ
chức năng của một căn cứ, cùng toàn bộ những sự kiện lịch sử tiêu biểu đã diễn
ra trên vùng đất ngày càng được mở rộng của chiến khu Đ và địa bàn có liên
quan” (37, tr.10-11).
3) Các công trình “Phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân cao
su miền Đông Nam Bộ” (Thành Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1982); Ký sự
lịch sử “70 năm lịch sử công nhân cao su Dầu Tiếng” (Lê Văn Khoa chủ biên,
Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1990) và “Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt
Nam (1906-1990)” (Huỳnh Lứa, Nxb. Trẻ, 1993) có ý nghĩa tham khảo cho đề
tài của luận án vì chúng tôi nhận thấy vai trò của công nhân cao su là không thể
bỏ qua, bởi những đóng góp thiết thực và hiệu quả của họ trong hoạt động vừa
sản xuất vừa tham gia đấu tranh chống Mỹ.. Nhìn chung, những hoạt động đấu
tranh của công nhân Thủ Dầu Một được đề cập trong các công trình này có giá
trị tham khảo và bổ sung thêm tư liệu cho đề tài luận án.
4) Công trình “Phong trào đấu tranh của công nhân cao su Thủ Dầu
Một trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975)” là luận án tiến sĩ khoa

học lịch sử của Nguyễn Thị Mộng Tuyền (bảo vệ tại Viện Phát triển bền vững
vùng Nam Bộ năm 2010) cũng đề cập đến phong trào đấu tranh của công nhân
cao su ở Thủ Dầu Một. Ở Chương III của luận án: “Phong trào đấu tranh của
công nhân cao su Thủ Dầu Một trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ từ năm

21


1954 đến năm 1975” có những nội dung có thể tham khảo cho đề tài luận án.
Trong chương này, tác giả tập trung nêu bật những đóng góp của công nhân cao
su trong việc góp phần làm thất bại các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến
tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài
Gòn. Việc công nhân cao su vừa lao động vừa kháng chiến để góp phần giữ
vững địa bàn quan trọng tiếp giáp với các căn cứ kháng chiến của quân cách
mạng. Ngoài ra, công nhân cao su cũng chủ động tham gia trực tiếp vào những
chiến dịch quan trọng (như đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Genève năm
1954, đòi hòa bình và thống nhất đất nước, “chống” viện trợ của Mỹ hay đấu
tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang và đòi dân sinh dân chủ trong giai đoạn
1957-1959,…) để đóng góp vào công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam năm
1975. Các hình thức kết hợp đấu tranh của công nhân dưới sự lãnh đạo của ban
cán sự Đảng, chi bộ đồn điền,… và việc kết hợp lực lượng trong ngoài, ba mũi
giáp công: chính trị, quân sự, binh vận đã đóng góp một phần to lớn và tích cực
làm biến chuyển cuộc kháng chiến trên địa bàn tỉnh. Công nhân cao su ở Thủ
Dầu Một ngoài việc vừa lao động, vừa tham gia đấu tranh chính trị, vũ trang, họ
còn tiếp tế ủng hộ kháng chiến... đã đóng góp một phần to lớn vào cuộc kháng
chiến trên địa bàn tỉnh. Đây là một trong những nội dung quan trọng, góp thêm
phần tư liệu tham khảo cho luận án.
- Về lịch sử của từng địa phương (huyện, thị xã, thị trấn) thuộc tỉnh
Bình Dương ngày nay có nhiều công trình đã được xuất bản như: “Lịch sử
Đảng bộ Thị xã Thủ Dầu Một, tập I (1930-1945), tập II (1945-1975)” (Tỉnh ủy

Sông Bé chủ biên, 1986); “Thuận An những chặng đường lịch sử, tập I (19301954), tập II (1954-1975)” (Ban Thường vụ Huyện ủy Thuận An chủ biên,
1988); “Truyền thống cách mạng của quân và dân Bến Cát, tập I (1930-1954),
tập II (1954-1975)” (Ban Tuyên giáo Huyện ủy Bến Cát xuất bản, 1988); “Lịch
sử Đảng bộ huyện Dầu Tiếng (1945-1975”) (Đảng bộ huyện Dầu Tiếng chủ
biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000); “Lịch sử huyện Tân Uyên, tập I
(1930-1975)” (Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1992); “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình

22


×