Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

thực trạng và giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2011-2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.72 KB, 41 trang )

MỤC LỤC

I. Cơ sở lý thuyết
1. Khái niệm
2. Vai trò của nông nghiệp với phát triển kinh tế
3. Các giai đoạn phát triển nông nghiệp
II. Thực trạng phát triển nông nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015
1. Đặc điểm của ngành nông nghiệp Việt Nam
2. Đánh giá thực trạng ngành nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015
2.1.Những thành tựu đạt được
a. Thành tựu
b. Cơ sở thành tựu
2.2.Những hạn chế còn tồn tại
a. Hạn chế
b. Nguyên nhân
III. Định hướng, giải pháp và các chính sách thúc đẩy phát triển nông nghiệp
1. Định hướng phát triển
2. Giải pháp
2.1. Giải pháp về khoa học công nghệ
2.2. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực
2.3. Giải pháp về cơ sở hạ tầng
2.4. Giải pháp tổ chức sản xuất và kinh doanh
3. Chính sách
3.1.

Chính sách đất đai

3.2.

Chính sách giá nông nghiệp


3.3.

Chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp

3.4.

Chính sách đầu tư phát triển Nông thôn

3.5.

Chính sách khác

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1


I. Cơ sở lý thuyết
1. Khái niệm
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập, sử dụng đất đai để trồng trọt và
chăn nuôi, tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp.
Nông dân là một bộ phận dân số của xã hội, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân
sống chủ yếu bằng các ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc
gia, từng thời kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ
hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội.
Nông thôn là vùng lãnh thổ nơi sinh sống của nông dân hành nghề nông nghiệp.
2. Vai trò của nông nghiệp với phát triển kinh tế
- Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển
Ở những nước đang phát triển, đại bộ phận dân số sống bằng nghề nông. Để phát triển
kinh tế, chính phủ cần có những chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp nhằm
nâng cao năng suất cây trồng và tạo ra nhiều việc làm ở khu vực nông thôn.

- Cung cấp yếu tố đầu vào cho phát triển công nghiệp và khu vực đô thị
Nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu vực dự trữ và cung cấp lao động cho
phát triển công nghiệp và đô thị.
Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn cho công nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp
nâng lên nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá, mở rộng thị
trường…
Khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn cho sự phát triển kinh tế trong đó có
công nghiệp, nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, bởi vì đây là khu vực lớn nhất,
xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ nông nghiệp có thể được tạo ra
bằng nhiều cách, như tiết kiệm của nông dân đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp,
thuế nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản…
- Làm thị trường tiêu thụ của công nghiệp và dịch vụ
Nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ lớn của công nghiệp. Phát triển mạnh mẽ
nông nghiệp, nâng cao thu nhập dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua từ khu vực nông
2


thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát triển, từng
bước nâng cao chất lượng sản phẩm của nông nghiệp và có thể cạnh tranh với thị trường
thế giới.
3. Các giai đoạn phát triển nông nghiệp
Nội dung

Nông nghiệp truyền
thống

Mục tiêu của Sản xuất ở giai đoạn
hoạt động
này chủ yếu là để giải

sản xuất
quyết nhu cầu sống và
tồn tại
Tích chất
Đặc điểm cơ bản của
của hoạt
sản xuất nông nghiệp
động sản
truyền thống là tự cung
xuất
tự cấp, nhỏ lẻ, với một
hoặc hai cây lương
thực chủ yếu. Sản
lượng và năng suất cây
trồng thấp.
Hàm sản
Y=f(L, R)
xuất
Vốn đầu tư ít, đất đai
và lao động là yếu tố
chính của sản xuất. Do
đó, quy luật lợi nhuận
giảm dần được thể hiện
rõ khi phải sử dụng lao
động trên đất đai ngày
càng cằn cỗi. Việc tăng
sản lượng được thực
hiện bằng việc tăng
diện tích đất canh tác
nhờ các dự án thủy

nông.
Đời sống
Mang tính rủi ro cao và
không ổn định, bấp
bênh, nguy cơ đói
nghèo luôn cận kề.

Nông nghiệp đa dạng
hóa
Sản xuất để bán, tối đa
hóa thị trường
Đa dạng hóa cây trồng
cùng với việc chăn
nuôi gia súc, mở rộng
quy mô sản xuất, xen
canh tăng vụ, phát triển
nông nghiệp theo chiều
rộng.
Y=f(L,R,K)
Sản xuất vẫn dựa vào
lao động và đất đai và
chủ yếu, đã xuất hiện
đóng góp của công
nghệ, dù là rất nhỏ,
biểu hiện ở những công
cụ thủ công, bán cơ
giới, xuất hiện đóng
góp của vốn thông qua
các giống cây mới, các
công trình thủy lợi,

phân bón.
Cuộc sống ổn định
hơn, đảm bảo đầy đủ
về lương thực, có các
sản phẩm nông nghiệp
trao đổi buôn bán.

Nông nghiệp
chuyên môn hóa,
thương mại hóa
Sản xuất hoàn toàn
cho thị trường và
mục tiêu là lợi
nhuận thương mại.
Chuyên môn hóa,
quy mô lớn, phát
triển các sản phẩm
hàng hóa có giá trị
kinh tế cao, hiện đại
hóa nông nghiệp,
phát triển theo chiều
sâu.
Y=f(L,K,T)
Vốn và tiến bộ khoa
học công nghệ đóng
vai trò chính trong
việc thúc đẩy tăng
trưởng nông nghiệp.
Tiến bộ của công
nghệ sinh học làm

tăng năng suất cây
trồng kết hợp với cơ
giới hóa làm tăng
năng suất lao động.
Đời sống người
nông dân được cải
thiện, giàu lên nhờ
nông nghiệp

II. Thực trạng phát triển nông nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015
1. Đặc điểm của ngành nông nghiệp Việt Nam
3


a. Sản phẩm
Ở nước ta, các sản phẩm nông nghiệp hầu hết là sản phẩm thứ cấp, có giá trị thấp so với
sản phẩm của các ngành khác. Cầu về hàng lương thực co giãn ít so với giá, thậm chí độ
co giãn là âm. Khi thu nhập tăng, người tiêu dùng có xu hướng tiêu dùng ít sản phẩm
lương thực hơn so với các sản phẩm khác.
Bên cạnh đặc điểm giá cả nông sản thấp, giá đầu vào cao cũng là 1 đặc điểm cần chú ý
của nông nghiệp Việt Nam. Nông dân đều mua vật tư nông nghiệp qua các kênh phân
phối trung gian, không trực tiếp mua được sản phẩm từ nhà sản xuất. Hơn nữa, các doanh
nghiệp cũng đều bán hàng thông qua các đại lý cấp 1,2,3. Qua hệ thống phân phối này,
giá vật tư nông nghiệp tăng cao, có thể đội lên 3-4 lần khi tới tay nông dân.
Ngoài ra, sản phẩm nông nghiệp nói chung dễ biến chất, và không thể dự trữ trong thời
gian dài.
b. Sản xuất
- Sản xuất còn mang tính truyền thống: nhỏ lẻ, manh mún
Đất đai là yếu tố sản xuất không thể thiếu trong quá trình sản xuất nói chung, đặc biệt là
trong sản xuất nông nghiệp. Xuất phát điểm là một quốc gia thuần nông, Việt Nam có

những thế mạnh về đất đai và đã tạo ra được những thành tựu nhất định trong ngành sản
xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, năng suất lao động của nông nghiệp Việt Nam hiện nay còn
thấp so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Một trong những nguyên
nhân gây ra tình trạng đó là do vấn đề manh mún đất đai trong sản xuất nông nghiệp của
Việt Nam. Hiện nay, theo tiêu chuẩn của thế giới, Việt Nam là một trong những quốc gia
có mức độ manh mún đất đai cao nhất so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người trên thế giới là 0.52ha, trong khu
vực là 0.36ha thì ở Việt Nam là 0.25ha.
- Sử dụng nhiều lao động
Lao động trong nông nghiệp hiện nay phần lớn vẫn là lao động chân tay, công cụ lao
động đơn giản, một phần cũng vì lý do đất đai phân tán nên không thể áp dụng rộng rãi
khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất. Theo Tổng cục thống kê, trong giai đoạn 20102014, lao động trong nông nghiệp vào khoảng 24 triệu người, chiếm 47% trong cơ cấu
lao động.
4


- Phụ thuộc vào đất đai, điều kiện tự nhiên
Hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách quan. Trước hết,
nông nghiệp khác cơ bản với các ngành khác ở chỗ tư liệu sản xuất là đất đai. Gắn liền
với vai trò chủ đạo của đất đai là ảnh hưởng của thời tiết. Cùng với thời tiết, độ màu mỡ
và cấu tạo thổ nhưỡng của đất đai mỗi nơi một khác nên việc lựa chọn cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, kỹ thuật canh tác cũng khác nhau.
c. Con người
Trên góc độ sản xuất,công việc sản xuất nông nghiệp của người nông dân phụ thuộc vào
nhiều hiện tượng của tự nhiên như trời, đất, nắng, mưa... Bởi vậy mà họ rất tôn trọng, hoà
thuận với tự nhiên và phụ thuộc vào nó. Đồng thời, cần cù, chăm chỉ cũng là đức tính nổi
bật của người nông dân Việt Nam. Trên góc độ xã hội, người nông dân Việt Nam hiền
lành, chân chất, thật thà. Tuy nhiên đặc thù sản xuất nông nghiệp là phụ thuộc vào tự
nhiên làm người nông dân dễ trở nên rụt rè, thụ động.
Do đặc điểm sản xuấtriêng rẽ, manh mún đã dẫn đến tư duy còn bảo thủ, thiển cận, kém tổ

chức kỷ luật, tâm lý hẹp hòi, vị kỷ mang tính bè phái. Tư duy kinh nghiệm đã trở thành
thói quen trong đời sống của người nông dân. Họ thực sự xa lạ với lối tư duy duy lý, tư duy
thực nghiệm khoa học
Mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc phát triển nông nghiệp nhưng nông nghiệp Việt
Nam đã có những bước tiến nhằm hướng đến mục tiêu nền sản xuất chuyên môn hóa, nền
nông nghiệp thương mại.
Một số nơi có biểu hiện của giai đoạn nông nghiệp chuyên môn hóa: các trang trại lớn
như trang trại bò sữa ở Mộc Châu, chè ở Thái Nguyên, trang trại rau sạch ở Đà Lạt,…áp
dụng các phương pháp kĩ thuật hiện đại, tạo ra các sản phẩm có giá trị cao, không chỉ
phục vụ cho thị trường trong nước mà còn hướng đến xuất khẩu.
Tuy nhiên, biểu hiện của nông nghiệp truyền thống vẫn còn tồn tại ở một số nơi như vùng
núi phía Bắc hay Tây Nguyên, tại đây sinh sống chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số,
nông nghiệp mang tính tự sản xuất, tự tiêu dùng, đời sống nông dân bấp bênh, thường
xuyên lâm vào tình trạng đói, sản xuất chủ yếu sử dụng lao động chân tay, phụ thuộc
nhiều vào tự nhiên.

5


Nhìn chung, nông nghiệp Việt Nam đang ở cuối giai đoạn 2, nông nghiệp đa dạng hóa,
mục tiêu sản xuất để bán, mục tiêu chung là sản xuất hàng hóa, phát triển nông nghiệp
theo chiều rộng, đa dạng hóa các loại cây trồng. Công nghệ cao bước đầu đã xuất hiện,
tuy nhiên chưa nhiều và cũng chưa được áp dụng rộng rãi. Sản phẩm nông nghiệp sản
xuất ra nhiều nhưng khâu tiêu thụ lại làm chưa tốt, đời sống nông dân đủ ăn chứ chưa thể
làm giàu từ nông nghiệp.
2. Đánh giá thực trạng ngành nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015
2.1.Những thành tựu đạt được
a. Thành tựu
- Sản xuất nông lâm ngư nghiệp tăng trưởng ổn định
Gần đây, tình hình kinh tế có khó khăn do bị tác động của khủng hoảng và suy thoái kinh

tế thế giới, Nông nghiệp Việt Nam ngày càng rõ vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, tiếp tục
có mức tăng trưởng ổn định. Sản lượng nông sản ngày càng tăng, không những đáp ứng
được vấn đề an ninh lương thực trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Bảng 1: GDP các ngành kinh tế vào tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 20112015 (giá so sánh năm 2010)
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Toàn quốc
Nông – lâm – thủy sản
Nông nghiệp
Lâm nghiệp
Thủy sản

2011
2.297.220
418.494
327.030
15.404
76.060

2012
2.412.778
435.414
339.048
16.166
80.200

2013
2014
2015
2.543.596 2.696.796 2.875.856

446.905
462.905
473.671
346.541
355.551
362.769
17.101
18.272
19.677
83.263
88.701
91.225
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Qua bảng trên có thể thấy đóng góp của các ngành nông, lâm, thủy sản về giá trị tăng dần
qua các năm. Về giá trị thì so với năm 2011 năm 2015 tăng lên 55.177 tỷ đồng của ngành
nông, lâm, thủy sản. Trong đó ngành nông nghiệp tăng lên 35739 tỷ đồng, lâm nghiệp
tăng 4273 tỷ đồng 15165 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ rằng đóng góp vào GDP của ngành
nông, lâm, thủy sản vẫn chiếm một giá trị lớn.
Năm 2011, nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP và chiếm 30% giá trị kim ngạch
xuất khẩu quốc gia.

6


Năm 2012, nông nghiệp vẫn giữ đà tăng trưởng của năm 2011 với giá trị sản xuất nông,
lâm nghiệp và thủy sản cả nước tăng 3,4%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp
6,4%, thủy sản 4,5%.
Năm 2013, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sảncả nước tăng 3,2%. Trong đó,
nông nghiệp tăng 2,3%, lâm nghiệp 6%, thủy sản 4,5%.

Năm 2014,giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,9% so với năm 2013.
Năm 2015 giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,6% so với năm 2014, bao
gồm: Nông nghiệp tăng 2,3%; lâm nghiệp tăng 7,9%; thủy sản tăng 3,1%.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng GDP khu vực
nông nghiệp và thủy sản ước tính đạt bình quân 3,1%/năm; giá trị sản xuất tăng bình
quân 3,6%/năm.
Từ năm 2010-2014, giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất trồng trọt tăng 1,45 lần, trên 1
ha mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng 1,71 lần.
Giá trị sản phẩm thu được trên 1 ha đất trồng trọt đã tăng từ 54,6 triệu đồng/ha năm 2010
lên 79,3 triệu đồng/ha năm 2014 và khoảng 82-83 triệu đồng/ha năm 2015; 1 ha mặt nước
nuôi trồng thủy sản tăng từ 103,8 triệu đồng/ha lên 177,4 triệu đồng/ha, năm 2014 và
khoảng 183 triệu đồng/ha năm 2015.
+ Ngành trồng trọt: duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất trên 3,15%/ năm, an ninh
lương thực được đảm bảo, các cây công nghiệp, cây ăn quả có lợi thế cạnh tranh tiếp tục
phát triển.
+ Ngành chăn nuôi: tuy không tăng về số lượng đầu con, nhưng giá trị sản xuất toàn
ngành vẫn tăng bình quân gần 3,4%/năm, trọng lượng lợn thịt xuất chuồng bình quân từ
67,7kg/con năm 2011 lên 70kg/con năm 2014.
Đặc biệt là phương thức chăn nuôi trang trại, công nghiệp tiếp tục phát triển mạnh, đối
với chăn nuôi lợn, phương thức chăn nuôi trang trại, công nghiệp chiếm 35% đầu con và
43% về sản lượng; tương tự chăn nuổi gia cầm là 30% về đầu con và 40% về sản lượng.
+Ngành thủy sản: hoạt động khai thác thủy sản đã mở rộng quy mô ra xa bờ hơn nhờ
thiết bị hiện đại hơn; diện tích nuôi trồng thủy sản tăng nhanh, chuyển mạnh theo hướng
thâm canh, phát triển đa loài, đa loại hình, đa phương thức theo hướng thân thiện với môi

7


trường. Ước tính trong giai đoạn 2011-2015 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất đạt bình
quân 4,38%/ năm.

Bảng 2: Sản lượng thủy sản giai đoạn 2011-2015
Đơn vị: nghìn tấn
Năm
Tổng
Khai thác
Nuôi trồng
Tổng
Khai thác
Nuôi trồng
Tổng
Khai thác
Nuôi trồng
Tổng
Khai thác
Nuôi trồng
Tổng
Khai thác
Nuôi trồng

2011
2012
2013
2014
2015


4124.4
1868.8
2255.6
4342.9

1940.7
2402.2
4374.0
2022.4
2351.6
4571.0
2121.9
2449.1
4725.4
2202.8
2522.6

Tôm
630.9
152.2
478.7
630.1
156.2
473.9
723.0
162.5
560.5
790.5
159.0
631.5
797.2
169.0
628.2

Thủy sản khác

Tổng
692.1
5447.4
493.3
198.8
759.9
5732,9
525.3
234.6
922.7
6019,7
618.9
303.8
971.0
6332.5
638.3
332.7
1027.1
6549.7
664.5
362.6
Nguồn: Tổng cục thống kê.

+Ngành lâm nghiệp: đẩy mạnh trồng rừng, đặc biệt là rừng sản xuất, tốc độ tăng giá trị
sản xuất bình quân 5 năm 2011-2015 đạt 6,6%/ năm, vượt chỉ tiêu kế hoạch (5-6%/năm),
tỷ lệ che phủ rừng đạt 40,7%, trồng mới rừng tập trung 1055 ngàn ha.
- Nông nghiệp đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu
Bảng 3: Sản lượng và giá trị xuất khẩu giai đoạn 2011-2015
Đơn vị: Nghìn tấn, Triệu USD
2011

Lượng
Tổng
giá
trị
XK
Thủy
sản
Rau
quả
Điều

Giá
trị

96257

2012
Lượn
g

2013
Giá
trị

114631

Lượng

2014
Giá

trị

132175

Lượng

2015
Giá
trị

150042

Giá
trị

Lượng
162 439

-

6107

-

6156

-

6734


-

7867

-

6601

-

628

-

799

-

1040

-

1467

-

1850

178


1476

223

1480

264

1659

305

2012

329

2403
8



phê
Chè
Tiêu
Gạo
Sắn
Cao
su
Gỗ


1250

2741

1734

3686

1288

2694

1686

3553

1280

2567

133
125
7087
2613

201
746
3643
948


148
119
8047
4159

226
808
3689
1334

139
134
6722
3095

225
900
2986
1092

132
156
6412
3275

227
1205
2977
1108


125
132
6818
4100

212
1264
2902
1314

816

3223

1011

2826

1091

2526

1068

1787

1143

1539


-

3905

-

4641

-

5496

6099
6800
Nguồn: Tổng cục thống kê

Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 30,5 tỷ USD vào năm 2014 là năm dấu ấn
tăng trưởng ngoạn mục của ngành Nông nghiệp.
Cả giai đoạn 2011-2015, kim ngạch xuất khẩu đã tăng mạnh, tổng kim ngạch xuất khẩu 5
năm đạt 140,6 tỷ USD, bình quân tăng 9%/năm. So với năm 2010, tổng kim ngạch đã
tăng từ 19,5 tỷ USD lên 30,38 tỷ USD năm 2014 và 30,14 tỷ USD năm 2015, tăng
54,6%. Có 10 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1,0 tỷ USD (gạo, cà phê, cao su, cá
tra, tôm, hạt điều, hạt tiêu, rau quả, sắn và đồ gỗ).
Bảng 4: Tỷ trọng giá trị xuất khẩu nông sản giai đoạn 2011-2015
Đơn vị: %
Thủy sản
Rau quả
Điều
Cà phê
Chè

Tiêu
Gạo
Sắn
Cao su
Gỗ

2011
6,344
0,652
1,533
2,848
0,209
0,775
3,785
0,985
3,348
4,057

2012
5,370
0,697
1,291
3,216
0,197
0,705
3,218
1,164
2,465
4,049


2013
5,095
0,787
1,255
2,038
0,170
0,680
2,259
0,826
1,911
4,158

2014
2015
5,243
4,064
0,978
1,139
1,341
1,479
2,368
1,580
0,151
0,131
0,803
0,778
1,984
1,787
0,738
0,809

1,191
0,947
4,065
4,186
Nguồn: Tổng cục thống kê

Việt Nam hiện có hàng chục mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực mang tầm vóc thế
giới, trong đó xuất khẩu hạt tiêu đứng thứ nhất, gạo, cà phê, sắn đứng thứ hai, cao su
đứng thứ tư, thủy hải sản đứng thứ năm, chè đứng thứ bảy thế giới và nhiều mặt hàng
khác nữa. Năm 2010, Việt Nam mới chỉ có 18 thị trường xuất khẩu đạt hơn 1 tỷ USD,
nhưng đến năm 2015 đã tăng lên 28 thị trường. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của
các thị trường hơn 1 tỷ USD, chiếm gần 90% kim ngạch xuất khẩu chung cả nước.
9


Mỗi năm Việt Nam xuất khẩu hơn 30 tỷ USD các mặt hàng nông lâm thuỷ sản. Điển hình
như:
Gạo: Việt Nam là nhà xuất khẩu gạo lớn nhất nhì thế giới với lượng gạo xuất khẩu hàng
năm đạt 7-8 triệu tấn. Gạo Việt Nam có giá tương đối thấp và đặc biệt cạnh tranh ở các
thị trường Trung Quốc, Đông Nam Á và Châu Phi. Các chủng loại gạo của Việt Nam
được ưa chuộng trên thị trường thế giới gồm: Gạo trắng hạt dài, hạt vừa 5%, 15%, 25%,
100%; Gạo thơm: Jasmine, OM4900, Nàng Hoa…; Gạo nếp 10%, 100%; Gạo lức 5%;
Gạo đồ…
Tinh bột sắn: Lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam mỗi năm đạt
gần 4 triệu tấn, trong đó 1/2 là tinh bột sắn . Thị trường tinh bột sắn của Việt Nam bao
gồm: Trung Quốc; ASEAN; Ấn Độ; Nhật Bản; Hàn Quốc; Trung Đông; Châu Âu. Các
chủng loại tinh bột sắn phổ biến: Tinh bột sắn thường; tinh bột sắn biến tính; bã sắn dạng
viên, hạt. Mạng lưới xuất khẩu là gồm 50 nhà xuất khẩu và hơn 100 nhà nhập khẩu tinh
bột sắn Việt Nam.
Điều và các sản phẩm từ điều: Trong vòng 10 năm liên tiếp, Việt Nam luôn dẫn đầu thế

giới về xuất khẩu điều. Hiệp hội Điều Việt Nam, dự kiến cả năm 2015, Việt Nam xuất
khẩu khoảng 320 ngàn tấn nhân hạt điều, đạt khoảng 2,5 tỷ USD. Điều nhân của Việt
Nam được ưa chuộng trên toàn thế giới. Thị trường xuất khẩu điều chủ yếu của Việt Nam
trong thời gian qua vẫn là Hoa Kỳ, Hà Lan, Trung Quốc chiếm đến 61,17%. Các thị
trường có giá trị tăng trưởng mạnh là Đức, Thái Lan, Hoa Kỳ, Hà Lan.
Tiêu: Việt Nam là nhà xuất khẩu tiêu lớn nhất thế giới, với 30% sản lượng toàn cầu và
50% lượng tiêu xuất khẩu của thế giới. Theo thống kê của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam,
diện tích hồ tiêu cả nước đã vượt con số 100.000 ha. Nếu trong năm 2014, xuất khẩu hồ
tiêu đạt 156.000 tấn với 1,21 tỷ USD thì dự tính năm 2015, cả nước xuất khẩu khoảng
130.000 tấn, với kim ngạch 1,24 tỷ USD. Hiện có 20 doanh nghiệp xuất khẩu của Việt
Nam nằm trong tốp các nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới.Chủng loại hồ tiêu xuất khẩu hiện
nay chủ yếu là tiêu đen (500g/l, 570g/l, 600g/l), tiêu trắng (630g/l). Tiêu của Việt Nam
được xuất đi hơn 80 quốc gia, với các thị trường nhập khẩu chính: Mỹ, Đức, Hà Lan,
Anh, Ấn Độ.

10


Nguyên liệu và thành phẩm gỗ: Việt Nam hiện đang đứng trong tốp 6 các quốc gia và
vùng lãnh thổ xuất khẩu gỗ lớn trên thị trường thế giới Năm 2015 xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ của Việt Nam ước đạt khoảng 7 tỷ USD, tăng 1.74 lần so với 2011,và dự kiến
vào năm 2020 là 10 tỷ USD…
- Một nền nông nghiệp hướng vào sản xuất hàng hóa đã bước đầu được hoàn thành
Bảng 5: Diện tích và sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm
có giá trị xuất khẩu
Đơn vị: nghìn ha, nghìn tấn

Chè



2011
DT
SL
127,8 878,9
586,2 1276,6

2012
DT
SL
114,5 909,8
527,6 1260,4

2013
DT
SL
129,8 936,3
637,0 1381,1

2014
DT
SL
132,6 981,9
641,2 1408,4

2015
DT
SL
134,7 1000,9
645,2 1445,0


phê
Cao

801,6

789,3

510,0

877,1

958,8

946,9

978,9

966,6

981,0

1017,0

su
Dừa
Hồ

144,8
55,5


1201,1
112,0

131,6
48,2

1272,7
116,0

155,2
69,0

1303,6
130,4

160,2
85,6

1374,5
151,6

162,3
97,6

1434,0
168,8

309,1

320,7


312,5

308,1

275,5

295,1 345,1
292,0 345,0
Nguồn: Tổng cục thống kê

tiêu
Điều 363,7

Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu nên cơ cấu cây trồng được thay đổi phù hợp với điều kiện canh tác
của từng vùng. Diện tích và sản lượng các loại cây có giá trị xuất khẩu cao trong nước tăng
lên trong giai đoạn này. Ngoài ra, đã xuất hiện những mô hình sản xuất đạt tiêu chuẩn quốc
tế: mô hình sản xuất rau hữu cơ ở Đà Lat, mô hình sản xuất vải thiều Global Gap,…
- Nông nghiệp tạo việc làm cho một lượng lớn lao động.
Khu vực nông nghiệp đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động,
tiếp tục là ngành chính tạo ra thu nhập cho người nghèo.Năm 2015,trong tổng số 52,5
triệu lao động có việc làm của cả nước, lao động khu vực nông thôn chiếm khoảng 70,1%
(tương ứng khoảng 36,8 triệu người). Tỷ số việc làm trên dân số của năm 2015 đạt 74,5%
trong đó khu vực thành thị chỉ 66,8% còn khu vực nông thôn là 78.4%
Bảng 6: Cơ cấu lao động và số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của khu vực nông,
lâm, thủy sản trong giai đoạn 2011-2015
11



Năm
2011
2012
2013
2014
2015

Cơ cấu (%)
48,4
47,4
46,8
46,3
44,7

Số lượng (nghìn người)
24362,9
24488,2
24440,2
24539,0
23434,7
Nguồn: Tổng cục thống kê.

Năm 2015, khu vực nông, lâm, thủy sản chiếm 44,7% lao động mặc dù giảm so với năm
2011 (chiếm 48,4%) lao động nhưng ngành nông, lâm, thủy sản vẫn là nghành chủ chốt
cung cấp việc làm lớn cho lao động qua các năm với tỷ lệ lao động luôn ở mức cao, số
lượng lao động có việc làm ở khu vực này luôn ở mức 23 đến 24 triệu người.
- Xuất hiện một số mô hình sản xuất kiểu mới
Một nét mới trong phát triển nông nghiệp là đã xuất hiện một số mô hình tổ chức sản
xuất kiểu mới như kinh tế trang trại, cao su tiểu điền, cà phê nhân dân, tổ hợp tác tự
nguyện, hợp tác xãkiểu mới làm dịch vụ cho kinh tế hộ.

Năm 2011, Theo kết quả tổng hợp sơ bộ của Ban Chỉ đạo Tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thuỷ sản Trung ương , cả nước có 20.065 trang trại (tính theo tiêu chí mới).
Trong đó, riêng đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam bộ có tới 11.697 trang trại,
chiếm 58,3% tổng số trang trại trong cả nước. Trung du và miền núi phía Bắc có số trang
trại ít nhất, với 587 trang trại, chiếm tỷ lệ 2,9%. Ở khu vực này, trang trại chăn nuôi
chiếm đa số, với 506 trang trại.Do đặc điểm tự nhiên của nước ta không đồng đều nên tỷ
lệ các loại hình kinh tế trang trại có sự phát triển khác nhau để tối ưu hoá hiệu quả hoạt
động. Tính đến năm 2011, cả nước có 8.642 trang trại trồng trọt, chiếm 43% tổng số
trang trại; 6.202 trang trại chăn nuôi, chiếm 30,9%; 4.443 trang trại nuôi trồng thuỷ hải
sản, chiếm 22,1%; 737 trang trại tổng hợp, chiếm 3,7% và 51 trang trại lâm nghiệp,
chiếm 0,3%.
Năm 2015, trên địa bàn cả nước hiện có khoảng 29.500 trang trại. Trong đó, có 8.800
trang trại trồng trọt (chiếm 29,83%), 10.974 trang trại chăn nuôi (chiếm 37,20%), 430
trang trại lâm nghiệp (chiếm 1,46%), 5.268 trang trại thủy sản (chiếm 17,86%) và 4.028
trang trại tổng hợp (chiếm 13,66%). Số lượng trang trại đã tăng 9.433 trang trại so với
năm 2011. Các trang trại phân bố nhiều ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (6.911
trang trại, chiếm 30%) chủ yếu sản xuất thủy sản và trái cây; Đông Nam Bộ (6.115 trang
12


trại,chiếm 21%) chủ yếu là chăn nuôi; Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (5.693
trang trại, chiếm 20%) chủ yếu kinh doanh tổng hợp; Đồng bằng Sông Hồng (5.775 trang
trại,chiếm 19,5%) chủ yếu là chăn nuôi; Trung du và miền núi phía Bắc (2.063 trang trại,
chiếm 7%) chủ yếu là chăn nuôi và lâm nghiệp.
Các trang trại trong cả nước đã tạo công ăn, việc làm thường xuyên cho gần 100 nghìn
lao động và rất nhiều lao động có tính thời vụ, tạm thời ở các địa phương. Cùng với việc
giải quyết việc làm, kinh tế trang trại đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của
nền kinh tế. Tổng thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản của các trang trại đạt gần
39 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng 6% giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản), bình
quân 1942,5 triệu đồng một trang trại. Điểm đáng chú ý, tuy vùng trung du miền núi phía

Bắc có số trang trại thấp nhất, nhưng tổng thu sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản bình
quân một trang trại ở vùng này lại cao nhất, bình quân 2,868 tỷ đồng, tiếp đến là đồng
bằng sông Hồng, với 2,519 tỷ đồng, đồng bằng sông Cửu Long là 1,54 tỷ đồng và thấp
nhất là Tây Nguyên, với 1,315 tỷ đồng. Một kết quả tích cực khác, đó là trong tổng giá trị
sản phẩm và dịch vụ, tỷ suất sản phẩm hàng hoá do các trang trại bán ra chiếm tới 98,1%.
Có thể khẳng định kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến của kinh tế hộ,
mang lại hiệu quả cao cho sản xuất nông nghiệp do đó cần có chính sách phát triển và từ
2011-2015, mô hình trang trại ngày càng phổ biến và mở rộng hơn rất nhiều, đem đến
nhiều lợi ích về việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tăng xuất khẩu,... góp phần tăng
trưởng kinh tế trong giai đoạn này.
Ngoài ra, Việt Nam có hơn mười nghìn hợp tác xã nông nghiệp với tổng số thành viên
tham gia khoảng 6,7 triệu người. Ba năm sau khi Luật Hợp tác xã năm 2012 có hiệu lực,
thực tế triển khai tại nhiều địa phương cho thấy, các mô hình hợp tác xã kiểu mới được
thành lập và vận hành đã mang lại hiệu quả bước đầu cho kinh tế hợp tác xã nói riêng và
kinh tế tập thể nói chung. Nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, mô hình này đang trở
thành đòn bẩy, là yêu cầu tất yếu cho nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa.Với nhiều mô
hình hợp tác xã kiểu mới đang hoạt động trên khắp cả nước, các hộ nông dân cùng nhau
tham gia vào hợp tác xã. Họ cùng xây dựng kế hoạch, quy hoạch sản xuất xuất phát từ
nhu cầu của thị trường. Từ đó, các hộ nông dân sẽ tiếp tục sản xuất trên chính mảnh
ruộng của mình theo quy hoạch. Hợp tác xã sẽ đứng ra chịu trách nhiệm về cung ứng
13


giống, phân bón, các dịch vụ nông nghiệp khác và chịu trách nhiệm bao tiêu sản phẩm
cho các hộ nông dân, thành viên, xã viên của mình. Đây là một nét mới đáng ghi nhận
trong tổ chức sản xuất nông nghiệp hiện nay.
b. Cơ sở thành tựu
- Chính sách tạo thuận lợi cho nông nghiệp phát triển của Đảng và nhà nước
Trong 5 năm liền, từ năm 2011 đến 2015, hàng loạt chính sách và chủ trương mới tiếp tục
được xây dựng và áp dụng, từng bước tạo điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa theo cơ

chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã có nghị quyết về “Tam nông” để
nâng cao thu nhập cho người nông dân, nâng cao cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn, cải
thiện điều kiện sống, cải thiện dân trí...
Các chính sách tiếp sức cho dân như cung cấp tín dụng, khuyến nông, hỗ trợ lãi suất vốn
vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà
ở khu vực nông thôn.Cụ thể:Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư quy định chi tiết
thi hành việc hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng, thời hạn hỗ trợ lãi suất kể từ ngày giải
ngân vốn vay để nông dân tăng gia sản xuất.
Ngoài chính sách hỗ trợ sản xuất, Chính phủ tiếp tục có các chính sách hỗ trợ tiêu thụ
nông sản. Nhiều loại nông sản có khối lượng hàng hóa lớn, khó tiêu thụ đã được hỗ trợ
tạm trữ trong những thời điểm giá thế giới giảm hoặc khối lượng hàng hóa nhiều (cà phê,
lúa gạo, muối). Vì vậy, trong năm các loại nông sản đều được tiêu thụ kịp thời, là yếu tố
quan trọng kích thích sản xuất phát triển, tăng thu nhập cho nông dân.
Không chỉ dừng lại ở đó, các chính sách cụ thể từ Chính phủ, Bộ Tài chính đã góp phần
khơi thông nguồn vốn chảy về khu vực nông nghiệp, nông thôn mạnh mẽ hơn, tạo bộ mặt
mới cho kinh tế địa phương như: Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày 4/6/2012 về khuyến
khích doanh nghiệp (DN) đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Thông tư số 84/2011/TTBTC ngày 16/6/2011 hướng dẫn một số chính sách tài chính khuyến khích DN đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn… nhằm tạo sức hút mạnh mẽ đối với các DN thuộc mọi thành
phần kinh tế, tăng cường sản xuất hàng hóa ở khu vực nông thôn để mang lại hiệu quả
kinh tế-xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn như tinh thần Nghị
quyết 26/NQ-TW.

14


Các nhóm chính sách hướng vào bảo vệ sản xuất, phòng chống rủi ro, thiên tai đã tạo
điều kiện sản xuất ổn định, hình thành môi trường phát triển vững bền cho đời sống kinh
tế xã hội của cư dân nông thôn.
Các chính sách cải cách tổ chức thể chế như phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế trang trại,
kinh tế hợp tác, liên kết nông dân và doanh nghiệp, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và

nông lâm trường quốc doanh,... góp phần tích cực vào việc phát triển quan hệ sản xuất
trong nông nghiệp nông thôn.
Các nhóm chính sách xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, phát huy dân chủ cơ
sở,... đã tạo điều kiện thuận lợi để cư dân nông thôn phát huy vai trò làm chủ, tạo cho họ
điều kiện tiếp cận với các cơ hội hưởng lợi từ quá trình phát triển của đất nước.
Các nhóm chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo môi trường pháp lý để phát huy lợi
thế so sánh của nông lâm thuỷ sản Việt Nam trong cạnh tranh quốc tế, thu hút đầu tư
nước ngoài, tranh thủ sự viện trợ rộng rãi của quốc tế cho quá trình phát triển nông
nghiệp nông thôn Việt Nam.
Hợp tác quốc tế của ngành NN-PTNT đã đạt được nhiều thành tựu trong giai đoạn 2011 2015: năm 2014, Bộ NN&PTNT đã phê duyệt và ký kết được hơn 30 dự án gồm ODA
vốn vay và không hoàn lại với tổng giá trị trên 400 triệu USD, trong đó có một số dự án
lớn như: Phát triển nông thôn tổng hợp các tỉnh miền Trung (khoản vay bổ sung giai đoạn
2) với số vốn 92,5 triệu USD; dự án Phát triển Nông nghiệp có tưới (WB7) khoảng 200
triệu USD…
Về lĩnh vực hợp tác phi chính phủ nước ngoài (PCPNN), Bộ đã phê duyệt 22 dự án và
hợp tác nghiên cứu nguồn viện trợ PCPNN với tổng kinh phí hơn 7 triệu USD. So với
năm 2013, tổng giá trị các dự án PCPNN năm 2014 tăng 1,5 lần.
Song song với đó, Bộ NN&PTNT còn tập trung xây dựng nghiên cứu quy định và pháp
luật, hàng rào thuế và phi thuế, cam kết quốc tế của Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu theo
nhóm ngành hàng. Từng bước nghiên cứu các cam kết quốc tế hiện có của Việt Nam và
quy định hiện hành, giúp bổ sung thông tin để xây dựng năng lực cạnh tranh của hàng
hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, triển khai thực hiện đầy đủ cam kết của Việt
Nam trong WTO và các FTA khu vực. Đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết

15


tới khu vực nông nghiệp, nông thôn để hỗ trợ doanh nghiệp, nông dân tìm kiếm và mở
rộng thị trường, đồng thời có phương án chủ động trong bối cảnh hội nhập sâu...
- Áp dụng khoa học công nghệ góp phần thúc đẩy sản xuất

Khoa học công nghệ mới đã ứng dụng trong nông nghiệp. Trong đó có thể kể đến:
*Chương trình giống mới đã có hiệu quả lớn, góp phần đáng kể làm tăng năng suất và
chất lượng của nông nghiệp trong những năm qua.
+ Đến nay, đã có trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, bông, cây
ăn quả,... được dùng giống mới. Khoảng gần 90% giống cây trồng, vật nuôi được chọn
tạo, đưa tỷ trọng áp dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp lên 35%. Áp
dụng các quy trình canh tác tiên tiến, chương trình “3 giảm, 3 tăng”, canh tác bền vững,
phòng trừ tổng hợp IPM, sản xuất theo quy trình GAP.
+ Trong chăn nuôi sử dụng giống mới vào sản xuất nên năng suất, chất lượng sản phẩm
thịt, trứng, sữa được nâng cao. Trọng lượng lợn hơi xuất chuồng bình quân tăng 30
kg/con.
+Trong ngành thuỷ sản đã đưa vào sản xuất một số loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao.
Nhiều cơ sở chế biến thuỷ sản đạt trình độ công nghệ hiện đại so với một số nước trong
khu vực.Lâm nghiệp cung cấp 60% giống tiến bộ kỹ thuật cho trồng rừng kinh tế. Tỷ lệ
thành rừng đối với rừng trồng từ dưới 50% lên 80%, nhiều nơi năng suất rừng trồng đã
đạt 15 - 20m3/ha/năm.
*Trong bối cảnh giá ngày công lao động ngày càng tăng, tỷ lệ cơ giới hóa tăng nhanh
trong mọi khâu sản xuất nông nghiệp, trước hết từ các khâu tốn nhiều lao động trong
ngành trồng trọt như gặt đập, tưới tiêu, vận tải, làm đất. Cùng với mức phát triển của hệ
thống điện nông thôn, tỷ lệ áp dụng máy móc thiết bị cơ giới và điện trong chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản, xây dựng thủy lợi ngày càng tăng.
*Bộ Nông nghiệp và PTNT tiến hành phổ biến rộng rãi và áp dụng VietGAP cho 3 đối
tượng thủy sản chủ lực là cá tra, tôm sú, tôm thẻ chân trắng trong sản xuất giống và nuôi
thương phẩm. Bên cạnh đó, công nghệ Israel cũng được phổ biến rộng rãi, nông dân áp
dụng khá nhiều trong sản xuất nông sản, cây ăn trái: nhãn, vải, thanh long, sầu riêng…
xuất sang thị trường châu âu, châu mỹ.

16



Không dừng lại ở đó, để tăng cường tiếp cận khoa học tiên tiến thế giới, những năm nay,
rất nhiều cán bộ quản lý và nông dân được cử đi học tập kinh nghiệm, cách thức quản lý,
kỹ thuật tại những nước có thế mạnh về nông nghiệp công nghệ cao như Israel, Thái Lan,
Hàn Quốc, Malaysia và Trung Quốc để khi về nước áp dụng, sản xuất nông nghiệp.
Ngoài học hỏi các mô hình nông nghiệp hiệu quả của các nước, nông dân và cán bộ quản
lý nông nghiệp còn tham gia hoạt động xúc tiến thương mại nông sản nhằm phát triển
nguồn nhân lực lao động nông nghiệp chất lượng cao, góp phần phát triển nông nghiệp
thành phố theo hướng bền vững.
- Người nông dân cần cù, chịu khó
Nền sản xuất nông nghiệp bằng lao động chân tay rất nặng nhọc, vất vả quanh năm “một
nắng hai sương”, “cày sâu cuốc bẫm”, không những thế còn phải khẩn trương cho phù
hợp với thời tiết, nhất là đối với cây lúa nước, mưa nhiều thì ngập úng, nắng nhiều thì
hạn hán đều dẫn đến mất mùa. Nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam là nền nông nghiệp
đa canh, thâm canh, xen canh gối vụ phù hợp với thời tiết nóng ẩm của vùng nhiệt đới gió
mùa. Trải qua hàng ngàn năm, người nông dân Việt Nam đã chọn lựa, lai tạo hàng ngàn
giống cây trồng (cây lấy hạt, cây ăn quả, cây lấy sợi, cây làm thuốc...) và tích luỹ một kho
tàng tri thức bản địa (tri thức truyền thống) công nghệ truyền thống về trồng cấy, chăn
nuôi, chế biến lương thực, thực phẩm. Những tri thức, kinh nghiệm khai hoang, cải tạo
đất, làm thuỷ lợi, chống lại sâu bệnh, v.v... chính là kết quả của tinh thần cần cù, thông
minh, sáng tạo của nhân dân ta đã tích lũy.
-Điều kiện tự nhiên ưu đãi, cho phép nước ta phát triển một nền nông nghiệp nhiệt
đới đa dạng
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, rất thích hợp cho việc trồng lúa nước,
khí hậu phân hóa rõ rệt cho phép đa dạng hóa cơ cấu cây trồng, áp dụng các biện pháp
thâm canh tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ giữa các vùng: Ở trung du và miền núi, thế
mạnh là các cây lâu năm và chăn nuôi gia súc lớn, ở đồng bằng, thế mạnh là các cây
trồng ngắn ngày, thâm canh, tăng vụ và nuôi trồng thuỷ sản.
Địa hình nhiều sông ngòi, bồi đắp phù sa cho khu vực hạ lưu, hình thành các vùng đồng
bằng, đặc biệt là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Đối với đồng bằng
sông Hồng,diện tích đất nông nghiệp khoảng 760.000 ha, trong đó 70% là đất phù sa màu

17


mỡ, có giá trị lớn về sản xuất nông nghiệp. Đất nông nghiệp chiếm 51,2% DT vùng . Đất
đai của vùng rất thích hợp cho thâm canh lúa nước, trồng màu và các cây công nghiệp
ngắn ngày. Vùng có diện tích trồng cây lương thực đứng thứ 2 trong cả nước với diện
tích đạt 1242,9 nghìn ha.Khả năng mở rộng diện tích của đồng bằng vẫn còn khoảng 137
nghìn ha. Quá trình mở rộng diện tích gắn liền với quá trình chinh phục biển thông qua
sự bồi tụ và thực hiện các biện pháp quai đê lấn biển theo phương thức “lúa lấn cói, cói
lấn sú vẹt, sú vẹt lấn biển”.
Đối với đồng bằng sông Cửu Long, tổng diện tích khoảng 3,96 triệu ha, trong đó khoảng
2,60 triệu ha được sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản chiếm 65%.
Trong quỹ đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm trên 50%, trong đó chủ yếu
đất lúa trên 90%. Đất chuyên canh các loại cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày
khoảng 150.000 ha, đất cây lâu năm chiếm trên 320.000 ha, khoảng 8,2% diện tích tự
nhiên.Vùng bãi triều có diện tích khoảng 480.000 ha, trong đó gần 300.000 ha có khả
năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ
2.2.Những hạn chế còn tồn tại
a. Hạn chế
- Cơ cấu nông nghiệp chậm chuyển dịch, còn tồn tại nhiều yếu tố mất cân đối
Bảng 7: Cơ cấu và giá trị ngành nông nghiệp thuần theo giá hiện hành
Đơn vị: tỷ đồng

m
201
1
201
2
201
3


GTSX
toàn

Trồng trọt

Chăn nuôi

Dịch vụ
nông nghiệp

ngành NN Giá trị

Cơ cấu

Giá trị

Cơ cấu Giá trị

Cơ cấu

787196.6

577749

73.39

199171.8

25.3


10275.8

1.31

749325.4

534284.8

71.3

200849.2

26.8

14191.4

1.89

748138.9

534532.8

71.5

196955.1

26.3

16651


2.2

Nguồn: Tổng cục thống kê
18


Cơ cấu giữa trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ trong ngành nông nghiệp không có thay đổi
lớn, tỷ trọng ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn sau đó đến chăn nuôi và thấp nhất là
dịch vụ nông nghiệp. Tỷ trọng dịch vụ nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp cho thấy ngành
nông nghiệp nước ta chưa phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ nông nghiệp như:
giống mới, phân bón, bảo vệ cây trồng, thú y, tiếp thị, tín dụng,… để nâng cao năng suất
cây trồng, vật nuôi và giá trị gia tăng của sản phẩm làm ra. Thực tế cũng chứng minh
rằng Việt Nam vẫn nặng về sản xuất lúa gạo, cây công nghiệp như cà phê, cao su,…chăn
nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính, mức độ áp dụng khoa học kỹ thuật và các
phương pháp sản xuất tiên tiến còn ít nên chưa khai thác đầy đủ tiềm năng đất đai, nguồn
nước, khí hậu và các điều kiện tự nhiên tại các vùng sản xuất. Hiện nay, nông dân Việt
Nam vẫn chiếm số lượng đông đảo. Tuy nhiên ruộng đất lại có hạn và không tăng thêm.
Do vậy, càng đòi hỏi việc mở rộng và phát triển các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ
ở nông thôn để tạo công ăn việc làm cho người nông dân. Nhưng thực trạng lại cho thấy
hiện nay các hình thức công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn vẫn chưa thực sự phát triển
để đáp nhu cầu ứng công việc cho những người sống ở nông thôn.
Từ khi có Luật Doanh nghiệp 2014, số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn
đã tăng đáng kể. Tuy nhiên, kết cấu kinh tế ở nông thôn vẫn chủ yếu là thuần nông, các
hoạt động phi nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn chiếm tỷ lệ nhỏ.
Doanh nghiệp ở nông thôn, kể cả doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, đều có quy mô
nhỏ. Nhìn chung công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, tay nghề lao động yếu, những
bất lợi về kết cấu hạ tầng, dịch vụ phục vụ sản xuất khiến cho khả năng cạnh tranh của
các đơn vị này rất yếu. Có lẽ đây là nguyên nhân chính khiến cho tỷ lệ đầu tư tư nhân và
đầu tư nước ngoài vào nông thôn rất thấp. Đầu tư của tư nhân trong nước vào khu vực

nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 15% tổng số đầu tư mới hàng năm, FDI cũng chỉ chiếm
dưới 5%.
Bảng 8: Cơ cấu các ngành trong nông nghiệp
Đơn vị: %
Năm

Nông nghiệp thuần

Lâm nghiệp

Thủy sản

2011

78,1

3,68

18,22

2012

77.86

3,71

18,43
19



2013

77.54

3,83

18,63

2014

76.87

3,95

19,18

2015

76,58

4,15

19,27
Nguồn: Tổng cục thống kê

Cơ cấu ngành nông nghiệp thuần, lâm nghiệp và thủy sản gần như không thay đổi. Theo
đó trong giai đoạn này thì giá trị của các ngành đều tăng qua các năm nhưng về cơ cấu lại
có không có biến đổi. Cơ cấu ngành nông nghiệp thuần giảm nhẹ 1,52% từ năm 2011 đến
năm 2015. Cơ cấu ngành lâm nghiệp và thủy sản tăng nhẹ, trong đó thì lâm nghiệp tăng
lên 0,47% và ngành thủy sản tăng lên 1,05%. Ta có thể thấy tuy đã có những chuyển biến

tích cực và đi theo đúng định hướng nhưng ta thấy rằng cơ cấu chuyển dịch đang còn
chậm.
- Quy mô sản xuất nhỏ, hoạt động sản xuất còn manh mún
Việt Nam có thế mạnh về kinh tế nông nghiệp với hàng loạt các mặt hàng nông sản đứng
top xuất khẩu hàng đầu thế giới như: gạo, cà phê,… Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn
sản xuất theo phương thức nhỏ lẻ, manh mún. Thực tế quy mô sản xuất nông nghiệp Việt
Nam quá nhỏ lẻ, manh mún, khó tiến sâu vào sản xuất lớn, không thể đưa các công cụ
hiện đại như máy cày, máy gieo hạt, máy liên hợp gặt đập vào được. Nhìn vào đồng bằng
sông Hồng mỗi mảnh ruộng bé tẹo, chỉ vài trăm mét vuông. Lý do vì người ta chia bình
quân để công bằng, hộ nào cũng có ruộng cao, ruộng thấp trũng, ruộng xấu, ruộng tốt,
trong làng, ngoài đồng đều chia thế. Bình quân mỗi hộ ở Bắc Bộ chỉ có 3 sào, xấp xỉ
1.000 m2 mà có đến gần chục mảnh ruộng, thì mỗi ruộng chỉ có 100-200 m2. Với diện
tích bé, manh mún thế thì không thể đưa máy móc vào được, đến bây giờ vẫn còn cày
bằng trâu, trâu cày rồi thì còn thừa 4 góc, phải cuốc bằng tay. Bộ nông nghiệp có thống
kê, bình quân ruộng trên đầu người của nông dân đồng bằng sông Hồng chỉ bằng khoảng
1/1.000 so với nông dân Mỹ, bằng 1/10.000 so với nông dân Úc.
Sản xuất manh mún, nhỏ lẻ khiến cho nền kinh tế nông nghiệp của nước ta phát triển
thiếu bền vững, tính cạnh tranh của sản phẩm với khu vực và thế giới còn thấp. Người
nông dân tuy không còn đói ăn, nhưng chưa thể giàu. Đây là thách thức lớn đối với nước
ta, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng. Hạn chế lớn nhất của
ngành nông nghiệp Việt Nam hiện nay chính là ở chuỗi giá trị phát triển nông nghiệp.
20


Quy mô sản xuất nhỏ lẻ là nguyên nhân khiến cho nền kinh tế nông nghiệp chưa hấp thụ
được vốn và công nghệ, chưa đáp ứng được đòi hỏi của các thị trường lớn. Cũng bởi sản
xuất manh mún, nên người nông dân chưa có được lợi ích tương xứng với công sức bỏ ra,
các hình thức cánh đồng mẫu lớn hay hợp tác xã kiểu mới chưa thực sự toàn diện...
- Cơ cấu giống cây trồng vật nuôi còn nhiều điểm chưa hợp lý dẫn đến cơ cấu sản
phẩm nông nghiệp chưa hợp lý theo cả cung và cầu

Hiện nay có 2,8 triệu hecta đất nông nghiệp dùng để trồng lúa, diện tích đất được chuyển
mục đích sử dụng chỉ là 52000ha. Trong đó 3,76 triệu ha được giữ lại, có khoảng 400000
ha đất quy hoạch để chuyển đổi giống cây trồng nhưng khi cần thiết có thể quay lại trồng
lúa. Tuy nhiên theo tính toán nếu như áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông
nghiệp thì chỉ cần 1 triệu ha là đủ nên có thể thấy rằng lúa vẫn là ưu tiên hàng đầu của
Việt Nam.
Cùng với sự biến đổi khi hậu đang diễn ra ngày càng khó lường thì ngành nông nghiệp
cần phải có những điều chỉnh để thích ứng với những biến đổi khí hậu. Tuy nhiên cơ cấu
ngành nông nghiệp vẫn tập trung phần lớn vào lúa, các cây lương thực.
Đối với ngành chăn nuôi, mặc dù vào những năm gần đây khi bò sữa du nhập và ngày
càng có quy mô rộng lớn hơn và cũng đem lại những hiệu quả kinh tế nhất định nhưng
nhìn chung cơ cấu ngành vật nuôi vẫn còn thiếu đa dạng, nhiều loại có chất lượng kém.
- Năng suất lao động chưa cao, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng cạnh tranh
yếu do đó chưa hình thành chuỗi giá trị nông sản mạnh và bền vững.
Năng suất lao động của ngành nông nghiệp rất thấp chỉ bằng 1/3 năng suất lao động của
cả nước và khoảng cách giữa ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp có xu hướng ngày
càng gia tăng. Nếu như giá trị gia tăng trên mỗi lao động trong khu vực dịch vụ là
1400$/người, công nghiệp là 2200$/người thì nông nghiệp chỉ đạt chưa đầy 400$/người.
Theo báo cáo khoa học ngành nông nghiệp Việt Nam 2011-2015 thì năng suất lao động
bình quân của ngành nông nghiệp ở nước ta chỉ bằng 0,16% đến 0,22% so với ngành
công nghiệp từ 2006 đến nay.
Cùng với đó, chất lượng một số loại nông sản nước ta còn thấp, giá thành cao, thị trường
tiêu thụ chưa ổn định. Năng suất ngô chỉ bằng 80% năng suất bình quân thế giới; đậu
tương bằng 57% thế giới. Chất lượng nhiều loại nông sản của nước ta còn thấp, gạo là
21


mặt hàng xuất khẩu quan trọng, nhưng giá cùng loại luôn thấp hơn gạo của Thái Lan
khoảng 20-30 USD/tấn. Các nông sản khác, như: cà phê, chè, trái cây, cũng có tình trạng
tương tự như lúa gạo.

Không những vậy, công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch còn hạn chế, tổn thất còn
lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực, như: cao su, cà phê, điều, chè, rau quả... chủ yếu
là xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu. Tỷ lệ thất thoát, lãng phí do rơi rụng khi thu hoạch,
vận chuyển và sơ chế khoảng 12% sản lượng.
Do quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, nông dân chưa được tổ chức trong các hợp tác xã và
hiệp hội ngành hàng, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản chế biến như kho tàng, sân phơi,
bến bãi,... còn kém phát triển, công nghiệp chế biến nông sản rất nhỏ bé nên chất lượng
nhiều loại nông sản còn thấp, nhất là rau quả, sản phẩm chăn nuôi. Phần lớn nông sản chế
biến xuất khẩu ở dạng sơ chế, mẫu mã bao bì chưa phù hợp; chưa có thương hiệu, giá trị
gia tăng thấp. Vệ sinh an toàn thực phẩm trong nước và các hoạt động kiểm dịch và vệ
sinh dịch tễ đối với hàng hóa nhập khẩu, nhất là qua đường tiểu ngạch, chưa được kiểm
tra, kiểm soát một cách hệ thống trong khi tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp đang là
thách thức lớn trong quá trình hội nhập kinh tế. Người sản xuất và kinh doanh nông sản ở
Việt Nam còn xa lạ với phần lớn các tiêu chuẩn kỹ thuật được áp dụng phổ biến trên thị
trường quốc tế như các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, về xuất xứ hàng hóa, về
bảo vệ môi trường, về bảo vệ người lao động, về bảo hộ quyền tác giả, về đảm bảo tính
đa dạng sinh học... ngoài ra các vấn đề về bao bì, nhãn mác, đăng ký thương hiệu, bản
quyền, công nghệ,... cũng chưa được chú ý. Vì vậy, tuy tiêu tốn nhiều công sức tiền bạc
và tài nguyên tự nhiên để sản xuất nhưng giá trị thu được từ kinh doanh thấp, rủi ro cao.
- Thị trường thiếu ổn định, còn nhiều yếu tố bất ổn trong quá trình sản xuất tiêu thụ
đặc biệt là vấn đề giá cả.
Một thực tế hiện nay là hàng nông sản Việt Nam thường thua kém các nước khác từ 1550% về giá trị do những chênh lệch về chất lượng, điều này cũng đồng nghĩa với việc
hàng hóa của Việt Nam cạnh tranh kém trên thị trường, đặc biệt là tại các thị trường khó
tính. Dù đứng nhất nhì thế giới về số lượng xuất khẩu, nhưng giá bán nhiều mặt hàng
nông sản Việt Nam thường thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu
vực. Gạo Việt Nam giá bán luôn thấp hơn so với gạo cùng loại của Thái Lan từ 3-5%,
22


chè đứng thứ 5 về sản lượng nhưng xếp thứ 10 về giá bán, sản lượng cá tra Việt Nam

chiếm đến 90% thị phần trên thế giới nhưng giá bán lại thấp hơn 20-30% so với các sản
phẩm tương tự. Một số sản phẩm có giá thành sản xuất cao nhưng sức cạnh tranh kém
như đường, muối…
Tính bền vững và ổn định của chuỗi chỉ có thể đạt được khi có được quan hệ tốt với hệ
thống phân phối hoặc có được thị trường tiêu thụ ổn định. Do đó, các doanh nghiệp cần
tích cực thâm nhập, tiếp cận, mở rộng các kênh phân phối sản phẩm, tìm người đại diện
bán hàng tốt vào thị trường xuất khẩu, tổ chức tốt hệ thống phân phối sản phẩm, đặc biệt
là hệ thống bán lẻ, tăng cường thiết lập quan hệ đối tác trực tiếp với các nhà nhập khẩu,
giảm bớt việc xuất khẩu qua trung gian …; tổ chức các hội chợ quốc tế trong nước hoặc
tham gia các hội chợ nước ngoài… Tuy nhiên hiện tại việc mở rộng thị trường ra nước
ngoài của Việt Nam còn rất hạn chế. Thị trường tiêu thụ của Việt Nam vẫn đang là các
thị trường truyền thống chủ yếu nhưng hiện nay chính những thị trường này đang bị cạnh
tranh một cách gay gắt từ các nước khác. Bên cạnh đó, tư duy của người dân cũng khiến
cho chính doanh nghiệp cũng gặp khó trong khâu tiêu thụ khi mà tình trạng các hợp
đồng bị phá vỡ khi giá của nông sản tăng thì người dân lại bán cho doanh nghiệp, thương
lái khác. Ngoài ra, thương hiệu của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam chưa thực sự được
quảng bá rộng rãi, chưa nhiều người tiêu dùng trên thế giới biết đến nên rất khó nắm
được thị trường.
Tại hội nghị Quốc tế ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam năm 2015 được Bộ Công
Thương tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh vừa qua, theo đánh giá của các chuyên gia, một
trong những nguyên nhân là trong quá trình chế biến và bảo quản, nhiều sản phẩm tổn
thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất lượng hiện vẫn đang còn rất lớn, như lúa gạo
hao hụt khoảng 11-13 %; rau quả, đánh bắt hải sản khoảng 20-25%, muối hao hụt 15%...
làm tăng giá thành sản xuất nguyên liệu và sản phẩm, giảm chất lượng và giá bán sản
phẩm. Mặc dù tại nhiều địa phương đã áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp tốt (GAP)
và quy trình chế biến tốt (GMP) để đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh nhưng khâu
vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ không hợp lý, không đúng cách đã làm cho
chất lượng sản phẩm bị giảm sút nhiều.
- Tổ chức thể chế nông thôn chậm đổi mới
23



Sau khi áp dụng chính sách đổi mới hơn 20 năm trước đây, kinh tế hộ phát triển mạnh và
đến nay hộ nhỏ vẫn là đơn vị sản xuất kinh doanh chủ lực ở nông thôn. Quy mô sản xuất
manh mún nhưng không có hình thức liên kết hợp tác với nhau khiến cho sự năng động
và khả năng quản lý tài nguyên một cách hiệu quả của các hộ tiểu nông dường như đã đi
đến giới hạn phát triển. Phần lớn các hộ tiểu nông không có khả năng tích lũy tái sản xuất
mở rộng một cách đáng kể. Vì vậy mức độ áp dụng cơ giới hóa, cải tiến công nghệ, thay
đổi kỹ năng trình độ quản lý và tự chuyển đổi cơ cấu rất giới hạn.
Tuy kinh tế trang trại đã có bước phát triển nhanh, nhưng vẫn còn những tồn tại cần sớm
được khắc phục, đó là: kinh tế trang trại chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia đình nông dân và
gia đình cán bộ, công nhân viên đã nghỉ hưu. Sự tham gia của các thành phần kinh tế,
nhất là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chưa nhiều. Hầu hết các trang trại có
quy mô diện tích dưới mức hạn điền, có nguồn gốc đa dạng, đã gây không ít những bất
cập trong việc quản lý, sử dụng diện tích đất để phát triển kinh tế trang trại. Mặt khác, các
trang trại chủ yếu sử dụng lao động của gia đình; một số trang trại có thuê lao động thời
vụ và lao động thường xuyên, tiền công lao động chỉ được thực hiện theo hình thức thoả
thuận giữa hai bên, chưa thực sự tạo sự ổn định về giải quyết việc làm. Hầu hết vốn đầu
tư là vốn tự có và vốn vay của cộng đồng. Vốn vay của các tổ chức tín dụng chỉ chiếm tỷ
trọng nhỏ. Nhiều địa phương có kinh tế trang trại chưa làm tốt công tác quy hoạch sản
xuất, hệ thống thuỷ lợi, điện, thị trường… làm cho không ít trang trại gặp khó khăn trong
quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đã có nhiều trường hợp người dân nuôi bò sữa
phải đổ bỏ hàng trăm tấn sữa tươi do không tiêu thụ được. Nhiều chủ trang trại vẫn áp
dụng phương pháp sản xuất truyền thống, chưa chú ý tới việc áp dụng khoa học kỹ thuật
tiên tiến vào quá trình sản xuất cũng như tìm hiểu thị trường đầu ra cho sản phẩm, dẫn
đến năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra chưa cao, sản phẩm làm ra có lúc khó tiêu
thụ…
Năm 2015 cả nước có 19.800 HTX, trong đó có 10.339 HTX nông nghiệp; và trong số
HTX nông nghiệp đó lại có tới 9.363 HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp (chiếm 92%).
Phần lớn các HTX nông nghiệp mới chỉ cung cấp được các dịch vụ đầu vào cơ bản cho

hoạt động sản xuất nông nghiệp, chỉ có 9% HTX cung cấp được dịch vụ đầu ra. Quy mô
của tổ hợp tác, HTX còn nhỏ, công nghệ lạc hậu, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ
24


quản lý yếu. Đặc biệt, chất lượng, hiệu quả hoạt động và lợi nhuận của các HTX, tổ hợp
tác còn thấp, chỉ 10% làm ăn có hiệu quả, khoảng 60-70% HTX hoạt động cầm chừng.
Nhiều HTX vẫn chưa chuyển đổi theo quy định của Luật HTX 2012…
-Ô nhiễm môi trường tăng, nhiều tài nguyên bị khai thác quá mức
Tình trạng sản xuất thâm canh, sử dụng quá nhiều phân bón, hóa chất, thuốc bảo vệ, chất
kích thích sinh trưởng và tạo ra nhiều chất thải của các vùng chăn nuôi tập trung, nuôi
thủy sản tập trung, các vùng chuyên canh các cây trồng thâm canh như bông, nho, rau...
đang làm ô nhiễm môi trường, tạo ra dư lượng các chất độc hại trong nông sản thực
phẩm, làm tăng khả năng chống chịu và đột biến của sâu bệnh.
Bên cạnh đó, nhiều tài nguyên tự nhiên bị khai thác bừa bãi cũng dẫn đến tình trạng sụt
giảm tính đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Tài
nguyên động vật quí hiếm, nguồn nước ngầm, nguồn lợi thuỷ sản trong nội địa và ở các
vùng biển ven bờ, một số loại khoáng sản đã có dấu hiệu bị khai thác quá mức. Thời gian
gần đây, thiên tai và dịch bệnh liên tiếp xảy ra cả cho cây trồng và vật nuôi khiến cho tình
hình phát triển sản xuất nông nghiệp trở nên kém bền vững. Các tài nguyên thiên nhiên
như đất, nước,... ngày càng hạn hẹp, giá lao động tăng dần, giá các vật tư nông sản như
phân, thuốc, xăng dầu cũng tăng nhanh.
Sự phát triển nhanh chóng của ngành thủy sản ở nước ta chủ yếu dựa vào việc khai thác
quá mức tài nguyên sinh vật tại các thủy vực; việc nuôi trồng thủy sản ở nhiều vùng đã
làm suy giảm diện tích rừng phòng hộ ven biển (Đồng bằng sông Cửu Long) và ô nhiễm
môi trường (Duyên hải miền Trung). Việc khai thác các diện tích đất lâm nghiệp ở vùng
đồi núi chuyển sang đất nông nghiệp làm tăng nguy cơ thiên tai (lũ quét, sạt lở đất ở miền
núi, ngập lụt và hạn hán ở đồng bằng); việc sử dụng các sản phẩm hóa học (phân bón,
thuốc trừ sâu) khiến cho nhiều diện tích đất bị thoái hóa và bạc mầu, làm mất môi trường
sống của nhiều loài sinh vật.

b. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ quan




Chất lượng của chính sách chưa cao, triển khai chưa tốt

Do công tác xây dựng chính sách chưa chuyên nghiệp, thiếu các nghiên cứu phân tích căn
cứ cụ thể, thiếu hệ thống giám sát theo dõi, thống kê số liệu chưa đáng tin cậy và kịp thời
25


×