LỜI CẢM ƠN!
Hoàn thành khóa luận này, Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và
sâu sắc nhất tới cô giáo - Th.s Lê Thị Dung người luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, để
em hoàn thành khóa luân.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Sử - Địa trường Đại
học Tây Bắc, cán bộ trung tâm thư viện trường Đại học Tây Bắc, thầy cô trường
trung học phổ thông Mộc Lỵ đã tạo điều kiện, giúp đỡ em trong quá trình làm
khóa luận.
Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè trong và ngoài
lớp đã ủng hộ, động viên, đóng góp ý kiến để em hoàn thành khóa luận.
Do thời gian và năng lực nghiên cứu còn hạn chế, cho nên khóa luận
không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý bổ sung của thầy cô
và các bạn!
Sơn la, tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Lường Văn Công
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu......................................................................... 4
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 5
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 5
7. Bố cục đề tài ...................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIẾN.......................................... 7
1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................... 7
1.1.1. Các khái niệm .............................................................................................. 7
1.1.2. Cơ sở xuất phát .......................................................................................... 11
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc
gia trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông ..................................... 19
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 21
1.2.1. Thực trạng của việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia
trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông ........................................... 21
1.2.2. Nguyên nhân và định hướng ..................................................................... 23
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ
QUYỀN BIỂN, ĐẢO QUỐC GIA CHO HỌC SINH KHI DẠY PHẦN
LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NGUỒN GỐC ĐẾN GIỮA THẾ KỈ XIX (SÁCH
GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 10 - CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) ................ 25
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung của chương trình Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc
đến giữa thế kỉ XIX ............................................................................................. 25
2.1.1. Vị trí .......................................................................................................... 25
2.1.2. Mục tiêu..................................................................................................... 26
2.1.3. Nội dung cơ bản ........................................................................................ 27
2.2. Những nội dung cần khai thác trong chương trình lịch sử Việt Nam từ
nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX để giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo
quốc gia ............................................................................................................... 29
2.3. Một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia khi
dạy học lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX............................. 33
2.3.1. Trong bài học nội khóa ............................................................................. 33
2.3.2. Trong hoạt động ngoại khóa ..................................................................... 47
2.4. Thực nghiệm sư phạm .................................................................................. 53
2.4.1. Mục đích thực nghiệm............................................................................... 53
2.4.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ............................................................ 53
2.4.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm .................................................... 54
2.4.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm......................................................... 54
2.4.5. Kết quả thực nghiệm ................................................................................. 54
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 60
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia ven biển, có đường bờ biển dài 3.620km trải
dài từ Bắc vào Nam, vùng biển rộng lớn với hàng nghìn đảo lớn nhỏ trong đó có
hai quần đảo lớn là Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là vùng lãnh thổ thiêng liêng
của Tổ quốc, có vị trí chiến lược về kinh tế và an ninh quốc phòng. Từ hàng
ngàn năm nay, biển - đảo đã gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, tình hình biển, đảo xuất hiện nhiều
vấn đề tranh chấp rất phức tạp và nhạy cảm đe dọa đến chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam. Vấn đề này càng nghiêm trọng hơn khi Trung Quốc cho đặt
giàn khoan Hải Dương 981 (1/5/2014) thăm dò dầu khí tại vùng biển thuộc chủ
quyền của Việt Nam. Chủ quyền của đất nước bị xâm phạm một cách trắng trợn.
Do đó, trong nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ:“Mục tiêu, nhiệm vụ
quốc phòng an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ, giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, bảo vệ Đảng, nhà nước nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Chính vì vậy, việc tăng cường giáo dục cho
mọi thế hệ người Việt ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo, bảo vệ Tổ quốc càng có
ý nghĩa hơn bao giờ hết giúp các em nhận thức đúng chủ quyền dân tộc, những
giá trị mà biển, đảo mang lại để từ đó có những hành động cụ thể, thiết thực góp
phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
Song, làm thế nào để giáo dục cho học sinh ý thức về chủ quyền biển đảo, ý
thức bảo vệ Tổ quốc? Trong khi chương trình, sách giáo khoa Lịch sử ở trường phổ
thông nội dung về chủ quyền biển đảo chưa được chú trọng đúng mức dẫn đến việc
giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc cho họ sinh còn tồn tại nhiều bất cập. Để khơi dậy
ý thức bảo vệ Tổ quốc, khơi dậy lòng yêu nước cho thế hệ trẻ thì cần phải giúp họ
hiểu sâu sắc về vấn đề chủ quyền biển đảo thông qua các nguồn tài liệu, các hoạt
động ngoại khóa...
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Một số
biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia cho học sinh
1
trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông (Vận dụng qua phần lịch
sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX - SGK Lịch sử 10, chương
trình chuẩn)” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ
quyền biển, đảo, nhiều cuốn sách, bài báo, công trình nghiên cứu khoa học đã
viết về vấn đề này, tiêu biểu trong số đó là:
Trong cuốn “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa”, nhà xuất bản
Khoa học xã hội, 1984. Đã tóm tắt quan điểm của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam một lần nữa chứng tỏ các quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa từ lâu
và liên tục là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Việc Trung Quốc đưa ra yêu sách
hai quần đảo đó là không có căn cứ pháp lý. Hành động dùng vũ lực chiếm quần
đảo Hoàng Sa là hành động xâm lược.
Tác giả Trần Công Trục (2011) trong “Dấu ấn Việt Nam trên biển Đông”
đã nhấn mạnh về vị trí vai trò của biển Đông trong lịch sử dân tộc, đồng thời tác
giả đã giới thiệu rõ những định nghĩa mang tính chuyên ngành về nội thủy, lãnh
hải, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia.
Bộ ngoại giao, ủy ban biên giới quốc gia “Những vấn đề liên quan đến
chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên biển Đông”, nhà xuất bản Tri thức, Trần
Duy Hải chủ biên, 2013. Cuốn sách đã khái quát về biển Đông và tình hình biển
Đông hiện nay, đưa ra các cơ sở pháp lí khẳng định quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa là của Việt Nam.
Bộ ngoại giao, ủy ban biên giới quốc gia “Tài liệu định hướng công tác
tuyên huấn về biển đảo”, nhà xuất bản Tri thức, 2013. Cuốn sách đề cập nhiều
hoạt động nhằm bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam và chủ trương của Việt
Nam trong vấn đề biển Đông.
Học viên ngoại giao Việt Nam “Đường lưới bò một yêu sách phi lý”, nhà
xuất bản Tri thức, 2013. Cuốn sách nói đến yêu sách đường lưới bò, đây là một
yêu sách phi lý của Trung Quốc, đồng thời tác giả còn đưa ra các tư liệu, bằng
2
chứng phản bác lại yêu sách của Trung Quốc nhằm khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cuốn sách “Kiên quyết giữ vững chủ quyền biển đảo Tổ quốc Việt Nam”,
nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, nhóm biên soạn Nguyễn Đức Cường, Phạm
Lan Hương, Nguyễn Thị Nguyên, 2014 đã khái quát tình hình biển Đông, đề cập
Công ước của Liên hợp Quốc về luật biển, các cơ sở pháp lý của Việt Nam và
thế giới phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam. Vai trò
của biển, đảo đối với đất nước và khẳng định Việt Nam sẽ bảo vệ đến cùng chủ
quyền biển, đảo của mình.
Bộ sách của NXB Giáo dục 2014, gồm cuốn “Hoàng Sa, Trường Sa khát
vọng hòa bình” của Bùi Tất Tươm - Vũ Bá Hòa; “Hoàng Sa, Trường Sa trong
vòng tay Tổ quốc”, của Hồng Châu - Minh Tân, tập I,II; “Kể chuyện biển đảo
Việt Nam” của Lê Thông - Đặng Duy Lợi - Đỗ Anh Dũng - Nguyễn Thanh
Long, tập I,II,III,IV; “Những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa” của Hãn Nguyên, Nguyễn Nhã đã nghiên
cứu về biển đảo của Việt Nam. Đồng thời, cũng khẳng định chủ quyền của Việt
Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng những nguồn tài liệu khoa
học và hết sức quý giá trong việc khẳng định chủ quyền của dân tộc trên vùng
biển, đảo của Tổ quốc.
Trong triển lãm “Chủ quyền biển đảo Việt Nam qua các thời kì lịch sử”
tại Bảo tàng quân đội nhân nhân Việt Nam tháng 5 năm 2013 nhiều tư liệu, bằng
chứng của Việt Nam, của các nước phương Tây, của Trung Quốc, đặc biệt là 19
Mộc bản triều Nguyễn khắc ghi đã chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là một trong những bằng chứng quan
trọng và khách quan trong việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tác giả Đậu Thị Hải Vân với công trình nghiên cứu khoa học “Giáo dục ý
thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt
Nam lớp 10, trung học phổ thông (Chương trình chuẩn)”, Hà Nội, 2012. Luận
văn đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ
3
quyền biển, đảo rồi đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao việc giáo dục ý thức
bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Ngoài ra cũng có rất nhiều bài viết trong các tạp chí như: Tạp chí nghiên
cứu giáo dục, các tạp chí nghiên cứu lịch sử đều đề cập đến vấn đề này. Trong
bài viết “Giáo dục truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ qua môn lịch sử” của tác
giả Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi đăng trên tạp chí nghiên
cứu lịch sử (số 2 - 1992) đã khẳng định giá trị to lớn của việc giáo dục truyền
thống dân tộc, ưu thế, sở trường của bộ môn lịch sử trong việc giáo dục truyền
thống dân tộc cho thế hệ trẻ.
Tất cả bài viết trên đều dừng lại ở một khía cạnh, một góc độ nhất định
của việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Quốc gia, chưa đi sâu vào
thực tiễn giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền ở trường phổ thông, tuy nhiên đó là
các tài liệu quan trọng để chúng tôi hoàn thành khóa luận này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia
cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông vận dụng qua
phần lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX, Lịch sử 10, chương
trình chuẩn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn của việc
giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Quốc gia. Trên cơ sở đó đề ra một
số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Quốc gia trong dạy học
lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX, SGK Lịch sử 10, chương
trình chuẩn.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao hiểu quả giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia
cho học sinh trung học phổ thông trong dạy học lịch sử Việt Nam, đồng thời
nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông.
4
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận liên quan đến chủ quyền biển, đảo Quốc gia và
việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Quốc gia cho học sinh.
Nghiên cứu thực trạng việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Quốc gia cho học sinh trung học phổ thông trong dạy học lịch sử Việt Nam
hiện nay.
Nghiên cứu chương trình lịch sử Việt Nam lớp 10 (chương trình chuẩn)
qua đó xác định nội dung giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Quốc gia
cho học sinh khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX.
Tiến hành khảo sát thực tiễn sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề tài
nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu lí luận có liên quan đến đề tài, đọc và phân tích các công trình,
các tài liệu bao gồm: Sách, báo, tạp chí, internet, khóa luận tốt nghiệp, báo cáo
khoa học có liên quan đến đề tài, từ đó chọn lọc để phục vụ nghiên cứu.
Phương pháp điều tra khảo sát
Sự dụng phiếu điều tra đối với giáo viên và học sinh ở trường phổ thông để
tìm hiểu thực trạng việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Quốc gia.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Quốc gia thông qua dạy học
một số bài trong phần Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX, SGK
lịch sử 10 - chương trình chuẩn, nhằm xác định tính khả thi của biện pháp sư
phạm đã đề xuất.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài hoàn thành sẽ là nguồn tài liệu học tập, giảng dạy và tham khảo thiết
thực cho cả giáo viên, học sinh, sinh viên. Góp phần nâng cao hiệu quả dạy học
Lịch sử ở trường trung học phổ thông.
5
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài gồm 2
chương:
Chương 1. Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Quốc gia cho học
sinh trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông - lí luận và thực tiễn.
Chương 2. Một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Quốc gia cho học sinh khi dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến
giữa thế kỉ XIX (SGK Lịch sử 10 - chương trình chuẩn).
6
CHƯƠNG 1:
GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG - LÍ LUẬN VÀ THỰC TIẾN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Các khái niệm
* Giáo dục
Có rất nhiều quan niệm về giáo dục, song tựu chung lại theo các nhà giáo
dục học thì có 2 quan niệm chính sau đây:
Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho người được giáo dục
lí tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những
hành vi, thói quen, cư xử đúng đắn trong xã hội thông qua tổ chức cho họ các
hoạt động giáo dục. Theo nghĩa này, giáo dục bao gồm các bộ phận đức dục, mĩ
dục, thể dục, giáo dục lao động. [25;10].
Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức,
có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục trong
các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho học sinh [25;10]. Với
nghĩa rộng như trên, giáo dục là một hoạt động tổng thể bao gồm giáo dục trí
tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục lao động do
nhà trường phụ trách trước xã hội.
* Giáo dục ý thức
Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, (2010), nhà xuất bản Đà Nẵng
thì: Ý thức là khả năng của con người phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong
tư duy; là sự nhận thức đúng đắn, biểu hiện bằng thái độ, hành động cần phải
có ý thức được làm việc của mình” [27;1486].
Như vậy “Giáo dục ý thức” là sự phản ánh hiện thực khách quan hình thức
thông qua giáo dục con người. Là quá trình giáo dục làm khơi dậy sự phản ánh của
hiện thực khách quan cho con người, làm con người nhận thức đúng đắn, ý thức
được hành động của mình, như ý thức về chủ quyền biển, đảo quốc gia.
7
* Khái niệm “Quốc gia”,“Chủ quyền biển, đảo”
Quốc gia là thực thể pháp lí bao gồm ba yếu tố cấu thành: Lãnh thổ, dân
cư và quyền lực công cộng. Quốc gia là chủ thể căn bản nhất của luật quốc tế.
Chủ quyền quốc gia là đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất của quốc gia. [19;68].
Chủ quyền biển đảo là một khái niệm nằm trong khái niệm về chủ quyền
lãnh thổ quốc gia. Trong Từ điển thuật ngữ Lịch sử phổ thông, Phan Ngọc Liên
(chủ biên), Hà Nội 2007 cho rằng: “Chủ quyền là quyền cao nhất của một dân
tộc, một quốc gia độc lập, tự mình làm chủ đất đai, tài sản, tự mình quyết định
vận mệnh của mình. Những nội dung này được khẳng định trong pháp luật mỗi
nước, trong văn bản pháp lý của quốc tế, là nguyên tắc cơ bản cần tuân theo”
[19;104].
Trong tài liệu 100 câu hỏi về biển, đảo dành cho tuổi trẻ của Ban tuyên
giáo Trung ương, nhà xuất bản thông tin và truyền thông 2013 “Chủ quyền là
quyền làm chủ tuyệt đối của một quốc gia độc lập với lãnh thổ của mình. Chủ
quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia được thực hiện trong
phạm vi nội thủy và lãnh hải của quốc gia đó” [9;110].
“Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là quyền tối cao tuyệt đối hoàn toàn và
riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình. Quyền tối
cao của quốc gia đối với lãnh thổ là quyền quyết định mọi vấn đề của quốc gia
đối với lãnh thổ, đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Quốc gia có quyền
đặt quy chế pháp lý đối với lãnh thổ. Với tư cách là chủ sở hữu, nhà nước có quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với lãnh thổ thông qua hoạt động của cơ quan
nhà nước như các hoạt động lập pháp, tư pháp, hành pháp” [22;30].
Theo hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước có độc lập chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển vùng trời”.
Năm 1994 Việt Nam phê chuẩn công ước 1982 (Công ước của Liên Hợp
quốc về Luật biển). Theo công ước này, một nước ven biển có năm (05) vùng
biển: Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng
thềm lục địa. Như vậy, theo công ước 1982, phạm vi vùng biển của nước ta
8
được mở rộng ra một cách đáng kể từ vài chục nghìn km đến gần một triệu km
với năm vùng biển có phạm vi và chế độ pháp lý khác nhau. Nước Việt Nam
không còn thuần túy có hình dạng hình chữ S nữa mà mở rộng ra đến biển,
không chỉ có biên giới biển chung với Trung Quốc, Campuchia mà cả với hầu
hết các nước trong khu vực Đông Nam Á như Philippin, Malayxia, Indonexia,
Thái Lan.
Nội thủy: là vùng biển nằm ở phía trong đường cơ sở để tính chiều rộng
lãnh hải. Vùng nước thuộc nội thủy có chế độ pháp lý như lãnh thổ trên đất liền,
đặt dưới chủ quyền toàn vẹn đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia Việt Nam. Đường
cơ sở là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thủy, do
quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra phù hợp với Công ước của Liên
Hợp quốc về Luật biển năm 1982 để làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng
biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia. Là đường dùng làm căn cứ để
tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác.
Lãnh hải: Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng
12 hải lý (01 hải lý tương đương 1.852m) ở phía ngoài đường cơ sở nối liền các
điểm nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài cùng của các đảo ven bờ của nước
ta tính từ ngấn nước thủy triều thấp nhất trở ra, có chế độ pháp lý tương tự như lãnh
thổ trên đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển. Trong
lãnh hải tàu thuyền của các quốc gia khác được hưởng quyền qua lại không gây hại
và thường đi theo tuyến phân luồng giao thông biển của nước ven biển.
Vùng tiếp giáp lãnh hải: Là vùng biển rộng 12 hải lý tiếp giáp và tính từ
ranh giới ngoài của lãnh hải. Trong vùng biển tiếp giáp, nước ven biển có quyền
quy định biện pháp ngăn chặn và trừng trị các hành vi vi phạm đối với luật lệ về
nhập cư, thuế khóa, kinh tế xảy ra trong lãnh thổ hay lãnh hải của mình.
Vùng đặc quyền kinh tế: Là vùng rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (trừ
lãnh hải thì chiều rộng là 188 hải lý). Trong vùng biển này, nước ven biển có
quyền chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh
tế nhằm khai thác sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đó, có quyền tài phán với
các hoạt động nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường biển xây dựng và lắp đặt
9
các công trình và thiết bị nhân tạo. Các nước khác có quyền tự do bay, tự do
hàng hải, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm.
Thềm lục địa: Là vùng đáy và vùng đất đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải
của nước ven biển trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra đến bờ
ngoài của lục địa ở khoảng cách gần hơn. Tuy nhiên, bề rộng tối đa của thềm lục
địa tính theo của rìa lục địa dù thế nào cũng không được vượt quá 350 hải lý tính
từ đường cơ sở lãnh hải hoặc không vượt quá 100 hải lý bên ngoài đường thẳng
sâu 2500m. Đối với thềm lục địa, nước ven biển có quyền chủ quyền và quyền
tài phán quốc gia tương tự như trong vùng đặc quyền kinh tế. Song, quyền chủ
quyền của nước ven biển trên thềm lục địa là đương nhiên, không phụ thuộc vào
việc tuyên bố hay không.
Từ những khái niệm nêu trên, chúng ta có thể khẳng định chủ quyền biển,
đảo của Quốc gia là quyền tối cao tuyệt đối hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia
đối với vùng biển đảo của mình, có quyền quyết định mọi vấn đề trên vùng biển
đảo thuộc chủ quyền, đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
* “Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo”
Khái niệm giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sự phản ánh, sự
tác động của hiện thực khách quan thông qua quá trình giáo dục con người,
nhằm hướng tới một con người tốt đẹp có tư tưởng trong sáng, có ý thức dân
tộc, ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo nhằm khơi dậy các suy nghĩ, ý chí,
hành động, làm cho con người nhận thức đúng đắn, ý thức được thái độ, hành
động của mình trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
Nói một cách ngắn gọn “Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo”
là quá trình người giáo viên sử dụng các biện pháp sư phạm hay phương pháp
dạy học để truyền đạt kiến thức về chủ quyền biển, đảo cho học sinh sao cho
đạt hiệu quả cao nhất, qua đó hình thành cho học sinh ý thức bảo vệ chủ
quyền biển, đảo.
10
1.1.2. Cơ sở xuất phát
* Vai trò của biển, đảo trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta
Trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta biển, đảo luôn giữ
một vai trò quan trọng. Từ thời khởi thủy, biển đã là môi trường sống, là bộ
phận hợp thành, góp phần tạo dựng nên bản sắc văn hóa và tư duy của người
Việt Nam.
Thông qua những câu truyện truyền thuyết “Lạc Long Quân - Âu Cơ”, Lạc
Long Quân dẫn 50 người con xuống biển hay câu truyện “ Sơn tinh Thủy tinh”,
đã nói lên rằng từ xa xưa tổ tiên ta không chỉ gắn bó với đất liền mà còn gắn bó
với biển khơi.
Vào khoảng thế kỉ VII trước công nguyên, cư dân Việt cổ sau hàng chục
vạn năm sinh sống và mở rộng vùng cư trú từ các hang, mái đá trên vùng đồi
núi, vùng trung du, đã tràn xuống khai phá và chiếm lĩnh vùng đồng bằng rộng
lớn của các con sông như sông Hồng, sông Mã, sông Cả, định cư ở đây hình
thành các thị tộc, bộ lạc. Các con sông này hằng năm mang phù sa đến tạo ra
những cánh đồng phù xa màu mỡ, tơi xốp nhờ đó cuộc sống cư dân Việt cổ từ
săn bắt, hái lượm chuyển dần sang trồng trọt và chăn nuôi, hình thành nền nông
nghiệp trồng lúa nước kết hợp với sức kéo trâu bò.
Nghề nông trồng lúa nước ra đời đặt ra một yêu cầu cấp thiết đó là “trị
thủy”, công việc này đòi hỏi phải có sự góp sức của nhiều người và cần một
người chỉ đạo. Nhu cầu trị thủy là một trong những cơ sở hình thành nhà nước
đầu tiên trên đất nước ta, nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Sự ra đời của nhà nước
Văn Lang - Âu Lạc đã mở ra thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân
tộc, hình thành nền văn minh Việt Nam đầu tiên - văn minh sông Hồng.
Cuộc sống vật chất - tinh thần của cư dân Văn Lang - Âu Lạc gắn bó chủ
yếu với sông nước, điều này được minh chứng qua các hình khắc trên trống
đồng Đông Sơn, một bảo vật của dân tộc Việt Nam. Trên trống đồng có nhiều
hình thù trong đó có khắc hình thuyền, hình đắp đê trên sông, hình sản xuất
11
nông nghiệp, điều này khẳng định từ lâu dân tộc ta đã gắn bó với sông nước, lấy
thuyền làm phương tiện kiếm ăn, đánh bắt cá để phục vụ cuộc sống.
Trong các thế kỉ X - XIX, đây là thời kì độc lập, tự chủ, nhân dân ta tiếp
tục gắn bó cuộc sống với sông nước, biển, đảo.
Về kinh tế, nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước phát triển, công cuộc
khai hoang khai hoang, mở rộng diện tích canh tác ngày càng gia tăng, vùng
châu thổ các sông lớn và vùng ven biển được khai phá nhưng thường xuyên bị
nạn lụt đe dọa, gây nhiều khó khăn. Chính vì nguyên nhân đó các triều đại
phong kiến Việt Nam rất quan tâm đến công tác đê điều và thủy lợi. Năm 1077
nhà Lý ra lệnh đắp sông Như Nguyệt, năm 1108 cho đắp đê Cơ Xá (đê Sông
Hồng). Thời nhà Trần, năm 1278 tổ chức đắp đê từ đầu nguồn đến của biển dọc
các con sông lớn, gọi là đê “Quai vạc”. Nhờ việc làm này đã thúc đẩy nền kinh
tế nông nghiệp phát triển, năng suất cao, đời sống nhân dân ổn định.
Bên cạnh đó nền kinh tế thương nghiệp cũng phát triển cả về nội thương và
ngoại thương. Các chợ làng, chợ huyện mọc lên nhiều nơi chủ yếu gần các con
sông, dễ dàng cho việc đi lại, buôn bán. Hoạt động ngoại thương, buôn bán với
nước ngoài được mở rộng, từ sớm, các thuyền buôn Trung Quốc hay các nước
phương Nam đã qua lại buôn bán ở các vùng biển phía Bắc và miền Trung. Năm
1149 nhà Lý cho xây dựng cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) làm bến cảng để thuyền
buôn nước ngoài vào trao đổi hàng hóa, Lạch Trường (Thanh Hóa), Thị Nại
(Bình Định) đều là những vùng cảng quan trọng. Thời nhà Trần, ngoại thương
khá phồn thịnh, các nước Giava, Miến Điện, Ấn Độ đều có thuyền buôn bán với
Đại Việt thông qua con đường biển.
Từ các thế kỉ XVI - XVII, ngoại thương lại có bước phát triển hơn, bên
cạnh các thương nhân Trung Hoa, Nhật Bản, Giava, Xiêm… xuất hiện những
thương nhân Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp. Nhiều thương cảng được hình
thành, tiêu biểu như thương cảng Hội An.
Sự phát triển của kinh tế ngoại thương đã giúp Đại Việt trở nên hùng mạnh
hơn. Xuất phát từ lí do đó, các triều đại phong kiến Việt Nam chú trọng chăm lo
quản lý chặt chẽ về chủ quyền biển, đảo. Ở thời Lý, thiết lập những Trang, thời
12
Trần thiết lập Trấn, thời Lê đặt Tuần Kiểm ở các xứ cửa biển, các đồn, các đảo
và cho lập bản đồ toàn quốc gọi chung là “Hồng Đức bản đồ” trong đó có cả
Hoàng Sa và Trường Sa, cho thấy hai quần đảo này thuộc chủ quyền Đại Việt.
Thời kì Nam Bắc - Triều rồi Trịnh - Nguyễn phân tranh, với việc các chúa
Nguyễn cho thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để xác lập quyền làm chủ
quần đảo Hoàng Sa. Đặc biệt thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng cho cắp cột mốc
và dựng bia chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Biển, đảo không chỉ gắn bó với quá trình dựng nước mà còn giữ vai trò
quan trọng trong công cuộc giữ nước, chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập của
dân tộc ta. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, trên sông biển đã
hình thành nên những trận thủy chiến oanh liệt như: chiến thắng Bạch Đằng (938)
của Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Lê Hoàn đánh tan
quân xâm lược Tống với Trận Bạch Đằng thứ hai năm 981, năm 1071 thời nhà Lý,
Lý Thường Kiệt chặn đứng quân Tống xâm lược ở sông Như Nguyệt.
Đặc biệt dưới thời Trần, quân và dân ta đã ba lần đứng lên tiến hành kháng
chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên hung bạo. Ở lần thứ ba - năm 1288,
dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn, nhân dân ta đã lập được chiến công vang
dội nhất trên sông Bạch Đằng lịch sử, tiêu diệt toàn bộ đạo thủy quân sáu vạn
tên, bắt các tướng Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ, buộc Thoát Hoan rút quân chạy trốn
về nước, chấm dứt hoàn toàn cuộc xâm lược Đại Việt của nhà Nguyên.
Thế kỉ XVI - XVII, thủy quân của chúa Trịnh và chúa Nguyễn (thời kì
Đàng Trong và Đàng Ngoài) đã chiến thắng các hạm đội xâm lược của chủ
nghĩa tư bản châu Âu như đánh thắng hạm đội của thực dân Tây Ban Nha năm
1595, hai lần đánh thắng hạm đội của thực dân Hà Lan trong các năm 1642,
1643, đánh thắng hạm đội của thực dân Anh năm 1702.
Dưới thời Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã tổ chức, xây dựng được một đội thủy
quân mạnh bậc nhất ở Đông Nam Á. Quân Tây Sơn đã nhiều lần vào Nam ra
Bắc đánh đổ hai tập đoàn phong kiến là nhà Trịnh (Đàng Trong) và nhà Nguyễn
(Đàng Ngoài), chấm dứt cảnh đất nước bị chia cắt. Năm 1785, Nguyễn Huệ trực
tiếp chỉ huy thủy quân tiến công đánh bại 5 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài
13
Mút trong trận quyết chiến, chiến lược lịch sử. Năm 1789, vua Quang Trung Nguyễn Huệ thực hiện cuộc hành quân thần tốc bằng đường bộ và đường biển ra
Bắc đánh bại 29 vạn quân Thanh và chính quyền nhà Lê, hoàn thành sự nghiệp
thống nhất đất nước, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đến giữa thế kỉ XIX, thủy quân
của Nguyễn Trung Trực đã nhiều lần đánh vào lực lượng hải quân Pháp, gây cho
chúng thiệt hại đáng kể, mà nổi tiếng nhất là trận đốt cháy chiến hạm
Êxperăngxơ (Hy Vọng) của Pháp.
Đánh giá về truyền thống chiến đấu trên sông, biển của dân tộc, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp nhẫn mạnh: “Do nước ta có vị trí quan trọng, có bờ biển dài,
nhiều sông lớn, nên từ xa xưa tới nay kẻ địch bên ngoài thường lợi dụng biển và
sông để xâm lược nước ta. Và ở trên biển, trên sông, trong quá trình lịch sử, dân
tộc Việt Nam đã bao lần nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm anh hùng,
bất khuất. Thật vậy, trong những trang sử vẻ vang của mình kể từ khi Vua Hùng
dựng nước, dân tộc ta đã ghi biết bao sự tích anh hùng trên non sông nước ta
nói chung trên sông, biển nước ta nói riêng” [6;10].
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng biển, đảo giữ vai trò quan trọng trong
quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Cho đến nay biển, đảo vẫn giữ
vai trò như vậy, cho nên cần khơi dậy nguồn sức mạnh cho con người Việt Nam
trong sự nghiệp giữ vững chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo thiêng liêng
của Tổ quốc, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngày trước ta
chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi
đẹp, ta phải giữ lấy nó” [3;40].
* Những tiềm năng kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng của biển, đảo
đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng 3.260km trải dài từ Bắc xuống
Nam, chiếm tỉ lệ khoảng 100km2 đất liền, vùng biển rộng trên 1 triệu km2 với
hơn 400 hòn đảo lớn nhỏ trong đó có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trong
63 tỉnh, thành phố của nước ta, có 28 tỉnh, thành phố giáp biển, chính vì vậy
biển, đảo có giá trị tiềm năng kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng rất lớn đối
với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
14
Về kinh tế: Biển, đảo đã tạo điều kiện để Việt Nam phát triển các ngành kinh tế
mũi nhọn như: Thủy sản, dầu khí, giao thông hàng hải, đóng tàu, du lịch…
Trước hết là ngành khai thác thủy sản: Biển, đảo cung cấp nguồn lợi hải
sản rất quan trọng, theo các điều tra, tính đa dạng sinh học, trong vùng biển
nước ta đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú, trong đó có 6.000
loài động vật, 2.400 loài cá, 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 225
loài tôm, trữ lượng cá biển ước tính khoảng 3,1 đến 4,4 triệu tấn. Nguồn lợi hải
sản phong phú đã góp phần đưa ngành thủy sản trở thành một trong những
ngành kinh tế chủ đạo với giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 cả nước.
Bên cạnh đó, dọc ven biển Việt Nam có 37 vạn ha có khả năng nuôi trồng
thủy sản, trong đó có khoảng 30 vạn ha có thể nuôi tôm và 7 vạn ha có thể nuôi
cá, trai, sò huyết… Đến nay, tuy sản lượng nuôi trồng thủy sản của ta vẫn còn
thấp (35 tấn/1km2), nhưng cũng đã tạo ra một hướng làm ăn mới cho nhiều địa
phương trong cả nước.
Thứ hai, về tài nguyên khoáng sản: Dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm
lục địa nước ta có tầm chiến lược quan trọng. Đến nay, chúng ta đã xác định
được nhiều bể trầm tích như: Cửu Long, Nam Côn Sơn… được đánh giá có triển
vọng dầu khí lớn nhất và khai thác thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất của
toàn thềm lục địa Việt Nam xấp xỉ 10 tỉ tấn, trữ lượng khai thác 4 đến 5 tỉ tấn.
Ngoài ra, ven biển Việt Nam chứa đựng một tiềm năng to lớn về nhiều loại
khoáng sản như: Titan, băng cháy, thiếc, vàng, sắt, mangan, thạch cao, đất hiếm
trong đó có cát nặng, cát đen là những nguồn tài nguyên quý giá.
Thứ ba, về giao thông hàng hải: Đối với Việt Nam, vùng biển và ven biển
Việt Nam nằm án ngữ trên con đường hàng hải và hàng không huyết mạch
thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung
Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực, điều này đã
tạo điều kiện thuận lợi cho ngành hàng hải nước ta phát triển, quan hệ giao lưu
buôn bán với thế giới được mở rộng. Ngoài ra, Việt Nam còn có đường bờ biển
dài đã tạo ra tiềm năng vô cùng to lớn cho ngành hàng hải, dọc bờ biển Việt
Nam có 10 điểm có thể xây dựng cảng biển nước sâu như Cái Lân, Cam Ranh…
15
Và nhiều điểm cảng trung bình, với tổng sản lượng hàng hóa vận chuyển có thể
đạt 50 triệu tấn/năm, điều này thúc đẩy việc giao lưu buôn bán với các nước trên
thế giới.
Thứ tư, về du lịch: Do bờ biển dài, khúc khuỷu, đã tạo ra những cảnh quan
thiên nhiên sơn thủy rất đa dạng. Những vũng, vịnh, bái cát trắng, hang động,
các bán đảo và các đảo lớn nhỏ liên kết với nhau thành một quần thể du lịch hiếm
có trên thế giới như: Di sản thiên nhiên Hạ Long được UNESCO xếp hạng, các
thắng cảnh trên đất liền như Phong Nha, Bích Động… các di tích lịch sử văn hóa
như cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tháp Chàm đều được phân bố ở vùng biển. Đây là
những điểm tham quan du lịch lí tưởng cho du khách trong và ngoài nước.
Ngoài ra biển, đảo còn cho Việt Nam tiềm năng phát triển các loại hình du
lịch hiện đại như: Nghỉ dưỡng, tắm biển, du lịch sinh thái, du lịch thể thao (bơi,
lặn sâu, lướt ván, nhảy sóng, đua thuyền…) và có thể tổ chức các lễ hội mang
tầm vóc khu vực như: Festival biển Nha Trang…
Xét về an ninh - quốc phòng: Biển nước ta được ví như mặt tiền, sân trước,
cửa ngõ Quốc gia. Biển, đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến
lũy nhiều lớp, nhiều tầng, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ
quốc. Cho nên biển, đảo giữ vai trò quan trọng là tuyến phòng thủ, che chắn bảo
vệ đất liền. Các đảo và quần đảo trên biển Đông, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa không chỉ có ý nghĩa trong việc kiểm soát các tuyến đường biển
qua lại biển Đông mà còn có ý nghĩa phòng thủ chiến lược từ xa, quan trọng của
Việt Nam.
Với tất cả những tiềm năng nêu trên chứng tỏ biển, đảo giữ một vai trò rất
lớn và quan trọng đối với công cuộc xây dựng đất nước. Cho nên cần tăng
cường việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho thế hệ trẻ.
* Xuất phát từ tình hình biên giới, biển, đảo hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình biên giới, biển, đảo của nước ta
thường xuyên xảy ra những tranh chấp phức tạp đe dọa đến chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam. Đặc biệt là tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
16
Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo thuộc chủ quyền thiêng liêng của
Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua Trung Quốc đã có những hành
động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Với âm mưu bành chướng và thôn tính, chi phối biển Đông,Trung Quốc
đã đưa ra yêu sách “Đường lưỡi bò”, (cách gọi khác là: “Đường chín đoạn”
hoặc “Đường chữ U”). Đường lưỡi bò hoàn toàn không có cơ sở pháp lí và lịch
sử, được vẽ một cách tùy tiện, mơ hồ, không có tọa độ và luôn thay đổi. Yêu
sách đường lưỡi bò phi lý chiếm 80% diện tích biển Đông, xâm phạm vào vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của năm nước Việt Nam, Philippin,
Inđônêxia, Malaixia và Brunây, trái với công ước Luật biển 1982 mà Trung
Quốc là một bên tham gia.
Để thực hiện yêu sách này, tháng 5 năm 2011, tàu ngư chính của Trung
Quốc cắt cáp của tàu Bình Minh 02 của Việt Nam ở lô 148, 149 nằm sâu trong
vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa 200 hải lý miền Trung Việt Nam.
Không dừng lại ở đó, ngày 21 tháng 6 năm 2012, Trung Quốc ngang
nhiên công bố thành lập cái gọi là “Thành phố Tam Sa” bao gồm quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, sau đó Trung Quốc triển khai nhiều hoạt
động củng cố cơ quan lập pháp, hành pháp, quân đội và xây dựng cơ sở hạ tầng
ở “Tam Sa” như: Thành lập cơ quan chỉ huy quân sự, tổ chức bầu 45 đại biểu
của “Hội đồng nhân dân Tam Sa”…
Nghiêm trọng nhất là vào ngày 1/5/2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa
giàn khoan Hải Dương nước sâu 981 vào thăm dò dầu khí trong thềm lục địa,
thuộc vùng biển đặc quyền kinh tế của nước ta, chỉ cách đảo Lí Sơn - Quảng
Ngãi 120 hải lí.
Tiếp đó, Trung Quốc tăng cường bồi đắp, tái tạo các đảo ở Hoàng Sa mà
Trung Quốc đã xâm chiếm của Việt Nam, xây dựng đường băng nhân tạo, căn
cứ quân sự, đưa tàu chiến, vũ khí, máy bay, dân thường ra biển Đông, tăng
cường kiểm soát, sẵn sàng gây hấn với các nước. Những hành động của Trung
Quốc ngày càng có xu hướng mở rộng, táo tợn và liều lĩnh hơn, qua đó thấy rõ
mưu đồ độc chiếm biển Đông của Trung Quốc, điều này sẽ làm cho tình hình
17
biển Đông trở nên phức tạp và nguy hiểm hơn.
Ngoài ra, Trung Quốc còn có nhiều hành động ngang ngược như: Tấn
công cảnh sát biển Việt Nam, tấn công và đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt
Nam. Ngày 23/3/2013, tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi mang số hiệu QNg
96382 TS đã bị tàu Trung Quốc truy đuổi và bắn cháy cabin. Nhiều tàu cá khác
của ngư dân bị Trung Quốc đánh chìm hoặc bắt lại, chúng đánh đập ngư dân, bắt
nộp phạt, phá hoại toàn bộ thiết bị thông tin liên lạc, máy định vị, xé cờ Tổ
quốc. Những cư dân vô tội, cuộc sống vốn đã khó khăn nay lại bị Trung Quốc
cướp bóc càng khổ cực hơn.
Các hoạt động nói trên của Trung Quốc rất ngang ngược, trắng trợn, xâm
phạm nghiêm trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, coi thường luật pháp quốc tế, vi phạm những
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, vi
phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây căng thẳng và
làm phức tạp tình hình trên biển Đông.
Không chỉ có tranh chấp ở trên biển, đảo trên đất liền cũng xuất hiện tranh
chấp ở vùng biên giới Tây Nam giữa Việt Nam với Campuchia. Xuất hiện các
hành động như đòi xem xét lại hoặc xuyên tạc bản đồ biên giới giữa nước ta và
Campuchia, tiến hành các hoạt động xâm nhập biên giới một cách bất hợp pháp…
Từ những vấn đề mang tính thời sự nêu trên cho ta thấy được tình hình biên
giới, biển, đảo hiện nay có nhiều tranh chấp phức tạp, đe dọa trực tiếp đến chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ của nước ta. Chính vì vậy, việc giáo dục ý thức bảo vệ
chủ quyền biển, đảo Quốc gia cho học sinh là một điều rất cần thiết và cấp bách.
* Nhiệm vụ và ưu thế của bộ môn lịch sử
Ở trường phổ thông, môn lịch sử có nhiệm vụ và ưu thế rất lớn trên cả ba
mặt: kiến thức, kĩ năng, thái độ.
Về kiến thức: Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông cung cấp cho học sinh
những kiến thức cơ bản, có tính hệ thống về lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc, lịch
sử địa phương, bao gồm sự kiện, hiện tượng, thời gian, không gian, nhân vật,
các khái niệm, thuật ngữ, niên đại. Những vấn đề về phương pháp nghiên cứu
18
học tập phù hợp với yêu cầu và trình độ của học sinh, qua đó giúp các em nắm
được kiến thức cơ bản, toàn diện về tiến trình phát triển của lịch sử thế giới cũng
như lịch sử dân tộc.
Về kĩ năng: Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông hình thành cho học sinh
những kĩ năng, kĩ sảo cần thiết, từ việc có quan điểm lịch sử như xem xét sự
kiện và nhân vật, làm việc với sách giáo khoa và các nguồn tài liệu, biết phân
tích, so sánh, tổng hợp, khái quát, nhận xét sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử.
Ngoài ra còn giúp học sinh nâng cao năng lực tư duy, lôgic, rèn luyện kĩ năng
nói, viết, thuyết trình và sử dụng đồ dùng trực quan, ứng dụng công nghệ thông
tin vào học tập, vận dụng kiến thức lịch sử đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Về thái độ: Môn lịch sử phải giáo dục cho học sinh lòng yêu quê hương,
đất nước, lòng tự hào dân tộc, có niềm tinh vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng
và nhà nước, sự phát triển của lịch sử dân tộc trong lao động cũng như trong đấu
tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là thắng lợi tất
yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, thông qua kiến thức lịch sử giáo dục cho các em lòng biết ơn,
noi gương theo các thế hệ cha anh, phấn đấu trong học tập và lao động, có ý
thức vươn lên trong cuộc sống. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, tinh thần đoàn
kết giúp đỡ nhau trong học tập và cuộc sống, đặc biệt giáo dục cho các em ý
thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.
Như vậy, môn lịch sử có nhiệm vụ và ưu thế lớn, không chỉ cung cấp
những kiến thức cơ bản, hình thành kĩ năng, kĩ sảo cho học sinh mà còn giáo
dục cho các em ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo, lòng yêu quê hương đất nước
và lòng tự hào dân tộc.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển,
đảo quốc gia trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông
Trong bối cảnh hiện nay, khi tài nguyên thiên nhiên trên đất liền, sự bùng
nổ dân số chưa kiểm soát được, ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng,
việc quan tâm đến khai thác, sử dụng biển hợp lý kết hợp chặt chẽ với bảo vệ
quốc phòng - an ninh trên biển và bảo vệ môi trường có ý nghĩa cực kì quan
19
trọng. Với những tiềm năng của biển đảo về kinh tế - xã hội - an ninh quốc
phòng sẽ là những động lực lớn góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước Việt
Nam phồn thịnh và hùng mạnh. Tuy nhiên vùng biển, đảo cũng là nơi kẻ thù lợi
dụng để xâm lược nước ta cho nên: “Bảo vệ chủ quyền biển, đảo không chỉ
mang ý nghĩa bảo vệ một địa bàn sinh sống, địa bàn phát triển kinh tế, mà còn
là bảo vệ một địa bàn chiến lược lợi hại, nằm trong thế trận quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc” [15; 3].
Trong Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã
ra nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” nhằm nhanh chóng
đưa đất nước ta trở thành một quốc gia về biển. Vì vậy, việc giáo dục cho học
sinh ý thức trách nhiệm về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc có ý nghĩa rất quan
trọng. Đặc biệt thời gian gần đây tình hình biển, đảo xuất hiện nhiều tranh chấp
phức tạp, đe dọa đến chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nước ta thì những kiến
thức về chủ quyền biển, đảo càng trở nên cần thiết đối với thế hệ trẻ nói chung
và đối với học sinh phổ thông nói riêng.
Với những vai trò đó của biển, đảo thì việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ
quyền biển, đảo Quốc gia trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông có
ý nghĩa quan trọng đối với cả giáo viên và học sinh.
Đối với học sinh
Về kiến thức: Giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho học sinh,
giúp các em nắm được những kiến thức cơ bản về biển, đảo Tổ quốc như thời
gian xác lập, triều đại xác lập chủ quyền biển đảo, các bằng chứng nói về sự xác
lập đó hay vai trò của biển, đảo trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc, vai trò của biển trong phát triển kinh tế đất nước.
Về kĩ năng: Hình thành cho học sinh những kĩ năng, kĩ sảo cần thiết, từ
việc có quan điểm lịch sử như xem xét sự kiện và nhân vật, làm việc với sách
giáo khoa và các nguồn tài liệu, biết phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát,
nhận xét sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử. Ngoài ra còn giúp học sinh nâng
cao năng lực tuy duy, logic, rèn luyện kĩ năng nói, viết, thuyết trình và sử dụng
20
đồ dùng trực quan, ứng dụng công nghệ thông tin vào học tập, vận dụng kiến
thức lịch sử đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Về thái độ: Qua dạy học lịch sử, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, tự
hào dân tộc về lịch sử lâu đời của đất nước, bồi dưỡng ý thức tinh thần lao động
sáng tạo, ý thức về văn hóa dân tộc, về chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc. Giáo dục
lòng biết ơn đối với tổ tiên, các anh hùng dân tộc đã chiến đấu vì độc lập, tự do,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong đó có ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc. Giáo dục cho học sinh ý thức về nền kinh tế tự chủ, niềm tự hào về những
thành tựu kinh tế - văn hóa của dân tộc, từ đó các em có trách nhiệm đối với quê
hương, đất nước, xác định động cơ học tập vì lí tưởng cao đẹp, phục vụ lợi ích
của Tổ quốc.
Về phía giáo viên
Qua việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo giúp giáo viên thực
hiện bải giảng của mình tốt và đạt hiệu quả cao hơn, phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh, tạo sự hứng thú cho học sinh, làm cho tiết học trở
nên sôi động, làm cho học sinh yêu thích môn lịch sử nhiều hơn.
Việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo khi dạy học lịch sử còn
giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, không chỉ truyền đạt những kiến
thức cơ bản mà còn biết liên hệ thực tế, từ đó nâng cao chất lượng dạy và học
môn lịch sử.
Ngoài ra,còn khẳng định được tầm quan trọng của môn lịch sử đối với thế
hệ trẻ ngày nay, đối với sự tồn suy của đất nước, từ đó tránh được nguy cơ môn
lịch sử trở thành môn tự chọn hay tích hợp.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng của việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo
quốc gia trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông
Vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo trước năm 2014 chưa
được coi trọng mà thậm chí nó còn chưa được đưa vào trong nội dung chương
trình sách giáo khoa lịch sử phổ thông hiện hành. Chỉ có duy nhất chương trình
21
sách giáo khoa lịch sử lớp 6 dành “hai dòng rưỡi” đề cập đến hải đội Hoàng Sa
và Trường Sa.
Tuy nhiên từ năm 2014, tình hình biên giới, biển, đảo xuất hiện nhiều
tranh chấp phức tạp, đe dọa đến chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Tiêu biểu nhất là việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép
trên vùng biển của nước ta thì lúc này đã tạo ra một làn sóng, một cao trào phải
giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia. Rất nhiều cuốn sách, trang
báo, các công trình nghiên cứu khoa học, triển lãm, hoạt động văn hóa - văn
nghệ đề cập đến chủ đề chủ quyền biển, đảo, nhiều cuộc thi tìm hiểu về chủ
quyền biển đảo đã được tổ chức.
Ở trường trung học phổ thông, vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền
biển, đảo đã được quan tâm, chú trọng. Một số trường tiến hành việc giáo dục ý
thức về bảo vệ chủ quyền, biển đảo thông qua các cuộc thi, các hoạt động văn
hóa - văn nghệ. Tuy nhiên, phần lớn chỉ mang tính chất hình thức, biện pháp
thực hiện chưa hấp dẫn và cụ thể cho nên không tạo hứng thú cho học sinh, vì
vậy kết quả đạt được không cao.
Trong quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông, mặc dù các giáo viên
giảng dạy đều nhận thức được sự cần thiết của việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ
quyền biển, đảo cho học sinh, song do nội dung này chưa được đề cập nhiều và
cụ thể trong chương trình sách giáo khoa, chương trình giảng dạy cho nên dường
như việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo không được thực hiện
thường xuyên. Nếu có, giáo viên chỉ nói qua, chưa có phương pháp, biện pháp
truyền đạt thực sự đạt hiệu quả, không tạo được biểu tượng sinh động để có thể
tạo hứng thú học tập và phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh.
Về phía học sinh, đa số các em đều không thích học môn lịch sử, cho nên
những kiến thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc mà các em lĩnh hội được còn
rất ít và yếu. Các tư liệu cổ khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
của Việt Nam và được xác lập từ lâu, các khái niệm chủ quyền lãnh thổ, chủ
quyền biển, đảo, số lượng các đảo, quần đảo, vai trò của biển, đảo trong quá
trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta hay tiềm năng về kinh tế - xã hội 22