Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN lý LUẬN về dân CHỦ và NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.57 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

Trang

2
Những vấn đề cơ bản về lí luận dân chủ và dân chủ xã
hội chủ nghĩa

4

1.1

Quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về dân chủ

4

1.2

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ

13

1.3

Sự phát triển lí luận dân chủ của Đảng cộng sản Việt Nam

18



2

2.1

Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Nhất quán quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo các

18

19

nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền
2.2

Triệt để thực hành dân chủ trong Đảng

21

2.3

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy Nhà nước

22

2.4

Nâng cao văn hoá chính trị, văn hóa dân chủ và năng lực thực

hành dân chủ cho đội ngũ cán bộ và nhân dân
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

24


MỞ ĐẦU
Lịch sử xã hội loài người vận động và phát triển chính là sự thay thế nhau
giữa các hình thành kinh tế xã hội. Chủ nghĩa cộng sản không chỉ là hình thái
kinh tế xã hội cao nhất mà còn là mơ ước, mục đích phấn đấu của xã hội loài
người. Cách mạng tháng Mười Nga thành công mở ra thời đại mới trong lịch sử
loài người – Thời đại quá đội đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa công sản trên
toàn thế giới. Đó là kết quả đấu tranh không ngừng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động ngay từ khi giai cấp công nhân được hình thành, và chỉ cỏ
thể thực hiện được với với vai trò sứ mệnh của giai cấp công nhân mà đội tiên
phong là Đảng cộng sản. Cho đến ngày nay cuộc đấu tranh ấy vẫn tiếp tục và
không ngừng phát triển trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử mới.
Mở đầu lịch sử xã hội loài người là lịch sử của quá trình đấu tranh cho
hạnh phúc và tương lai của con người. Từ thuở xa xưa của nền văn minh cổ đại
đến đêm trường trung cổ, con người luôn luôn khát vọng vươn tới tự do, bình
đẳng và luôn luôn đấu tranh không mệt mỏi cho một xã hội tương lai có nhiều
hạnh phúc hơn cho con người. Tất cả những khát vọng và hiện thực cuộc sống
tốt đẹp cho con người, vì con người và do con người, đó chính là dân chủ. Chỉ có
cách thức đêm lại tự do, dân chủ ngày một hoàn thiện hơn cho con người, cho xã
hội mới tạo ra động lực của cách mạng. Dân chủ gắn liền với lợi ích của các giai
tầng xã hội và là lợi ích trực tiếp của giai cấp thống trị xã hội.
Nước ta là nước dân chủ, đó là bản chất của chế độ xã hội ta đang xây
dựng. Nhưng số phận dân tộc và công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chưa



cho phép chúng ta tiếp cận đầy đủ và có hệ thống về các giá trị chung của dân
chủ với tư cách là trình độ phát triển cao của văn hoá, văn minh nhân loại. Vì
vậy, việc nghiên cứu lí luận về dân chủ gắn với thực hiện nền dân chủ xã hội
trong điều kiện Đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
yêu cầu nghiêm túc và rất quan trọng đối với nước ta hiện nay.

NỘI DUNG
1. Những vấn đề cơ bản về lí luận dân chủ và dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
1.1. Quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về dân chủ.
Dân chủ là một trong những phạm trù được các nhà tư tưởng chính trị,
các nhà xã hội quan tâm nghiên cứu dân chủ luôn là là khát vọng của xã hội loài
người. Đó là nhu cầu bên trong, là sự phản ánh phương thức, nhu cầu sống của
con người, là quyền tự do, quyền tự quyết của con người, nó hình thành và phát
triển cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người. Xét dân chủ với
tư cách là một chế độ nhà nước, thì đó là sự tổng hợp những hình thức và
phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, dân chủ luôn gắn liền với phương
thức phân phối lợi ích trong xã hội, dân chủ không chỉ là nhu cầu khát vọng cá
nhân với tư cách là cái riêng, mà dân chủ trở thành khát vọng chung, cái chung
phù hợp với hình thức tổ chức quyền lực chính trị văn hoá cầm quyền, văn hoá
chính trị và thực thi quyền lực Nhà nước.
* Tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề dân chủ.
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen dân chủ gắn liền với giai cấp và chế độ nhà
nước. Những tư tưởng ban đầu về dân chủ của các ông cũng được thực sự nảy
nở từ cuộc sống và hoạt động chính trị, từ sự so sánh giữa các chế độ dân chủ
khác nhau trong lịch sử để chỉ ra các đặc trưng mang tính phổ biết nhất về bản
chất của dân chủ: “chế độ dân chủ nào cũng vậy, nó là bản chất bất kỳ của chế
độ nhà nước nào, là con người được xã hội hóa, hình thức đặc thù của chế độ



nhà nước”. Điều quan trọng trong những tư tưởng ban đầu của C. Mác và Ph.
Ăngghen về dân chủ đó là việc xác định chế độ dân chủ là thiết chế chính trị của
xã hội được tổ chức để bảo đảm quyền lực thuộc về ai – Đó là tính đặc thù của
chế độ dân chủ.
Sự phát triển lí luận dân chủ gắn liền với sự phát triển và phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân, những hoạt động thực tiễn và điều kiện kinh tế xã
hội thực tại. Vì vậy, khi nêu lên những quan điểm về con đường và biện pháp tiến
tới và thiết lập bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân C. Mác và Ph. Ăngghen đã
gắn liền với việc chỉ ra tiến trình cách mạng của giai cấp vô sản khi đấu tranh
cho dân chủ. Gắn liện với một cuộc cách mạng xã hội mới mà nó phải trải qua
hai bước. Trước tiên là giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị, giành
lấy dân chủ, sau đó dùng sức mạnh của Nhà nước để xây dựng nền dân chủ mới
mà trọng tâm là việc triệt tiêu các quan hệ sản xuất sinh ra áp bức, bóc lộc - mất
dân chủ.
Từ bài học kinh nghiệm Công xã Pari (1871), các ông cho rằng: Đặc điểm
nổi bật của Công xã là một đoàn thể công tác vừa có chức năng lập pháp, vừa có
chức năng hành pháp. Đó là một nhà nước do phổ thông đầu phiếu mà lập nên.
Cử tri là người có quyền cao nhất bãi miễn những thành viên của Công xã nếu
họ không còn xứng đáng là người đại biểu của công nhân và nhân dân lao động.
Công xã đã tạo ra cái nền tảng của những thiết chế thật sự dân chủ. Công xã là
chế độ mới của dân, tổ chức đời sống xã hội vì lợi ích của nhân dân.
Chính vì vậy,dân chủ gắn liền với đấu tranh giai cấp, thực hiện chuyên
chính vô sản là một tất yếu lịch sử, đập tan bộ máy bóc lột của giai cấp thống trị,
từng bước đưa người dân lên địa vị làm chủ, tiến tới xây dựng xã hội bình đẳng để đi
đến một xã hội không có giai cấp – Xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mỗi bước tiến của
cách mạng là một bước tiến về dân chủ, trình độ phát triển của chế độ dân chủ bao
giờ cũng chịu sự quy định và chế ước của trình độ phát triển kinh tế xã hội, nó đòi hỏi
trong quá trình xây dựng, chế độ dân chủ khi được xây dựng trên nền tảng đó cũng



phải đặt ra những mục tiêu phù hợp với bản chất xã hội và điều kiện hoàn cảnh lịch
sử cụ thể.
* V.I. Lênin bổ sung, phát triển lí luận dân chủ vô sản.
Trong khi nghiên cứu và kế thừa những tiền đề lý luận của C. Mác và Ph.
Ăngghen, cùng với việc phát triển chuyên chính vô sản, V.I. Lênin đã phát triển lý
luận về chế độ dân chủ. Người đã làm sáng tỏ con đường biện chứng trong sự
tiến hoá của dân chủ, “từ chuyên chế đến dân chủ tư sản; từ dân chủ tư sản đến
dân chủ vô sản; từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ nữa”.
Tư tưởng của V.I. Lênin về sự tiêu vong của nền dân chủ được nảy sinh khi
tiếp cận với dân chủ với phương diện là một hình thức nhà nước. Bởi vậy, tất nhiên
dân chủ ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. V.I. Lênin viết:
“Đương nhiên, chế độ dân chủ cũng là một hình thức nhà nước và sẽ mất đi khi nhà
nước tiêu vong nhưng điều đó chỉ xảy ra chủ nghĩa xã hội thắng lợi hoàn toàn và
được củng cố, quá độ lên chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn”.
V.I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh tính giai cấp của dân chủ và đã nêu ra một
trong những tiêu chí phân biệt dân chủ vô sản với các loại dân chủ trước đó.
Dân chủ vô sản là chế độ thống trị của đa số với thiểu số, vì lợi ích của đa số. Sau
khi thiết lập chính quyền, việc phát triển triệt để nền dân chủ vô sản là tiền đề để
thực hiện thắng lợi hoàn toàn mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện lịch sử mới, khi giai cấp công nhân đã giành chính quyền
và xác lập chuyên chính vô sản trong thực tế; khi việc thay thế dân chủ tư sản
bằng một kiểu dân chủ cao hơn đã được đặt lên chương trình nghị sự hàng
ngày, V.I. Lênin đã có cống hiến to lớn trong việc phát triển quan điểm mácxít về
dân chủ vô sản. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, vấn đề giải
phóng dân tộc, yêu cầu thủ tiêu ách áp bức dân tộc nổi lên như là một đòi hỏi
đầu tiên con đường tiến tới một xã hội dân chủ. Ông cho rằng, việc thủ tiêu áp
bức dân tộc chỉ trở thành hiện thực khi vượt qua giới hạn của chủ nghĩa tư bản.
Hơn nữa, phải thiết lập được nền dân chủ trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Dân
chủ vô sản, theo V.I. Lênin, là dân chủ không phải là chế độ dân chủ cho tất cả



mọi người; nó chỉ là dân chủ đối với quần chúng lao động và bị áp bức; dân chủ
vô sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số; dân chủ xã hội chủ nghĩa càng hoàn
thiện bao nhiêu, càng nhanh tới ngày tiêu vong bấy nhiêu. Dân chủ vô sản loại bỏ
quyền dân chủ của các giai cấp có những âm mưu, hành động chống lại cuộc cách
mạng và vai trò lãnh đạo xã hội của giai cấp vô sản.
V.I. Lênin cũng cho rằng, dân chủ vô sản không loại trừ đấu tranh giai cấp.
Điều khác biệt ở đây chỉ là chỗ trong chế độ dân chủ đó, đấu tranh giai cấp trở
nên rộng rãi, công khai, có ý thức. Khi suy nghĩ về những nhân tố chế định đối
với tình trạng dân chủ. V.I. Lênin làm rõ vai trò của nhân tố kinh tế đối với tính
chất, trạng thái và trình độ của dân chủ. V.I. Lênin kịch liệt phê phán những kẻ
cơ hội hữu khuynh muốn có một nền dân chủ cao về chất so với dân chủ đạt
được trong chủ nghĩa tư bản mà lại không đụng chạm tới quyền sở hữu tư nhân
với tư liệu sản xuất. Với tất cả những ý nghĩa đã trình bày trước đây, V.I. Lênin đi
đến một tư tưởng khái quát: dân chủ vô sản là thứ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư
sản.
Sự khác nhau cơ bản giữa dân chủ vô sản và dân chủ tư sản được V.I.
Lênin chỉ rõ đó là tính chất dân chủ của nhà nước. Chuyên chính vô sản là một
kiểu nhà nước mới, khác hẳn với các nhà nước trước đó. Đó là “nhà nước dân
chủ kiểu mới (dân chủ đối với những người vô sản và nói chung những người
không có của) và chuyên chính kiểu mới (chống giai cấp tư sản).
Có thể nói, chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên bản chất xã hội xã hội chủ
nghĩa, là chế độ được xác lập dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
khẳng định dân chủ dưới chủ nghĩa xã hội gấp triệu lần chế độ dân chủ tư sản vì
đó là dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân trong xã hội. Tuy nhiên, do chủ nghĩa
xã hội hiện thực đang trong quá trình tìm tòi sáng tạo và vận động đi lên. Do đó
những dự báo khoa học của các nhà kinh điển đang từng bước được cụ thể hoá
cho phù hợp với sự vận động biện chứng của lịch sử trên con đường phát triển
tất yếu của nó. Hồ Chí Minh, với sự mẫn cảm sâu sắc về chính trị đồng thời là đại

biểu tiêu biểu cho thân phận dân tộc bị lầm than, với sự kế thừa những giá trị


văn hoá Đông - Tây, luôn đề cao nhân dân, coi nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử của dân tộc mình.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
Bàn về vai trò của quần chúng nhân dân Người khẳng định: "trong bầu
trời không gì quý bằng nhân dân"; "dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn
lần dân liệu cũng xong". Dân là gốc là phạm trù trung tâm trong toàn bộ nhận
thức, tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh. Từ tư tưởng cốt lõi đó, Hồ Chí
Minh nêu lên hệ thống quan điểm cách mạng và khoa học về dân chủ. Dân chủ
với Hồ Chí Minh tức là Dân là chủ và Dân làm chủ. "nhà nước ta là nhà nước dân
chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân; quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân".
Theo Hồ Chí Minh, trong nhà nước dân chủ, quyền lực nhà nước là do dân
uỷ thác mà có, nhân dân cử ra Chính phủ, trao quyền cho Chính phủ để quản lý
đất nước, nhưng quyền vẫn thuộc về dân, nếu Chính phủ không làm tròn nhiệm
vụ với dân, lộng quyền thì dân bãi miễn Chính phủ bất cứ lúc nào. "Nếu Chính
phủ có hại cho dân chúng thì dân chúng đập đổ Chính phủ ấy đi". Dân chủ trong
tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ thực sự, bởi vì trải qua bôn ba khắp thế giới Hồ
Chí Minh đã thấy rõ thứ dân chủ giả hiệu, thức khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng Bác ái" mà các nhà nước tư sản làm cái bánh vẽ dùng để mỵ dân. Ngay sau khi
giành được độc lập người đã cảnh báo bệnh quan liêu xa dân. Người nói: "Đảng
không phải là nơi làm quan phát tài". Hay: "cán bộ thì cậy thế mình trong ban
này, ban nọ rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận,
không nghĩ đến dân. Quyên rằng dân bầu ra mình để làm việc cho dân, chứ
không phải để cậy thế với dân; đè đầu cưỡi cổ dân".
Quan niệm về dân chủ ở Hồ Chí Minh là dân chủ triệt để, dân chủ thực sự
dựa trên nhận thức phải thân dân, gần dân, yêu dân, kính trọng dân, học dân thì
mới có thể tạo nên sức mạnh thực sự của cách mạng, Người viết: "có phát huy
dân chủ cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách

mạng tiến lên". Trong việc lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện quyền dân chủ


của nhân dân, Hồ Chí Minh chủ trương trước hết phải thực hành dân chủ trong
nội bộ Đảng.
Hồ Chí Minh đề ra 12 tư cách của một Đảng cầm quyền để thực hành dân
chủ trong đảng và giữ mối quan hệ với nhà nước và nhân dân.
1. Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài, Đảng phải phấn đấu
vì lợi ích của dân tộc, lợi ích của nhân dân.
2. Cán bộ Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng và biết thực hành cách
mạng.
3. Khi Đảng ra các nghị quyết của đảng phải căn cứ vào điều kiện, hoàn
cảnh của cả nước và của địa phương.
4. Đảng phải chịu sự kiểm soát của quần chúng.
5. Hoạt động của đảng phải luôn luôn đứng về phía quần chúng.
6. Đảng phải gắn bó chặt chẽ với quần chúng, học hỏi dân chúng, coi đó là
một nguyên tắc.
7. Trong hoạt động đảng phải khôn khéo sử dụng những hình thức thích
hợp.
8. Đảng không được che giấu khuyết điểm của mình, không sợ phê bình,
phải sửa chữa khuyết điểm.
9. Đảng phải biết lựa chọn, sử dụng cán bộ nhất là những nhóm trung
kiên, cán bộ lãnh đạo.
10. Đảng phải đấu tranh với những phần tử cơ hội, không cho bọn cơ hội
chui vào hàng ngũ của đảng.
11. Đảng phải giữ nghiêm kỷ luật từ trên xuống dưới.
12. Đảng phải luôn tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện các nghị quyết để
kịp thời bổ sung, điều chỉnh thích hợp.
Đây là 12 vấn đề thực sự có ý nghĩa và nó vẫn luôn mang giá trị và tính
thời sự nóng hổi hiện nay. Từ quan niệm về dân chủ, Hồ Chí Minh nêu lên tư

tưởng nhà nước pháp quyền. Theo Người nhà nước pháp quyền phải là nhà
nước dân chủ, luật pháp phải thể hiện bản chất dân chủ và quyền tự do dân chủ


của nhân dân phải thực hiện trong khuôn khổ pháp luật: "luật pháp của chúng
ta hiện nay bảo vệ hàng triệu người lao động... pháp luật của chúng ta phải thật
sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động.
Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình
nhưng phải tôn trọng tự do của người khác, người nào sử dụng quyền tự do của
mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp".
Quan điểm về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng trong điều kiện
Đảng cầm quyền được Đảng vận dụng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong quá trình lịch sử cách mạng nước ta.
1.3. Sự phát triển lí luận dân chủ của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng
như quá trình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay, Đảng ta luôn coi trọng việc “lấy dân là gốc” và phát huy sức mạnh
của toàn dân tộc, coi dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI
đánh dấu bước phát triển tư duy lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng.
Đó là quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân; coi “làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa dần được thực hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống”.
Đảng xác định “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ
chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Đồng thời chỉ rõ: quyền làm chủ cần
được thể chế bằng pháp luật và tổ chức. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, quyền hạn và
lợi ích đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ. Thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao
động tự quản lý Nhà nước của mình.
Cương lĩnh 1991 tiếp tục khẳng định các quan điểm của Đảng ta về dân

chủ xã hội chủ nghĩa, coi bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền làm
chủ trên thực tế, về mọi mặt của nhân dân; xác định các nội dung dân chủ trên


các lĩnh vực đời sống xã hội, mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính, dân chủ
và tập trung, dân chủ với pháp luật, kỷ luật, kỷ cương xã hội.
Đại hội VIII, chủ trương “xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính
sách lớn của Đảng, Nhà nước”. Nêu lên các hình thức dân chủ: “thông qua đại
diện là các cơ quan dân cử và các đoàn thể; làm chủ trực tiếp bằng các hình
thức nhân dân tự quản, bằng các qui ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với pháp
luật của Nhà nước”
Trong nhiệm kỳ Đại hội IX, Đảng coi thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là
điều kiện, yêu cầu cơ bản để xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân.
Tiếp tục hoàn thiện hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện và coi đó là
phương hướng cơ bản để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Năm 1998, Bộ
Chính trị đã ra Chỉ thị 30 – CT-TW về thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở xã,
phường, thị trấn và năm 2007 Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về dân chủ ở cơ
sở. Đại hội IX cũng nhấn mạnh: phát huy dân chủ phải đi liền với thực hiện kỷ
cương, pháp luật và bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đại hội X, coi phát huy dân chủ gắn với xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, là một phương hướng quan trọng để phát huy Đại đoàn kết; coi thực
hiện “phản biện xã hội” của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thẻ nhân dân để phát
huy dân chủ, triển khai Qui chấ dân chủ ở mọi cấp để nhân dân tham gia rộng
rãi vào xây dựng hệ thống chính trị. Đi đôi với vấn đề trên, Đại hội X tiếp tục
khẳng định “dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân”. Mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân.
Đặt ra mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, bổ sung “dân chủ” vào hệ giá trị

trong mô hình, mục tiêucủa xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tổng kết sự phát triển lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đổi mới, Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Dân chủ Xã


hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triên đất nước”, “xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm dân chủ được thưc hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên
tất cả các lĩnh vực”, “Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, và phải được thể
chế bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
Đặc biệt, Cương lĩnh đã đặt dân chủ gắn liền với quyền con người, xác
định mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, trong đó “Nhà nước tôn trọng và
bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, chăm lo hạnh phúc, sự phát triển
tự do của mỗi người.
Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật qui định: “Quyền
của công dân không tách rời với nghĩa vụ công dân”. Tiếp tục xác định các hình
thức thực hiện dân chủ: “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt
động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện”. Nhân dân là chủ thể được tham gia vào công việc của Nhà
nước, mọi chính sách của Nhà nước đều phải hỏi dân, dựa vào dân để thực hiện
và để kiểm tra giám sát. Nhà nước bảo đảm quyền tự do kinh tế, phát huy năng
lực sáng tạo của nhân dân. Xây dựng thể chế chính trị, hệ thống chính trị phù
hợp với tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền và xây dựng xã hội công dân. Bảo đảm nguyên tắc dân chủ trong việc quyết định mọi vấn đề của Nhà nước
trong đó, nguyên tắc tập trung dân chủ cũng phải dựa trên cơ chế bảo đảm thực
sự dân chủ, phải dựa vào dân. - Xây dựng quan hệ, tập quán dân chủ trong đời
sống chính trị - xã hội. Coi dân chủ như là hơi thở, là phương thức tồn tại phát
triển của các quan hệ xã hội.
Trong điều kiện xây dựng đất nước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Thực hiện nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và
xã hội. Mục đích và bản chất nhà nước là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một nhà nước thống nhất về lãnh thổ,
có nền văn hoá thống nhất trong đa dạng của 54 đất dân tộc anh em, Đảng đóng
vai trò là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của


nhân dân lao động và của dân tộc, rõ ràng dân chủ trong Đảng và dân chủ hoá
xã hội hiện nay mang những nội dung hoàn toàn mới và toàn diện hơn, đòi hỏi
Đảng ta phải nghiên cứu tìm tòi, kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; về Đảng cầm quyền; về dân chủ hoá, về Nhà nước
của dân, do dân, vì dân để hình thành văn hoá chính trị về dân chủ trong Đảng
và trong xã hội nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN mang đặc thù Việt
Nam nhưng phù hợp với tiến bộ phát triển của nhân loại.

2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Nhất quán quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo các nguyên tắc cơ bản
của Nhà nước pháp quyền.
Nói đến nhà nước pháp quyền: thì pháp luật giữ địa vị tối thượng trong
quản lý nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức, cá nhân bình đẳng trước pháp luật,
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng đường lối, quan điểm, nghị quyết,
nhưng đồng thời phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; bình đẳng trong
quan hệ pháp luật, Đảng không làm thay việc Nhà nước. Đề cao tinh thần pháp
luật trong hoạt động của xã hội, mọi công dân có quyền làm mọi việc mà pháp
luật không cấm.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tồn tại là để từng bước đem những
giá trị tốt nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thẩm thấu vào trong mọi


hoạt động và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời nhà nước xã hội chủ

nghĩa cũng phải là công cụ bạo lực để trấn áp những lực lượng chống đối thù
địch, mất dân chủ, các hành vi phản dân chủ xã hội chủ nghĩa để đem lại giá trị
phổ biến nhất của mọi chế độ dân chủ là bình đẳng, tự do...
Nói đến Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là
nói đến nhà nước dân chủ, nơi mà quyền lực bắt nguồn từ dân, là bộ máy thừa
hành ý chí của dân và điều rất quan trọng là nhân viên nhà nước, từ người đứng
đầu cho đến những nhân viên trong bộ máy nhà nước không còn là cha mẹ dân
như trong nhà nước quân chủ. Họ là công bộc, đầy tớ của dân, thừa hành ý chí
của dân; do dân cử ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Chính vì vậy, trước
sau như một Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đều khẳng định trong tư tưởng và
hành động là: Nước lấy dân làm gốc, dân là gốc của nước, dân giàu nước mạnh.
Khi dân là chủ và dân làm chủ thì địa vị cao nhất trong xã hội là dân, nhân viên
nhà nước không còn là "phụ mẫu của dân" mà là "công bộc" của dân.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay được
xuất phát từ việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa với việc phát huy quyền
làm chủ của người dân trong điều kiện mới. Chúng ta không thể thực hiện một
cách cứng nhắc chỉ chú tâm vào công việc hành pháp, hay thực hiện dân chủ một
cách vô nguyên tắc không có kỷ cương, kỷ luật. Cần kết hợp hài hòa, biện chứng
mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chế, giữa các biện pháp giáo dục tuyên
truyền với tính chất cưỡng chế, cần phải bảo đảm quyền lợi tối cao của nhân
dân “lấy dân là gốc”, đồng thời cũng cần thể hiện rõ tính kỷ cương của luật pháp
như chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “dân chủ là của quý của nhân dân,
chuyên chính là cái chìa khóa cái của để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không
có khóa, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có hòm phải có khóa, có
nhà phải có cửa, thế thì dân chủ cũng phải có chuyên chính để để giữ gìn lấy dân
chủ”.
2.2. Triệt để thực hành dân chủ trong Đảng.


Theo 12 quy định tư cách của Đảng cầm quyền của Hồ Chí Minh và nguyên

tắc tập trung dân chủ một cách thực sự, dân chủ trong quá trình hình thành
đường lối, chính sách, nghị quyết chỉ thị của Đảng. Dân chủ trong việc ban hành,
công bố, công khai đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của đảng. Dân chủ,
bình đẳng trong thực hiện nguyên tắc tổ chức và kỷ luật Đảng. Dân chủ trong
phát hiện nhân tố, phát hiện người hiền tài cũng như phát hiện, tố giác, đấu
tranh chống quan liêu tham nhũng trong đảng và ngoài xã hội. Dân chủ trong
phê bình, tự phê bình và có giải pháp bảo vệ người phê bình, đấu tranh chống
tiêu cực trong nội bộ Đảng.
Công khai tổ chức bộ máy, cán bộ, ngân sách hoạt động của Đảng và chế độ
chính sách đãi ngộ cho cán bộ của Đảng để nhân dân giám sát. Xây dựng và ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về sự lãnh đạo, tổ chức và hoạt động của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước, xã hội và hệ thống chính trị. Trung
ương Đảng phải ban hành quy chế về hoạt động của Ban chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban bí thư, Ban thường vụ cấp ủy đảng, các đảng đoàn, chức
trách cá nhân của những người giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng quy định
rõ nội dung lãnh đạo, phạm vi lãnh đạo, quy trình làm việc hết sức cụ thể, rõ
ràng, minh bạch trong toàn Đảng. Nếu hiện nay chúng ta không làm được và
không làm tốt điều này thì cụm từ trực tiếp - toàn diện - tuyệt đối về sự lãnh đạo
của Đảng tiếp tục bị vận dụng thực hiện tuỳ tiện, làm vô hiệu hoá bộ máy Nhà
nước.
Trên cơ sở xác định lại nội dung, và phạm vi lãnh đạo của đảng, cần nghiên
cứu tinh giản bộ máy chuyên trách của Đảng và các tổ chức chính trị xã hội một
cách hợp lý. Chuyển các đơn vị sự nghiệp của các đoàn thể sang thực hiện cơ chế
tự chủ về tổ chức, biên chế và tài chính theo quy định của pháp luật và đặt dưới
sự kiểm tra giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Từ Đại hội lần thứ XI (năm 2011) đến nay, Đảng đã ban hành nhiều nghị
quyết, chủ trương và qui định, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), nhằm
“Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt



cấp ủy ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung
ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô
nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ”. Đó là: Qui định rõ những quyền
dân chủ cơ bản của đảng viên (điều 3 Điều lệ Đảng ); Triển khai đợt sinh hoạt tự
phê bình và phê bình sâu rộng, nghiêm túc trong Đảng gắn với Cuộc vận động
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Hướng dẫn thực hiện quy
chế chất vấn trong Đảng; Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét
cán bộ; Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản theo quy định của Đảng và Nhà
nước; Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra,
truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí; Qui định định kỳ nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng thông qua Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội…
Có thể thấy, các chủ trương, nghị quyết, đặc biệt là Nghị quyết TW 4, đã
nhanh chóng đi vào cuộc sống, tỏ rõ sức sống, hiệu ứng xã hội rộng lớn của nó.
Và nhân dân đã tham gia đóng góp nhiệt tình, tâm huyết, sáng kiến vào việc xây
dựng Đảng, giám sát và phản biện cho Đảng và Nhà nước của mình. Có cơ sở để
khẳng định, những kết quả tiến bộ trong thực hành dân chủ trong Đảng đã tiếp
tục thúc đẩy trên một tầm cao mới sáng kiến và trí tuệ trong Đảng để đổi mới
Đảng và dân chủ hóa toàn xã hội. Tuy nhiên có những yếu kém khuyết điểm
chúng ta mới chỉ tạm thời ngăn chặn chứ chưa đẩy lùi được. Dự thảo các văn
kiện trình Đại hội XII của Đảng cũng thẳng thắn nhìn nhận vấn đề nay.
Để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng như lời căn dặn của Bác, nhất là
trong bối cảnh Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đang diễn ra với nhiều kỳ
vọng đổi mới, cần tiếp tục thực hiện những nội dung cơ bản đó là:
Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc, các quy định trong sinh hoạt Đảng.
Người chủ trì phải phát huy dân chủ cao nhất, điều hành hội nghị cởi mở, động
viên tự phê bình và phê bình, bản thân gương mẫu tự phê bình một cách trung
thực và thẳng thắn, tôn trọng những ý kiến phê bình, chất vấn mang tính xây



dựng, đúng đắn của cán bộ, đảng viên; kịp thời xử lý nghiêm minh những cá
nhân vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Song song với để để có tính khách quan phải thông tin cập nhật đầy đủ và
minh bạch những vấn đề liên quan đến những hoạt động của tổ chức đảng và
chính quyền, nhất là những vấn đề liên quan đến đời sống chính trị, kinh tế, xã
hội của người dân, những vấn đề “nổi cộm” mà cán bộ, đảng viên và nhân dân
đang quan tâm, bức xúc, nghiêm cấm việc cung cấp thông tin không đầy đủ,
thông tin sai lệch… Cũng cần công khai, minh bạch, kể cả phát thanh, truyền
hình trực tiếp cho nhân dân biết tổ chức Đảng hoạt động như thế nào, tổ chức
Đảng bàn những vấn đề gì, trừ những vấn đề đã qui định rõ là bí mật quốc gia,
bí mật Đảng.
Mặt khác phải thực hiện nghiêm quy chế chất vấn trong Đảng và công
khai chất vấn đó cho dân biết trong những chừng mực nhất định. Đa số các đồng
chí có trách nhiệm trong Đảng cũng đồng thời là người giữ cương vị, trọng
trách trong bộ máy nhà nước. Do đó, trong các tổ chức Đảng và cấp ủy, các đồng
chí có trách nhiệm cũng phải chịu chất vấn của cấp ủy cũng như của đảng viên,
gắn với việc lấy phiếu tín nhiệm theo qui định.
Tiếp tục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên
đối với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là 8 nhiệm vụ xây dựng Đảng
trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”;
tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát không để tình trạng sinh hoạt, học
tập kém chất lượng, hình thức, phân tán tư tưởng, thiếu tập trung… Khắc phục
những biểu hiện kém tinh thần trách nhiệm trong công tác xây dựng Đảng như:
Ngại va chạm, không phát huy đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ trong đấu tranh tự
phê bình và phê bình, bàng quan vô cảm trước đúng - sai, tốt - xấu, không trăn
trở suy nghĩ để có ý kiến tham gia xây dựng Đảng, mà trực tiếp là xây dựng
Đảng nơi đảng viên công tác.



Quá trình thực hiện dân chủ trong Đảng phải quán triệt sâu sắc tư tưởng
chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa “xây và chống”, “chống và xây”, cảnh giác không để
các thế lực thù địch và phần tử xấu lợi dụng chống phá. Trước mắt, cần tập
trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề tiêu cực bức xúc, nổi cộm mà đảng
viên và quần chúng quan tâm trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương nhằm
củng cố lòng tin của đảng viên và nhân dân, tiếp tục thực hiện tốt hơn quyền
dân chủ, thường xuyên tự phê bình, phê bình, xây dựng từng tổ chức đảng và
toàn Đảng thực sự trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
luôn có đủ năng lực trí tuệ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta phát
triển bền vững vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
2.3. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy Nhà nước.
* Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống cơ quan quyền lực Nhà
nước (Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp).
Cần xác định rõ mối quan hệ về nguyên tắc lãnh đạo của Đảng với chức
năng quyết định của cơ quan quyền lực Nhà nước đối với nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
thông qua đường lối, chiến lược và nghị quyết của Đảng và tổ chức thực hiện
thông qua hệ thống tổ chức của đảng, thông qua cán bộ, đảng viên của đảng
tham gia trong các cơ quan nhà nước như Đảng đoàn Quốc hội và hội đồng
nhân dân, các đảng viên trong Quốc hội và hội đồng nhân dân, nhưng phải bảo
đảm nguyên tắc hoàn toàn tôn trọng tổ chức và các quyết định, nghị quyết của
Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp.
Các nghị quyết của Đảng phải mang tính định hướng nhằm phát huy dân
chủ thực sự, dân chủ cao nhất trong sinh hoạt của đại biểu Quốc hội và hội đồng
nhân dân để quyết định, thực sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Để
thực hiện được nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, Đảng cần lãnh
đạo việc tăng cường cán bộ chuyên trách của Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp, bảo đảm đủ chức danh và hoạt động độc lập theo quy định của pháp luật.



Đảng giới thiệu những cán bộ đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực quán triệt,
cụ thể hoá nghị quyết của đảng vào giữ một số chức vụ do Quốc hội và hội đồng
nhân dân bầu để hiện thực hoá quan điểm đường lối của đảng trong các nghị
quyết và các quyết định của Quốc hội và hội đồng nhân dân.
Chúng ta khắc phục tình trạng khá phổ biến là coi Quốc hội cũng như hội
đồng nhân dân là cơ quan "làm thêm"; cơ quan "hợp thức hoá" ý chí của Đảng
và từ đó Đảng không quan tâm đúng mức việc kiện toàn bộ máy, không đầu tư
đúng mức công tác cán bộ và không thực sự quan tâm lãnh đạo hoạt động của
cơ quan quyền lực nhất. Mọi việc quan trọng của địa phương từ chiến lược đến
bộ phận, từ vĩ mô đến vi mô... đã có Đảng chỉ đạo thực hiện. Làm cho hội đồng
nhân dân ở nhiều nơi tồn tại như "cái bóng" của Đảng, hữu danh vô thực dẫn
đến hiệu lực và hiệu quả hoạt động thấp không như mong muốn mà các tầng
lớp nhân dân trao gửi. Làm đại biểu của nhân dân trong hoàn cảnh như vậy khó
mà hoàn thành sứ mạng đại biểu cho ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân.
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân có
thể khẳng định rằng đổi mới sự lãnh đạo của đảng đối với cơ quan quyền lực
nhà nước là một trong những khâu đột phá của hệ thống chính trị nước ta.
Đảng phải thực sự tôn trọng và lãnh đạo Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp
thực hiện tốt chức năng quyết định và giám sát mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế
xã hội, bảo đảm quyền lực của nhân dân, phát huy thực sự và cao độ dân chủ
của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giám sát đại
biểu dân cử và giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.
* Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước.
Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan chấp hành của Quốc hội và HĐND
các cấp. Ở nước ta, Chính phủ do Quốc hội bầu ra, ủy ban nhân dân do hội đồng
nhân dân bầu ra để quản lý đất nước, thực thi pháp luật. Sự lãnh đạo của đảng

đối với cơ quan hành chính nhà nước về mặt thể chế là lãnh đạo cụ thể hoá


đường lối của đảng thành pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ
sở cho việc tổ chức thực hiện của cơ quan hành chính nhà nước. Nhưng trong
thực tế đất nước ta còn tồn tại một thực trạng là: Đều là đảng viên của đảng,
đều là đại biểu Quốc hội hoặc là hội đồng nhân dân nhưng được đảng phân công
vào các vị trí chủ chốt trong Chính phủ và ủy ban nhân dân thì rất phấn khởi. Và
ngược lại nếu được phân công làm nhiệm vụ chủ chốt ở hội đồng nhân dân thì
cho đó là có vấn đề, thậm chí ở một địa phương việc đề bạt 1 đồng chí phó chủ
tịch ủy ban nhân dân lên làm phó chủ tịch hội đồng nhân dân. Thì được cho
không phải là “thăng chức”. Vì sao, theo tác giả tiểu luận: vì cơ cấu nhân sự
tham gia vào cơ quan lãnh đạo của Đảng đối với ủy ban nhân dân là cơ quan
cấu cứng trong khi cơ cấu của HĐND là cơ cấu “mềm”, hệ quả là trong Ban
thường vụ cấp uỷ có nhiều đại diện là lãnh đạo chủ chốt của ủy ban nhân dân.
Mặt khác theo tư duy lãnh đạo truyền thống mọi việc của địa phương do Đảng
quyết định, do vậy còn tình trạng một số nơi là sau khi có nghị quyết của cấp uỷ
hoặc Ban thường vụ, thì ủy ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị tổ chức
thực hiện luôn mà không cần phải thông qua hội đồng nhân dân. Đó là một cách
đi tắt bỏ qua quyền lực của nhân dân mà ở một số địa phương, nhất là cấp cơ sở
chưa thực hiện tốt.
Sự lãnh đạo của đảng đối với cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu là lãnh
đạo các tổ chức Đảng, đảng viên thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước, của
địa phương đã được thể chế hoá thành hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của
Quốc hội, Nghị quyết của Chính phủ, Nghị quyết của hội đồng nhân dân các cấp
bằng các nghị quyết, chỉ thị của đảng để quán triệt và tổ chức thực hiện trong tổ
chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, lãnh đạo kiểm tra, giám sát cán bộ đảng
viên chấp hành chính sách pháp luật nhà nước chứ không bao biện, làm thay,
can thiệp vào công việc của nhà nước, vô hiệu hoá quyền lực của nhân dân.
Đảng không tạo kẽ hở, điều kiện cho cơ quan hành chính ban hành các văn

bản quy phạm pháp luật trái với quy định của pháp luật. Trong vai trò lãnh đạo,
đảng phải bảo đảm trên thực tế đảng viên và cán bộ do tổ chức đảng quản lý


nếu vi phạm pháp luật phải bị xử lý theo pháp luật chứ không chờ ý kiến của
Đảng đồng thời đảng phải xử lý kỷ luật nặng hơn đảng viên thường, không bao
che, nương nhẹ kỷ luật đảng đối với đảng viên vi phạm pháp luật.
* Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp.
Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng theo nguyên tắc bảo đảm trên
thực tế là không can thiệp vào quá trình hoạt động của các cơ quan tư pháp
trong việc điều tra, tố tụng, xét xử, thi hành án bảo đảm chỉ tuân thủ pháp luật.
Bởi vì đường lối nghị quyết của đảng thì phải công khai đề ra như thế nhưng
trong tổ chức thực hiện nếu dính đến cán bộ do đảng quản lý thì tổ chức đảng lại
can thiệp vào quá trình xử lý pháp luật. Đó là tình trạng mong mà không muốn
trong lãnh đạo công tác tư pháp.
Đảng cần quan tâm lãnh đạo cải cách hệ thống pháp luật, cải cách bộ máy
tư pháp làm cho hoạt động tư pháp nhanh nhạy có hiệu quả đáp ứng yêu cầu
thực tiễn, khắc phục tình trạng chồng chéo trong phối hợp, cản trở khó khăn
trong hoạt động tố tụng hoặc liên kết bao che, cố ý làm trái, tiêu cực trong điều
tra, xét xử, thi hành án. Nâng cao năng lực và kỷ cương thực thi nhiệm vụ cho
đội ngũ tư pháp. Tổ chức toà án hiến pháp để bảo vệ hiến pháp...
* Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội.
Các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất to lớn trong việc tập hợp các
tầng lớp nhân dân đi theo Đảng làm cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Việt Minh đã từng có vai trò như một kiểu nhà nước,
trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, chỉ huy toàn dân làm nên cách mạng tháng 8 (1945).
Các đoàn thể chính trị - xã hội là chỗ dựa chính trị vững chắc của Đảng trong
các thời kỳ cách mạng. Tuy nhiên, cho đến nay, bước vào thời kỳ xây dựng đất
nước theo tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có nhận
thức mới về tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội

dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phải làm cho các tổ chức chính trị - xã hội đang tồn
tại như là bộ máy hành chính - chính trị - xã hội, chuyển sang hoạt động xã hội chính trị. Đa dạng hoá hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo


đảm về tài chính, hoạt động xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của các nhóm đối
tượng xã hội. Cho phép các tổ chức xã hội hoạt động kinh tế theo pháp luật để
tạo nguồn lực hoạt động, không trông chờ, ỉ lại và mặc cả với nhà nước.
Nhà nước chỉ hỗ trợ cơ sở vật chất và đặt hàng một số chương trình mục
tiêu cụ thể, không bao cấp ngân sách một cách quá tràn lan. Tinh giảm bộ máy
cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; đa dạng hoá hoạt động cơ sở; chuyển các
tổ chức chính trị - xã hội sang hoạt động theo luật về hội. Nhà nước quản lý xã
hội theo pháp luật chứ không quá đề cao "vai trò ảo - tướng không quân" của hệ
thống hành chính quan liêu của các tổ chức chính trị - xã hội. Tình hình của Thái
Bình năm 1997 và ở Tây Nguyên những năm 2001, 2004. Ở Mường Nhé – Điện
Biên (2011) phản ánh sự thiếu hiệu quả của các tổ chức chính trị xã hội tại địa
phương. Mặt khác trong nhà nước pháp quyền cần nghiên cứu hình thành cơ
quan nhà nước về thanh niên và phụ nữ, rất gọn nhẹ để nghiên cứu chính sách,
quản lý nhà nước về thanh niên và bình đẳng giới.
Hoàn thiện hệ thống quan điểm về dân chủ và dân chủ hoá xã hội trên cơ sở
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nhà nước pháp quyền, về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước hình thành thói quen, chế độ dân chủ
trong mọi sinh hoạt xã hội và thực thi quyền lực chính trị của nhân dân với hình
thức và bước đi cụ thể, thích hợp, không bị các thế lực thù địch lợi dụng xuyên
tạc. Bảo đảm cho quá trình đổi mới chính trị ở nước ta theo tinh thần xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, vì nhân dân, đạt được kết
quả mong muốn, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục đi lên vì hạnh phúc
nhân dân dưới sự lãnh Đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
2.4. Nâng cao văn hoá chính trị, văn hóa dân chủ và năng lực thực
hành dân chủ cho đội ngũ cán bộ và nhân dân.
Đây là vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài, bởi vì mọi đường lối quan điểm, tư

tưởng của đảng dù đúng đắn đến đâu nhưng không được đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị nhận thức, vận dụng và tổ chức thực hiện một cách đúng đắn,
hiệu quả. Đội ngũ cán bộ không được nâng cao về văn hoá chính trị, thái độ ứng


xử chính trị nặng chủ nghĩa cá nhân, tranh công đổ lỗi, vi phạm dân chủ... tuỳ
tiện trong việc tổ chức thực hiện luật pháp thì mục tiêu dân chủ và dân chủ hoá
xã hội theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền chỉ là những mong muốn mà
không bao giờ trở thành hiện thực.
Văn hoá chính trị được xây dựng và trở thành thái độ ứng xử chính trị,
thành hành vi chính trị của đội ngũ cán bộ trước hết là trong nội bộ Đảng và
tiếp đến là trong các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội sẽ góp phần quan trọng
khắc phục những tồn tại yếu kém trong quá trình sử dụng và thực thi quyền lực
chính trị của đảng cầm quyền và bộ máy nhà nước, là cơ sở nền tảng để xây
dựng chế độ dân chủ theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, phải do nhân dân tự tay mình thực hiện, đó
là nguyên lý và nội dung của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ đó vì
vậy, sẽ phụ thuộc vào nền tảng xã hội sâu, ý thức chính trị của nhân dân và khả
năng của nhân dân tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Các yếu tố bảo
đảm đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi mà trình độ văn hóa chính trị của
nhân dân đạt được ở những mức độ nhất định và ngày càng được nâng cao.
Thực tế là, chỉ khi nào người dân tự giác nhận thức được quyền và nghĩa vụ
của mình, tự giác tham gia công việc nhà nước, công việc xã hội, hoạt động với
tư cách là người chủ lúc đó mới có điều kiện thực hiện dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đưa ra một nguyên tắc hoạt động chính trị: "Phải đưa chính trị vào giữa
dân gian". Không có tri thức người dân sẽ không bảo vệ được lợi ích của mình,
sẽ hành động một cách tự phát và sẽ bị mất phương hướng trong đời sống chính
trị, lúc đó dân chủ chỉ còn là một thứ dân chủ hình thức.
Trong xã hội hiện đại ngày nay cần phát huy vai trò là cầu nối thông tin giữa
dân với Ðảng của truyền thông đại chúng để làm cơ sở cho các cuộc tranh luận,

thảo luận, trưng cầu ý kiến qua đó nâng cao văn hóa dân chủ trong xã hội. Ðây
là một kênh quan trọng để hình thành dư luận xã hội nhằm thực hiện chức năng


góp phần mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Truyền thông đại chúng cũng là
diễn đàn, nơi dân chúng diễn đạt ý kiến của mình, nơi nhân dân gửi đơn thư,
khiếu nại trước khi các cơ quan chức năng vào cuộc. Mở rộng và phát huy dân
chủ là mục tiêu và động lực phát triển. Hơn lúc nào hết chúng ta phải quán triệt
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, phải "làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền
dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình". Do vậy, "thực hành dân chủ là cái
chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn".

KẾT LUẬN
Dân chủ là giá trị phổ quát, là mục tiêu của toàn nhân loại, là chuẩn mực
cao nhất của chính trị và văn hoá chính trị, đồng thời cũng là thước đo trình độ
phát triển của một xã hội. Dân chủ trong mỗi chế độ xã hội có trình độ phát triển
kinh tế, chính trị, văn hoá khác nhau thì có sự khác nhau về cách tiếp cận và


trình độ. Nước ta tiếp cận dân chủ từ nguồn mạch của một đất nước bị ngàn
năm đô hộ của ngoại bang, của thân phận vong quốc nô, do đó độc lập dân tộc là
giá trị cao nhất của tư tưởng dân chủ Việt Nam trong quá trình lịch sử và đến
nay giá trị đó vẫn là cơ sở xuất phát điểm cho mọi tư tưởng dân chủ về kinh tế,
về chính trị, về văn hoá, về nhân quyền, về đoàn kết dân tộc và quan hệ quốc tế.
Trong giai đoạn mới của lịch sử, khi giá trị cơ bản là độc lập dân tộc đã đạt
được. Quan điểm của Đảng ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đang là cơ sở, phương pháp
luận để xây dựng, hoàn thiện và phát huy dân chủ trong quá trình xây dựng đất
nước. Để thực hiện mục tiêu dân chủ và dân chủ hoá xã hội, đòi hỏi Đảng phải
đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị,

đặc biệt là đổi mới phương thức lãnh đạo đối với nhà nước.
Dân chủ không phải là vấn đề mới, nhưng trong điều kiện mới nhận thức
đúng đắn bản chất, yêu cầu của dân chủ và thực thi dân chủ trong thể chế chính
trị - pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề đòi hỏi một quá trình nhận
thức thực tiễn, vượt qua mặc cảm chính trị truyền thống và cần có bản lĩnh
chính trị, thực thi dân chủ trên hết và trước hết trong Đảng, trong hệ thống
chính trị và phải có quyết sách, thể chế hoá tư tưởng nhà nước pháp quyền vào
đời sống thực tiễn thì mới có điều kiện để hình thành và phát triển dân chủ và
dân chủ hoá xã hội. Chúng ta tin tưởng rằng dân chủ và dân chủ hoá xã hội nhất
định sẽ trở thành động lực cơ bản bảo đảm xây dựng thành công nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta. Mỗi
người phải có trách nhiệm tham gia vào quá trình đó.
T ÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của
Đảng, Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở, tháng 2/2015


3. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới
(khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb CTQG, Hà Nội. 2010
4. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, Tập 7, 8, 19. Nxb CTQG, H. 1995
5. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-cơ-va, 1981, tập 6, 11, 33, 27
6. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, 6, 7, 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
7. Học viện chính trị: giáo trình lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà nội. 2014
8. Tài liệu nghiên cứu: Một số vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam của dân, do dân, vì dân, Ban Tổ chức Trung ương Đảng, tháng 9-2004.
9. Trần Nhâm: Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, H.
2010.



×