Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.51 KB, 31 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN HOÀNG LAN ANH

NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN VỚI CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN HOÀNG LAN ANH

NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN VỚI CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Chuyên ngành: Toán giải tích
Mã số: 60 46 01 02

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
TS. Vi Thái Lang



HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện tiểu luận này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
đoàn thể và cá nhân. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn và kính trọng tới tất cả các tập thể và
cá nhân đã tạo điều kiện giúp tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Trước hết
tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vi Thái Lang người đã hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện tiểu luận. Tôi xin trân trọng cảm ơn
Thư viện, phòng sau đại học, tập thể K16 TGT, các đơn vị liên quan của trường
ĐHSP Hà Nội 2 những người đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu để giúp
tôi hoàn thiện bài tiểu luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên, chia sẻ, giúp
đỡ nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thiện tiểu luận này
Hà Nội, tháng 1 năm 2013
TÁC GIẢ

Nguyễn Hoàng Lan Anh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong tiểu luận
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện tiểu luận này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong tiểu luận này đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 01 năm 2013
TÁC GIẢ

Nguyễn Hoàng Lan Anh




1

MỤC LỤC
MỤC LỤC………………………………………………………………………….1
LỜI

MỞ

ĐẦU............................................................................................................3
NỘI DUNG................................................................................................................7
Chương 1: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa

Mác – Lênin………………………………………………………………….7
1.1 Một số khái niệm cơ bản………………………………………….7
1.1.1 Lý luận…………………………………………………….7
1.1.2 Thực tiễn…………………………………………………..8
1.2. Sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn………….10
1.2.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận…………………….10
1.2.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn…………………….11
1.2.3. Ý nghĩa của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn của chủ nghĩa Mác- Lênin ……………………………………………...13
Chương 2: Lựa chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN

nước ta hiện nay phù hợp với nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn của chủ nghĩa Mác- Lênin …….……………………...........................15
2.1 Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam là một tất
yếu…………………………………………………………………………...15

2.2 Thực chất của con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN ở Việt Nam………………………………………………………….21


2

KẾT LUẬN…………………………………………………………………25
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….........26


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản, quan trọng
của chủ nghĩa Mác- Lênin. Nguyên tắc này yêu cầu trong nhận thức cũng
như trong thực tiễn phải đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tức
là phải thấy được giữa lý luận và thực tiễn có sự tác động qua lại, có sự liên
hệ ràng buộc lẫn nhau. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận,
đồng thời nó cũng là tiêu chuẩn để kiểm tra tính chân lý của lý luận. Và đến
lượt mình lý luận giúp xác định mục tiêu, phương hướng và là kim chỉ nam
cho hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng
chỉ ra mối quan hệ giữa lý luận với thực tiễn như sau: “Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Như vậy, ta thấy thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc có ý nghĩa rất to lớn. Nước ta hiện
nay đang tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa dựa trên nề tảng lý
luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, việc quán triệt
nguyên tắc này cần phải được coi trọng.

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: con đường đi lên của nước ta là
sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đây là một nhận thức đúng đắn, nó là sự vận dụng lý luận hình thái kinh tếxã hội của triết học Mác- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nó đảm
bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, có phải là phủ định hoàn toàn chủ nghĩa tư bản không?
Và bỏ qua là bỏ qua cái gì? Thì không phải ai cũng nắm rõ và hiểu sâu sắc
về vấn đề này. Bản thân Đảng ta cũng đã từng có nhận thức sai lầm về vấn
đề này, đã từng phủ định sạch trơn chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên Đảng ta đã
Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


4

kịp thời phát hiện và tiến hành sửa sai, nhận thức lại con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa một cách đúng
đắn và sâu sắc hơn. Điều đó được thể hiện rõ trong cương lĩnh xây dựng đất
nước thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên nên tôi chọn đề tài: “Nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác- Lênin với con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài:
Việc lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
TBCN có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với cách mạng Việt Nam nên đã có
rất nhiều công trình, rất nhiều bài báo, tạp chí nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu:
- “Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam”, tác giả: Dương Phú Hiệp, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2001.
- “Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, tác giả: GS. Nguyễn Đức Bình, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003.
Những công trình nghiên cứu đó là nguồn tài liệu tham khảo rất bổ ích
cho việc tiếp tục tìm hiểu về con đường quá độ lên CNXH ở nước ta bỏ qua
chế độ TBCN.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


5

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
3.1. Mục đích: trên cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đề tài đưa lại nhận thức đúng đắn và
sâu sắc về con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ: Đề tài sẽ lần lượt đi giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa Mác- Lênin.
- Khẳng định việc lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam phù hợp với nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác- Lenin.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Quá độ lên CNXH là một lĩnh vực rất rộng đã được Đảng và Hồ Chí
Minh đề cập từ rất sớm. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố cả khách quan và chủ
quan, đã có một thời kì chúng ta nhận thức chưa đầy đủ, máy móc, thậm chí
là sai lầm về con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Trong

phạm vi bài tiểu luận này, tôi chỉ tập trung chứng minh cho việc lựa chọn
con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam phù hợp với
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác- Lênin,
bằng việc chỉ ra tính tất yếu và thực chất con đường quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài:
5.1. Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu được dựa trên những quan điểm lý
luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời, cũng dựa trên các quan điểm của Đảng về con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Để từ đó, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


6

tiễn của con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta hiện
nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng một số phương pháp
chủ yếu sau:
+ Phương pháp hệ thống hóa
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp
+ Phương pháp diễn dịch, quy nạp
+ Phương pháp lịch sử- cụ thể
6. Giả thuyết khoa học:
Tiểu luận góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa cơ sở lý luận và thực
tiễn của chủ nghĩa Mác- Lênin với con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế
độ TBCN ở Việt Nam.


Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


7

NỘI DUNG
Chương 1: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa Mác-Lênin
1.1. Một số khái niệm cơ bản:
1.1.1. Lý luận:
- Khái niệm lý luận:
Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn.
Lý luận là hệ thống tri thức chung, đáng tin cậy về một lĩnh vực nào đó
trong thế giới. Nói cách khác lý luận là hệ thống các luận điểm nhất định
gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt lôgic và phản ánh bản chất, các quy luật,
hoạt động và phát triển của khách thể nghiên cứu.
Lý luận khác với giả thuyết ở chỗ, giả thuyết là những hiểu biết mang
tính giả định chưa được kiểm định. Lý luận khác với thực tiễn ở chỗ nó
thuộc lĩnh vực ý thức, tư duy, là sự phản ánh, tái hiện khách quan. Lý luận
có chức năng phản ánh hiện thực khách quan và phục vụ thực tiễn.
- Sự hình thành và phát triển của lý luận:
Để tồn tại và phát triển, con người luôn tìm mọi cách để thỏa mãn nhu
cầu hiểu biết của mình về thế giới trên cơ sở đó nhằm cải biến thế giới. Ở
đây ta thấy rằng nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp,
nó đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến bản
chất và từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn

đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng những giác

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


8

quan để tác động trực tiếp vào các sự vật trong thế giới khách quan nhằm
nắm bắt các sự vật ấy. Đây là giai đoạn đầu của qua trình nhận thức nó bao
gồm 3 hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng. Trong nhận thức cảm
tính đã tồn tại cả cái bản chất lẫn cái không bản chất, cả cái tất nhiên và
ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài về sự vật. Vì vậy, chúng ta không
thể dừng lại ở hình thức nhận thức cảm tính, mà nhận thức phải ở một trình
độ mới cao hơn về chất, đó chính là trình độ nhận thức lý tính hay còn gọi là
giai đoạn tư duy trừu tượng.
Nhận thức lý tính là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái
quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng. Đây là giai
đoạn thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất
có tính quy luật của các sự vật hiện tượng.
Nếu chỉ dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có những tri
thức về đối tượng, con người mới chỉ có khả năng giải thích được thế giới,
tuy nhiên cuộc sống đòi hỏi con người không những giải thích được thế giới
mà còn phải cải tạo được thế giới đó. Chính vì vậy, những tri thức ấy phải
được quay trở lại thực tiễn, giúp con người cải tạo thế giới.
Như vậy ta thấy rằng lý luận được hình thành từ thực tiễn thông qua
hoạt động cụ thể của con người, nhờ khả năng tư duy, nhận thức của mình
con người đã khái quát được lý luận từ thực tiễn, từ đó bản thân lý luận cũng
có tác động tích cực để cải tạo thực tiễn.

1.1.2. Thực tiễn:
- Khái niệm thực tiễn:
Theo quan điểm của triết học Mác- Lênin thì hoạt động thực tiễn chỉ có
thể có ở xã hội loại người; nó ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


9

xã hội loài người. Thực tiễn là phạm trù trung tâm nền tảng của triết học duy
vật biện chứng.
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử
- xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Nói cụ thể hơn,
thực tiễn là hoạt động có suy nghĩ, có ý thức, có tính toán, hoạt động có đối
tượng cảm tính của con người.
- Các dạng hoạt động thực tiễn:
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng và phong phú, có ba dạng cơ bản: hoạt
động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm
khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên cơ bản, nền tảng của
đời sống xã hội. Hoạt động này có ý nghĩa quyết định đối với tất cả các dạng
hoạt động khác, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của toàn xã hội.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động nhằm cải biến xã hội, phát
triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội. Hoạt động chính trị - xã hội là một
dạng đặc biệt - dạng cao nhất của hoạt động thực tiễn.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong
những điều kiện do con người tạo ra gần giống, hoặc lặp lại những trạng thái

của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của
đối tượng nghiên cứu.
Ba dạng hoạt động thực tiễn trên có chức năng, vai trò khác nhau song
chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó,
hoạt động sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


10

1.2. Sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn:
Nội dung của nguyên tắc này là sự tác động qua lại, sự liên hệ ràng
buộc lẫn nhau giữa lý luận và thực tiễn.
1.2.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
Thực tiễn có vai trò rất quan trọng. Trước hết nó cung cấp tài liệu cho
nhận thức để hình thành nên lý luận. Mọi tri thức suy cho đến cùng đều bắt
nguồn từ thực tiễn.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận
thức. Nghiên cứu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng tổng kết
kinh nghiệm và khái quát lý luận. Từ đó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của
lý luận, của khoa học. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện
ở chỗ thực tiễn là cơ sở, động lực và là mục đích của lý luận. Như chúng ta
đã biết, các ngành khoa học ra đời vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn
của con người. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của con người cần
phải đo đạc diện tích và đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính
toán thời gian và sự chế tạo cơ khí. Mà toán học đã ra đời và phát triển. Hay
sự xuất hiện học thuyết Mác vào những năm 40 của thế kỉ XIX cũng bắt

nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ… Có thể nói, suy cho cùng không
có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không
nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn,
không dựa vào thực tiễn thì lý luận sẽ xa dời hiện thực nuôi dưỡng sự phát
sinh, tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, chủ thể nhận thức không thể có
những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới.
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận còn là vì nhờ có hoạt
động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện; năng

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


11

lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện
nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng nối dài các giác quan của
con người trong việc nhận thức thế giới.
Thực tiễn không những là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận mà nó
còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Bởi vì, thực tiễn là những
hoạt động vật chất mang tính khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức.
Nó luôn vận động và phát triển nhờ đó thúc đẩy lý luận cũng phải vận động
và phát triển. Chính thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị của
những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời bổ sung, điều chỉnh,
sửa chữa, phát triển và hoàn thiện lý luận.
Trên đây ta đã thấy được vai trò rất quan trọng của thực tiễn đối với lý
luận. Nó vừa là cơ sở, động lực. mục đích của lý luận, vừa là tiêu chuẩn để
kiểm tra chân lý. Khi nhấn mạnh vat trò của thực tiễn Lênin đã viết: quan

điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức.
1.2.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn:
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là mối quan hệ biện chứng, trong
đó, thực tiễn giữ vai trò quyết định lý luậnđiều đó được thể hiện ở chỗ, thực
tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Tuy
nhiên, lý luận có tính độc lập tương đối, nó tác động tới thực tiễn theo hai
hướng tích cực và tiêu cực.
- Về mặt tích cực: lý luận khoa học phản ánh đúng hiện thực khách
quan. Nó góp phần hạn chế tính mò mẫm, tự phát, tăng cường tính tự giác,
chủ động tích cực trong hoạt động của con người. Tức là lý luận góp phần
xác định mục tiêu, khuynh hướng, là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn
đạt hiệu quả cao hơn.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


12

Mác cho rằng: lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng, lý luận được xem như kim chỉ nam cho hành
động. Nó có thể dự kiến được phương thức vận động phát triển của sự vật,
hiện tượng, phương hướng phát triển của thực tiễn. Lênin cho rằng, không
có sách thì không có tri thức. Không có tri thức cách mạng thì không có lý
luận cách mạng. Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách
mạng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận khoa học của giai cấp công nhân được
hình thành và phát triển trong phong trào đấu tranh cách mạng, nó là ngọn

hải đăng soi đường cho tiến trình cách mạng của giai cấp công nhân. Trong
giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: lấy chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động. Đó là bước phát triển trong nhận thức và tư duy lý luận của
Đảng ta.
- Về mặt tiêu cực: lý luận do phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan,
mang tính trừu tượng cao nên không phải lúc nào nó cũng mang lại nhận
thức đúng đắn, chính xác. Nếu nó phản ánh hư ảo hiện thực thì trở thành lý
luận tôn giáo. Nếu nó phản ánh sai, bóp méo hiện thực thì trở thành lý luận
duy tâm trong triết học. Nếu nó lạc hậu, không phù hợp với hiện thực, phản
ánh xa dời hiện thực, thành ảo tưởng, giáo điều thì trở thành sức cản đối với
sự phát triển của xã hội, thậm trí trở thành lý luận phản động, phản tiến bộ
nếu nó được giai cấp phản động sử dụng.
Vì vậy, cần phân biệt lý luận nói chung với lý luận khoa học, lý luận
phản khoa học, lý luận tiến bộ với lý luận phản tiến bộ. Lý luận xuất phát từ
thực tiễn, không xa dòi thực tiễn là lý luận khoa học. Lý luận góp phần thúc
đẩy sự phát triển của thực tiễn, phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội là
lý luận khoa học tiến bộ.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


13

Do đó giữa lý luận và thực tiễn phải thống nhất với nhau. Coi trọng lý
luận song không cường điệu, tuyệt đối hóa vai trò của lý luận, xem thường
thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn.
1.2.3. Ý nghĩa của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của

chủ nghĩa Mác- Lênin:
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cao nhất và căn bản
của chủ nghĩa Mác- Lênin. Nó có vai trò quan trọng trong thực tiễn cuộc
sống và hoạt động nghiên cứu khoa học.
Nó khắc phục được những hạn chế của các quan điểm duy vật siêu hình
và chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm là chưa thấy vai trò của thực
tiễn. Đồng thời, nhờ việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, Mác
và Ăng-ghen đã tạo ra bước chuyển biến cách mạng trong nhận thức, giúp
chúng ta phân biệt được quan điểm duy vật biện chứng với các quan điểm
triết học khác.
Giúp cho các nước xã hội chủ nghĩa tránh được một số căn bệnh như
giáo điều, bệnh kinh nghiệm tồn tại khá lâu ở các nước này. Các căn bệnh
đó là do con người quá đề cao lý luận hoặc thực tiễn, vi phạm nguyên tắc
thống nhất giữa chúng. Vì vậy muốn tránh sai lầm và tìn hướng đi đúng đắn
cho đất nước, các Đảng cộng sản không được đề cao thực tiễn, hạ thấp lý
luận hay ngược lại không được đề cao lý luận đến mức xa dòi thực tiễns, rơi
vào bệnh chủ quan duy ý chí.
Bệnh giáo điều và kinh nghiệm ở nước ta có nguyên nhân cơ bản là sự
yếu kém về lý luận. Sự yếu kém về lý luận khiến cho chúng ta không nhận
thức đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Việc hiểu một cách đơn giản, xơ cứng, phiến diện lý luận Mác-Lênin dẫn
đến sự vận dụng lý luận ấy vào thực tiễn cách mạng còn nhiều sai lầm.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


14


Chậm đổi mới tư duy lý luận là một nguyên nhân chủ quan dẫn tới cuộc
khủng hoảng toàn diện ở nước ta trước thời kì đổi mới.
Hiện nay việc vận dụng nguyên tắc này được thể hiện ở các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì đổi mới.

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


15

Chương 2: Lựa chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
ở nước ta hiện nay phù hợp với nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn của chủ nghĩa Mác- Lênin.
2.1. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam là một tất yếu:
Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của triết học Mác- Lênin,
Đảng ta cho rằng: con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Và đây là con đường rất khó khăn, phức tạp,
cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Và đặc điểm cơ
bản nhất trong thời kì quá độ là ở nước ta tồn tại nền kinh tế nhiều thành
phần và xã hội nhiều giai cấp.
Sau những biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm
80 đầu những năm 90 của thế kỉ XX, một chiến dịch công kích, phê phán,
xuyên tạc chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác- Lênin được dấy lên trên khắp
thế giới bởi các thế lực thù địch. Họ nhanh chóng chớp lấy cơ hội ngàn năm
có một này nhằm tấn công xóa bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã
hội.
Trong bối cảnh, khi mà CNXH hiện thực đang lâm vào khủng hoảng,

phong trào cách mạng thế giới đứng trước những thử thách đầy cam go,
những người hoang mang, dao động về lý tưởng đã khuyến cáo Đảng Cộng
sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ
nghĩa, bởi họ cho rằng đến thành trì của chủ nghĩa xã hội như Liên Xô mà
còn không đứng vững được, thì một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu
như Việt Nam chúng ta làm sao có thể đi lên CNXH được.
Một câu hỏi đặt ra: có thật là như vậy không?

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


16

Lịch sử vận động và phát triển của lịch sử Việt Nam, thực tiễn phát
triển của thế giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã bác
bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc trên, đồng thời chứng minh rằng,
nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phù hợp với
xu thế vận động tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ( bổ sung ,
pháy triển năm 2011) khẳng định: ” Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện
nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác
nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích
quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó nhăn, thách thức,
nhưng sẽ có bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới CNXH”. Trong xu thế vận động chung đó thì Việt Nam
đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chon đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế

phát triển của lịch sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để,
đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cài mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một quá
trình lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội đan xen. Điều đó được lý giải bởi những lý luận và thực tiễn sau:
Thứ nhất, trong lịch sử xã hội loại người giữa hình thái kinh tế- xã hội
cũ và hình thái kinh tế xã hội mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kì
quá độ. Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay
thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội. Song, không phải hình thái kinh tế
xã hội này kết thúc hoàn toàn rồi hình thái kinh tế xã hội sau mới ra đời.
Giữa hình thái kinh tế cũ bị thay thế và hình thái kinh tế xã hội mới thay thế
nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, một thời kì quá độ. Xây dựng
xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, một chế độ
Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


17

xã hội hoàn toàn mới về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng đòi
hỏi phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách, khó
tránh khỏi những sai lầm, thất bại tạm thời.
Thứ hai, học thuyết Mác- Lênin chứng minh rằng, loài người với tính
cách một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội. Nhưng
do đặc điểm lịch sử cụ thể về không gian và thời gian, do những điều kiện
đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không
phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các hình thái kinh tế xã hội từ
thấp đến cao theo một trình độ sơ đồ chung. Mà có những nước có thể bỏ
qua một hoặc một vài hình thái kinh tế xã hội nào đó trong tiến trình phát

triển của mình. Sự bỏ qua này đã và đang diễn ra trong lịch sử. Từ thực tiễn
lịch sử xã hội loài người có thể rút ra ba nhận xét: một là, khi vạch ra một sơ
đồ tiến hóa xã hội từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội
cao hơn là chúng ta đã trật tự hóa theo thời gian các trình độ phát triển của
nền văn minh nhân loại nằm rải rác trong không gian. Hai là, khi một hình
thái kinh tế xã hội đi đến chỗ kết thúc, thì xã hội có thể tiến lên một trong
nhiều hình thái xã hội cao hơn, chứ nhất thiết không chỉ tiến lên một hình
thái xã hội cao hơn. Ba là, loài người nói chung thì nhất thiết phải trải qua
cả 5 hình thái kinh tế xã hội, nhưng từng nước cụ thể thì không nhất thiết
phải tuần tự trải qua cả 5 hình thái kinh tế xã hội, có thể bỏ qua một hoặc
một vài hình thái kinh tế xã hội, đi tắt để tiến lên hình thái cao hơn, tùy
thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể đặc thù của từng nước. Điều đó hoàn toàn
phù hợp với quy luật khách quan.
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại
ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền
kinh tế. điều đó được quy định bởi:

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


18

Một là, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta có những điều kiện
khách quan bên ngoài và bên trong để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.
Điều kiện bên ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đạt

đến trình độ cao, đã mở đầu quá trình mới xã hội hóa trong sản xuất, tạo ra
cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện để nước ta có thể tranh
thủ vốn, kĩ thuât, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nếu chúng ta thực hiện đa phương hóa đa
dạng hóa quan hệ quốc tế. Trong điều kiên kinh tế thế giới có bước nhảy vọt
về cơ sở vật chất - kĩ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã
hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức.
Do đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp quy luật khách quan.
Bối cảnh quốc tế trên đã tạo khả năng để Việt Nam chúng ta thực hiện quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản.
Điều kiện bên trong, là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính
quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua,
đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của 25 năm đổi mới,
đất nước đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào
nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đanh đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày
càng quan trọng trong khu vực và thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết,
quyết định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là, hai xu hướng phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta và
sự lựa chọn một trong hai xu hướng đó. Sau khi giải phóng miền nam, thống
nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự

Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


19


cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế
tự nhiên lên kinh tế sản xuất hang hóa, thúc đẩy sản xuất hang hóa nhỏ phát
triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kĩ thuật, công nghệ hiện đại. Để
đáp ứng yêu cầu trên nền kinh tế nước ta có thể lựa chon một trong hai xu
hướng sau: hướng thứ nhất, để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành
nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ,
do tác động của quy luật giá trị. Nhưng theo hướng này, chủ nghĩa tư bản ra
đời, sẽ dẫn đến những hậu quả sau: chính quyền do chính nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải tốn bao xương máu mới
giành được, sẽ bị mất, và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị làm
thuê và bị bóc lột. Chính vì vậy, nước ta không thể đi theo xu hướng này
không thể phát triển theo con đường TBCN. Bản thân chủ nghĩa tư bản là
một chế độ xã hội lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải thay thế
bằng một chế độ xã hội mới, phát triển ở trình độ cao hơn, với giai đoạn đầu
là chủ nghĩa xã hội. Với sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, chính chủ
nghĩa tư bản cũng đã và đang tạo ra những tiền đề vật chất - kĩ thuật để
chuyển sang CNXH.
Xu hướng thứ hai, là thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở củng cố chính quyền nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh công- nông- trí thức để tổ chức
và huy động mọi nguồn lực của quần chúng nhân dân tiến hành công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tạo lập cơ sở vật chất- kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Con dường
này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ
cho nhân dân lao động. Những thành tựu đã đạt được sau 25 năm đổi mới đã
chứng tỏ: chọn con đường thứ hai này là đúng hướng, phù hợp với cả lợi ích
của cả dân tộc, và hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta, phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại.Bởi có lẽ, chỉ có CNXH mới đem lại cho nhân dân lao
Tiểu luận triết học


Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


20

động cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, con người mới được giải phóng
hoàn toàn. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực
tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta đến thắng lợi. Qúa trình cách
mạng do Đảng ta lãnh đạo tạo ra những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có
thể rút ngắn tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, trong
sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con đường quá
độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận
và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc
tế.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của
nước ta chứng minh rằng, quá độ lên CNXH là con đường duy nhất để nước
ta thoát khỏi ách đô hộ của thực dân đế quốc, để thực hiện thành công cách
mạng giải phóng dân tộc. Trước khi Đảng ra đời các phong trào yêu nước
chống Pháp diễn ra rất sôi nổi, tuy nhiên đều thất bại, nguyên nhân thất bại
là do sự bế tắc về đường lối chiến lược. Trong bối cảnh sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc đang lâm vào bế tắc, thì Nguyễn Ái Quốc xuất hiện,
Người đã đưa đất nước vào đúng quỹ đạo của thời đại mới. Người khẳng
định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản, chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ. Người lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội- đường lối đã đưa cách mạng Việt
Nam không ngừng phát triển đi lên, không thế lực nào ngăn cản nổi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã

tiến hành thắng lợi cuộc tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945 sau cách mạng
tháng Tám, Đảng ta và nhân dân ta thiết tha mong muốn hòa bình để xây
dựng đất nước, song bọn thực dân đế quốc đã đem quân xâm lược nước ta
Tiểu luận triết học

Nguyễn Hoàng Lan Anh . K16 – TGT


×