Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TIỂU LUẬN PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA và mục TIÊU xây DỰNG CON NGƯỜI mới XHCN TRONG điều KIỆN hội NHẬP QUỐC tế HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.84 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang bước những bước dài trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước để thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà
Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Con đường ấy, đồng chí Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm Cu Ba tháng 5/2012 đã nói “Chúng
ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ
không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người” 1
Cùng với xu thế phát triển của thời đại và những biến động của thế giới
thì việc chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam là một tất yếu.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo. Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lê Nin một cách đúng đắn, thích hợp vào điều kiện cụ thể của đất nước.
Bước chuyển mình mạnh mẽ nhất đó là việc đưa nền kinh tế từ cơ chế tập
trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường.
Những thành tựu to lớn của 30 năm đổi mới đã “tạo tiền đề, nền tảng
quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những
năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của lịch sử”2
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn những vấn đề
làm kìm hãm sự phát triển công cuộc đổi mới và việc giải quyết mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa trong giai đoàn hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng. Nó vừa
mang tính thời cuộc cấp bách, vừa cơ bản lâu dài và là vấn đề cốt lõi của sự
phát triển bền vững.
CHƯƠNG 1

1 Nguyễn Phú Trọng, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội – nhìn từ thực tiến Việt Nam, Tạp chí
Cộng sản số 835, tháng 5/2015
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, H 2016, tr. 66


1


PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ MỤC TIÊU XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
1.1 Tính tất yếu khách quan của quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó sản
xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt chẽ với quan hệ hàng hóa
- tiền tệ với quan hệ cung cầu...Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có
tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hóa. Mọi hoạt động xã
hội đều phải tính đến quan hệ hàng hóa, hay ít nhất thì cũng phải sử dụng các
quan hệ hàng hóa như mắt khâu trung gian.
Trước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nền kinh tế của nước
ta là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Trong những năm kháng chiến
chống Mỹ nền kinh tế này phát huy tác dụng bằng việc huy động sức người,
sức của, toàn dân đồng lòng tập trung cho kháng chiến. Sau năm 1975, Việt
Nam vẫn duy trì nền kinh tế chỉ huy trước đây. Do các quan hệ kinh tế lúc này
đã thay đổi nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ không còn hợp lý và dẫn đến
nhiều tiêu cực. Những hậu quả xấu xuất hiện như tài nguyên thiên nhiên bị
tàn phá, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả do sự quản lý không
có hiệu quả. Đến giữa những năm 80 thì những mâu thuẫn trong nền kinh tế
này đã đi đến đỉnh điểm. Sản xuất thua lỗ, đình đốn, lạm phát, tham nhũng
tăng nhanh, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn
đói đang rình rập.
Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã
rập khuôn một mô hình kinh tế không thích hợp và kém hiệu quả.Ta đã thực
hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn trong
điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và

đã sử dụng không có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong
khi dân số ngày một gia tăng. Thực hiện phân phối theo lao động cũng trong
2


điều kiện chưa cho phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức
vừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất
động lực của sự phát triển. Việc quản lý nền kinh tế của Nhà nước lại sử dụng
các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với
yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích
thích sự sáng tạo của người lao động. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm
trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức
bách phải đổi mới.
Đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VII,
Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách
quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý
nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng
trên mặt trận làm kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đưa ra đưa ra khái niệm
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây là bước phát triển mới
trong nhận thức tư duy lý luận của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Và từ đó đến nay, nó là vấn đề trọng tâm trong
việc hoạch định kế hoạch, đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà
nước ta.
Việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là
đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của đất nước, phù hợp với các quy luật kinh

tế và với xu thế của thời đại.
Thứ nhất, nếu vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản
phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất.
Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do đó
nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ
3


có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng nên rất khó để thúc đẩy sản
xuất phát triển, mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng
suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước
ta đang hòa nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hóa,
dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh
tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả
của các loại hàng hóa trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng
hóa quốc tế.
Thứ tư, xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển
kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hòa nhập sự cạnh
tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất. Mục đích của các chính sách,
của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của
mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất
nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức
mạnh của mỗi dân tộc. Vì vậy, chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất
yếu khách quan trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước.
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế là một tất yếu nhưng rất phức tạp và
hết sức đa dạng có nước chuyển nhanh có nước chuyển chậm. Một câu hỏi đặt
ra chuyển đổi như thế nào thì có hiệu quả.
Việc chuyển đổi này là một thay đổi cơ bản về chất từ cơ chế kinh tế cho
đến cách thức quản lý kinh tế do đó không thể thực hiện được bằng các sắc

lệnh chủ quan mà chỉ có thể thực hiện được bằng sự vận động của bản thân
nền kinh tế theo trật tự những nhân tố mới hình thành phát triển thay thế dần
các nhân tố cũ.
Cơ chế kinh tế mới chỉ chiến thắng cơ chế kinh tế cũ khi năng suất lao
động và hiệu quả kinh tế cao hơn. Cho nên, vai trò chủ đạo của nhà nước là
thúc đẩy tiến trình chuyển đổi theo hướng khách quan nhằm tạo điều kiện cho
cơ chế kinh tế mới nhanh chóng thay thế cơ chế kinh tế cũ. Mặt khác, thay thế
cơ chế cũ bằng cơ chế mới không phải là xóa bỏ sạch trơn cái cũ mà là loại bỏ
4


những mặt tiêu cực lạc hậu và giữ lại những tích cực tiến bộ còn phù hợp với
điều kiện mới.
Trong quá trình chuyển đổi xuất hiện khoảng trống giữa hai cơ chế kinh tế.
Khoảng trống nếu kéo dài rất dễ phát sinh ra các hiện tượng tiêu cực như tham ô
lãng phí chuyển sở hữu công cộng thành sở hữu cá nhân làm xuất hiện tình trạng
"tích lũy nguyên thủy". Do đó vấn đề cấp bách của việc chuyển đổi là Nhà nước
phải nhanh chóng xóa bỏ khoảng trống giữa hai cơ chế kinh tế và sớm thoát khỏi
vùng tranh tối tranh sáng, nơi mà thường xảy ra rất nhiều các hiện tượng tiêu
cực. Trong một số trường hợp Nhà nước phải đóng vai trò "bà đỡ" cho thị trường
phát triển được đồng bộ và đầy đủ hơn. Muốn làm được những việc trên chúng ta
phải xác định cho được nền kinh tế thị trường hướng tới mà Đảng, Nhà nước
mong muốn.
Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường.
Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thẻ kinh tế
tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và
kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự
do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định.
Hai là, trên thị trường hàng hóa rất phong phú. Người ta tự do mua,
bán hàng hóa. Trong đó người mua chọn người bán. Người bán tìm người

mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt
hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường
vừa là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu tác động của quan
hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị
5


trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thỏa thuận giữa người mua
và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng
hóa. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hóa, người bán luôn luôn muốn
bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người
bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp được chi phí và có doanh lợi. Có
doanh lợi càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp với lợi
ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hòa được cả lợi ích của người
mua lẫn lợi ích của người bán.
Bốn là, cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên
cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hóa độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế.
Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hóa đều
phải sản xuất kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong
điều kiện đó muốn có nhiều lợi nhuận của các đơn vị sản xuất kinh doanh phải
đua nhau cải tiến kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động
cá biệt, giảm hao phí lao động cá nhân để tăng lợi nhuận siêu ngạch.
Năm là, kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Trong cơ chế thị
trường nhà nước tác động vào nền kinh tế không bằng hệ thống pháp lệnh
mà bằng một hệ thống công cụ và luật pháp. Pháp luật có vai trò cực kỳ quan
trọng trong quản lý kinh tế, tạo ra hành lang an toàn cho các hoạt động kinh
tế từ việc xác lập quyền sở hữu tự liệu sản xuất, đến việc bỏ vốn đầu tư sản
xuất - kinh doanh và điều tiết thu nhập. Nó thiết lập một trật tự quản lý đủ
sức bao quát, điều chỉnh mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, thúc đẩy sản xuất, khắc

phục mọi tình trạng lừa đào, trốn thuế, chiếm dụng vốn, lạm dụng chức
quyền...Cùng với đó, hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế giúp Nhà
nước có thể điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp, có thể nói mỗi chính
sách là một hành lang dẫn hoạt động đầu tư mở rộng phát triển sản xuất,
hướng dẫn các doanh nghiệp hành động một cách phù hợp với lợi ích toàn xã
hội.
6


1.2. Vấn đề con người và mục tiêu xây dựng con người mới trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra đời, con người và sự phát triển con người
mới được tiếp cận, lý giải, định hướng một cách khoa học nhất. Khám phá
lớn lao của C.Mác: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hoà những quan hệ xã hội”3 đã đặt nền móng cho một quan niệm chân
chính cách mạng, khoa học trong vấn đề con người.
Từ quan niệm về sự thống nhất biện chứng giữa con người và xã hội, chủ
nghĩa Mác - Lê-nin chỉ rõ hình thái kinh tế - xã hội bao giờ cũng đặt ra các yêu
cầu vè phẩm chất người và cố gắng hiện thực hóa các yêu cầu này vào cuốc
ống. C.Mác viết: “Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tích cách là con
người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế” 4. Không có giai cấp
thống trị nào khi xây dựng, củng cố xã hội lại không cần tới những con người
phù hợp với nó. Xã hội sản xuất ra con người và con người đến lượt mình lại
sản xuất ra xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, chỉ có những con người thấm nhuần lý tưởng
giai cấp, sẵn sàng huy động những “lực lượng bản chất người” phục vụ lợi
ích giai cấp mới được thừa nhận là thành viên gia cấp. Có một sự bất cập
bao giời cũng xảy ra sau khi một giai cấp tiến hành thắng lợi một cuộc cách
mạng xã hội là giữa bề bộn các di sản của quá khứ, tình trạng của thực tại
và con đường xã hội phải đi tới, giai cấp nào cũng cố gắng xây dựng các thế

hệ kế tục có khả năng hoàn thành sự nghiệp mới. Đào tạo thế hệ kế tục
không diễn ra dễ dàng, cần có thời gian, và tất nhiên, phải luôn tỉnh táo
trước những tác động khách quan. Với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, con người lý
3 C.Mác, Ăng-ghen, Toàn tập, t.1, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.257
4 C.Mác, Bản thảo kinh tế triết học 1844, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962, tr130

7


tưởng lần đầu tiên được khẳng định một cách tự giác và cũng là lần đầu tiên
được xây dựng từ một lý tưởng chính trị - xã hội, lấy chế độ công hữu làm
nền tảng. Đây cũng là sự đối lập có tính nguyên tắc giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và các trào lưu tư tưởng khác về vấn đề con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải
có những con người xã hội chủ nghĩa”. Người khẳng định con người mới xã
hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất, là tất yếu khách quan của chủ nghĩa xã
hội. Mục đích cuối cùng là con người phát triển tự do, toàn diện và hài hoà.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình xã hội mang đầy tính nhân
đạo; giải phóng con người, đem lại cho con người bản chất chân chính để
trở thành chủ thể tích cực, tự giác của lịch sử, V.I. Lê-nin viết: “Lịch sử
không phải là cái gì khác, mà là hoạt động của con người đang theo đuổi
những mục đích của mình”5.
Con đường những người cộng sản và quần chúng lao động đi tới sẽ
hình thành nên một thời kỳ lịch sử mới của nhân loại: không còn chế độ
người bóc lột người. Lý tưởng Cộng sản cho phép hình dung về con người lý
tưởng một cách cụ thể, không ảo tưởng và ước mơ mà bao thế hệ trăn trở
đã đạt tới bước ngoặt quyết định từ tự phát đến tự giác. Con người mới xã
hội chủ nghĩa thực sự trở thành mẫu người phản ánh sâu sắc nhất, bản
chất nhất khát vọng của loài người. Con người mới xã hội chủ nghĩa được
sinh ra từ sự nghiệp của giai cấp công nhân và không ngừng được hoàn
thiện trong hoạt động thực tiễn, trải qua quá trình giáo dục rèn luyện trong

môi trường xã hội với những thuận lợi và khó khăn liên hệ chặt chẽ với tự
do và tất yếu, giữa cá nhân và xã hội.
Mô hình về con người mới xã hội chủ nghĩa phù hợp với những yêu
cầu khách quan của xã hội tương lai. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đặt chúng ta
trước nhiệm vụ phải từng bước xây dựng con người mới ngay từ hôm nay.

5 V.I.Lê-nin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ- va, 1981.t18.tr.174
8


Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vì lợi ích trăm năm trồng người” là muốn nhấn
mạnh tính chất lâu dài và ý nghĩa trọng đại của sự nghiệp đó.
Con người mới xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta định hình với những
đặc trưng cơ bản và từng bước biến nó thành hiện thực trong cuộc sống.
Đó là con người “có ý thức làm chủ, có ý thức trách nhiệm công dân; có trí
thức, sức khoẻ và lao động giỏi...
Chúng ta không thể đòi hỏi có ngay lập tức một thế hệ con người mới xã
hội chủ nghĩa. Con đường hoàn thiện con người lý tưởng là quá trình biện
chứng lâu dài, khó khăn và sẽ phải giải quyết nhiều mâu thuẫn nảy sinh. Con
người sống và hoạt động không thể đứng ngoài các mối quan hệ xã hội và
không thể không chịu những tác động từ các quan hệ xã hội. Bối cảnh chính
trị thế giới phức tạp, những khó khăn khách quan và chủ quan của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội đặc biệt là tác động đa chiều của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là những trở lực lớn
trong xây dựng con người mới.
Trong hiện thực của nền kinh tế thị trường còn tồn tại không ít vấn đề
khi giải quyết mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa hạnh phúc và
bất hạnh, giữa nhu cầu và khả năng sản xuất của xã hội, giữa bình đẳng và
bất công, giữa niềm tin và thực trạng của tồn tại, giữa giầu và nghèo. Mặt
khác, chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc dưới những

chiêu bài “nhân quyền, tự do, dân chủ” đã làm cho một số người mơ hồ, ảo
tưởng về mẫu người phương Tây, đả kích các mô hình nhân cách truyền
thống mà lẽ ra đáng phải được kế thừa và phát triển lên trình độ cao hơn.
Trong bối cảnh đó nếu không có một bản lĩnh chính trị vững vàng, một
niềm tin cộng sản vững chắc sẽ dễ ngộ nhận, xuyên tạc, hoặc bi quan trong
khi xây dựng con người.
Nềm kinh tế thị trường đã và đang xuất hiện những khả năng mới để
làm giàu có, phong phú đời sống tinh thần, tình cảm, trí thức của mọi
người. Tương lai dân tộc phục thuộc vào chất lượng từng người hôm nay.
9


Các thế hệ con người mới sau này là sự tiếp tục phát triển đạo lý con người
Việt Nam, kế thừa những nhân cách tốt đẹp của người cán bộ cách mạng
và không ngừng nâng cao trí tuệ, phong cách mới phù hợp với sự phát
triển. Chúng ta không chấp nhận một mẫu người thực dụng, ích kỷ, sống
mù quáng lấy đồng tiền làm giá trị cao nhất. Vì vậy, cần xem xét, nhận thức
đúng đắn để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa.

CHƯƠNG 2
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN THỂ CHỂ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA GẮN VỚI MỤC TIÊU XÂY DỰNG
CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY
2.1. Mối tương quan giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và mục tiêu xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường với tính hai mặt trong mục tiêu xây dựng

con người mới xã hội chủ nghĩa.
Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải
vật chất và văn hóa. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp
xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải bắt đầu
từ con người làm điểm xuất phát. Xuất phát từ sự phân tích trên, chúng ta
thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con
người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta
ra khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Trên cơ sở đó, đời sống của nhân dân
ngày càng được cải thiện và nâng cao, những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ
10


bản ngày càng được đáp ứng một cách đẩy đủ và nhanh chóng. Con người
không thể có cơ thể khỏe mạnh nếu thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu các điều kiện y
tế hiện đại để chăm sóc giữ gìn sức khỏe. Con người không thể có trí tuệ minh
mẫn, phát triển nếu các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập,
nghiên cứu khoa học.
Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân
hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy
nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị
trường được thay đổi và sôi động hơn. Đây là những kết quả đáng mừng,
đáng được phát huy. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người
mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển hoàn toàn, toàn
diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh
quyết liệt, buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt để thích nghi và

hành động có hiệu quả, từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con
người góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và trì trệ vốn có của người lao
động. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp cho con người mở
rộng các quan hệ buôn bán giao lưu. Đây hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu
hụt trong hệ giải trí của con người Việt Nam.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được kinh tế thị
trường là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người. Mà
ngược lại, còn làm tha hóa bản chất con người, biến con người thành gả nô lệ
sùng bái đồng tiền vì lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp trên nhân phẩm, văn
hóa, đạo đức... tệ nạn thương mại hóa trường học, xem nhẹ truyền thống tôn
sự trọng đạo. Làm xói mòn nhân cách và phẩm chất con người. Ngoài ra, đi
kèm với kinh tế thị trường là hàng loạt các tệ nạn xã hội để đưa đến rối loạn,
khủng hoảng cho gia đình. Nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma túy, buôn lậu,
hối lộ, tham nhũng... là những căn bệnh trầm kha không dễ khắc phục trong
11


kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là con dao hai lưỡi, nếu dùng không cẩn
thận sẽ bị đứt tay.
Kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người Xã hội chủ nghĩa là
một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay, vì nó vừa đem lại
cơ hội, vừa tạo ra những thách thức và khó khăn cần giải quyết. Kinh tế thị
trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy những nguồn lực con
người, vừa tạo ra những độc tố hủy hoại đầu độc con người. Việc giải quyết
những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản. Việc áp dụng cơ chế
thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước,
đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Các
hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng
nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hóa giáo dục nhằm
loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý coi thường các giá trị nhân

văn, phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn
hóa nghệ thuật của dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta tập trung đưa ra các
chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với những nội dung chính là:
“Tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tiếp tục nghiên
cứu để làm rõ nội dung mô hình kinh tế tổng quát, tiếp tục hoàn thiện thể chế
về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Phát
triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; Hoàn thiện thể chế
gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội trong từng chương
trình, dự án; Hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng, quy
hoạch và phân công, phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương; Đẩy
mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về
12


kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát
triển kinh tế - xã hội” 6
Đó là những nội dung trọng tâm chiến lược, duy trì sự ổn định của
đất nước, giải quyết những vướng mắc của thực tiễn hiện tại đặt ra và
làm cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ
hơn để làm sao cho những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường
ngày càng ít đi, đồng thời những thành quả của nó ngày càng ngấm sâu
vào giá trị của mỗi con người, của quần chúng nhân dân.
Phát triển kinh tế thị trường và mối tương quan với động lực phát
triển của mỗi con người và toàn xã hội
Kinh tế thị trường nước ta hiện nay chưa phải là kinh tế thị trường với
đầy đủ ý nghĩa, mà đang ở thị trường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thị

trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng
ta không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa vì chủ nghĩa tư bản không còn là
giải pháp của thời đại. Chúng ta cũng không thể đi theo con đường “chủ nghĩa
xã hội dân chủ”, theo cương lĩnh của đảng xã hội - dân chủ, vì thực chất đó chỉ
là chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh mà thôi. Thực tiễn qua 30 năm đổi mới Đảng
ta đã khẳng định “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng
bước được hình thành, phát triển”7. Nó cũng khẳng định việc hoạch định và
thực hiện đường lối đổi mới gắn liền với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa về cơ bản là đúng đắn. Song Đảng ta cũng nghiêm
khắc chỉ ra một số khuyết điểm, lệch lạc và kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở lĩnh
vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác”. Vì vậy, nếu để cho
nền kinh tế ấy vận động tự phát thì rõ ràng, sự phát triển của nó theo con
đường tư bản chủ nghĩa là điều khó tránh khỏi. Và do vậy có thể có sự tăng
trưởng về kinh tế, nhưng công bằng xã hội không những không được thực

6 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, H 2016, tr.
102,103
7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, H 2016, tr. 66

13


hiện, đói nghèo không được thủ tiêu mà còn nảy sinh và gia tăng hơn, sự chênh
lệch về thu nhập, bất công xã hội phát triển ngày càng gay gắt, sự ổn định về
chính trị xã hội khó mà giữ vững được, v.v.
Tại Hội nghị Trung ương 9 (khóa VII), đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã
nói: “Chúng ta nhất định phải tránh chủ nghĩa bình quân làm suy giảm động
lực phát triển kinh tế như trước đây từng mắc phải. Song cũng không thể
chấp nhận tình trạng mất công bằng xã hội một cách quá đáng”. Suy cho
cùng, yêu cầu ở đây là việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa phải làm sao làm cho động lực của mỗi con người và toàn xã hội
được phát huy mạnh mẽ nhất mà vẫn giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh khó khăn, phức
tạp, diễn ra thường xuyên. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường bản thân nó thường mang tính tự phát. Tính tự phát đó chính
là lực cản to lớn, lôi kéo, làm chệch hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Tính chất
gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh này lại càng trở lên quyết liệt hơn khi các thế
lực phản động, thù địch đang ráo riết thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá
cách mạng nước ta. Mục đích chủ yếu của chiến lược “diễn biến hòa bình” là làm
chệch hướng sự phát triển đất nước, đưa nước ta vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản
hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì thế, không thể xem xét việc giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ đơn thuần là cuộc đấu tranh giữa tính tự phát tự
tư bản chủ nghĩa và tính tự giác theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế, càng không phải chỉ là cuộc đấu tranh giai cấp trong phạm vi quốc gia, nội bộ
dân tộc.
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải đối phó, uốn
nắn những lệch lạc, những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, sức mạnh tự
phát lên tư bản chủ nghĩa của nó. Đồng thời phải đấu tranh chống lại các thế
lực thù địch, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của chúng. Cái khó
khăn của cuộc đấu tranh này là ở chỗ, đây là cuộc đấu tranh khó phân định
ranh giới, trận tuyến một cách rõ ràng. Nên việc giữ vững định hướng xã hội
14


chủ nghĩa là một bài toán hết sức khó khăn, phức tạp. Đó không phải chỉ là
vấn đề chiến lược mà còn là vấn đề cụ thể hằng ngày hằng giờ trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.

Chủ thể của cuộc đấu tranh này chính là giá trị


của những con người mới xã hội chủ nghĩa. Và yêu cầu nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phải tạo nên những động lực, đem lại những giá
trị đích thực của chủ nghĩa xã hội cho con người. Khi đó chúng ta mới tìm được
mẫu số chúng của việc định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị
trường với mục tiêu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Như chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người được ăn no, mặc
ấm, sung sướng và tự do. Nhưng nếu tách riêng một mình mà ngồi ăn no, mặc
ấm, người khác thì mặc kệ, thế là không tốt… chủ nghĩa xã hội là làm cho dân
giàu, nước mạnh… Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm
không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con. Thế ta đã
đến đấy chưa? “Chưa đến”, chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải
làm dần dần" chủ nghĩa xã hội là "một xã hội không có chế độ người bóc lột
người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao
động, ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, không làm không
hưởng…"8. Kinh tế thị trường chính là để mang cái “chưa đến” thành cái “sẽ
đến” cho con người trong chế độ ta đang xây dựng.
Phát triển kinh tế thị trường với các mục tiêu tiến bộ, bình đẳng và dân
chủ xã hội chủ nghĩa
Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã
hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã
hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế
đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng
chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ
đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và
8 Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội. 2000, tr. 13,17,59,271

15


công bằng xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy

theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải
hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi
đôi với xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công, những người có
hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sự
phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đó, Đảng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong
chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo
và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một
trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng
gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội,
thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn,
dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội, khác hẳn về chất so với các xã
hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó
cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng
xã hội. Chúng ta xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nhưng
trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mà ở đó mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và
lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách pháp luật và hoạt động của Nhà
nước đều vì lợi ích của nhân dân. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng
16


quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài
của cách mạng Việt Nam.

Không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên
minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người
tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ trực tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã
hội.

2.2. Phương hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội,
tồn tại bên cạnh các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế giáo dục…
Thể chế kinh tế nói chung là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều
chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ
kinh tế. Nó bao gồm các yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn
mực về kinh tế gắn với các chế tài về xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ
17


quan quản lý nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh
doanh, cơ chế vận hành nền kinh tế.
Nội dung cốt lõi và thực chất của thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là: Phát triển nền kinh tế hàng hoá dựa trên sự đa dạng các
hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế, trong đó sở hữu công hữu xã hội
chủ nghĩa giữ vai trò nền tảng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế. Các thành
phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, cạnh tranh và hợp tác với nhau; Hình
thành đồng bộ và vận hành thông suốt, có hiệu quả hệ thống các thị trường
trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; Phân phối theo lao động
và hiệu quả sản xuất kinh doanh là chính, đồng thời áp dụng các hình thức

phân phối khác, coi trọng hiệu quả kinh tế, đồng thời đảm bảo tiến bộ và công
bằng xã hội trong phân phối và phân phối lại. Có một hệ thống bảo hiểm và an
sinh xã hội theo hướng từng bước thực hiện chế độ bảo hiểm cho mọi người
lao động, mọi tầng lớp nhân dân, quan tâm hỗ trợ những người nghèo và yếu
thế, những đối tượng được hưởng chính sách xã hội.
Chính phủ điều hành kinh tế vĩ mô trên cơ sở tôn trọng sự tác động
khách quan của thị trường và cơ chế thị trường, tạo các điều kiện thuận lợi
cho các chủ thể kinh tế hoạt động.
Có hệ thống pháp luật thích ứng và thúc đẩy sự vận hành có hiệu quả
thể chế kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại hội thảo “Cải cách kinh tế vì tăng trưởng bao trùm và bền vững”
ngày 24/3/2014 Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã nói rõ: Hai nội dung cải
cách cốt lõi của Việt Nam hiện nay là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập
trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường và chuyển từ nền kinh tế khép kín
sang nền kinh tế mở và chủ động hội nhập quốc tế. Trong đó, nhiệm vụ trọng
tâm là đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng,
coi chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu. Đồng thời

18


phát huy tối đa nhân tố con người, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân.

Vì thế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam cần phải luôn gắn với việc thực hiện các mục tiêu xây dựng
con người mới, thực hiện quyền con người và có làm được như vậy thì thể chế
đó mới phát huy được tối đa nguồn lực từ chính con người mà nó đang tác
động. 2.2.1. Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển
tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường
không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn đổi mới ở nước ta đã
chứng minh đầy sức thuyết phục về việc sử dụng kinh tế thị trường làm
phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận
hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để
sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Khuyến khích làm giàu hợp
pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; từng bước làm cho mọi thành viên xã hội
đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi
đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường..., giải quyết tốt
các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Phát huy quyền làm chủ xã
hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một
nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi
phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính
định hướng xã hội chủ nghĩa.
19


2.2.2. Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế,
các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng khẳng định sự tồn tại khách
quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu,
các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của

các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật
pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới, như trí tuệ, cổ phiếu, trái
phiếu, tài nguyên nước, khoáng sản..ở đây chúng ta luôn nhận thức sâu
sắc về việc đa dạng các hình thức sở hữu và mục đích chung của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ tư hữu với tư cách là chế độ áp
bức bóc lột con người. việc đa dạng các hình thức sở hữu chính là tạo điều
kiện để mỗi con người vươn tới giá trị của chính bản thân mình về mặt
hưởng thụ.
Hoàn thiện thể chế, quy định rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và
những người liên quan đối với các loại tài sản (trí tuệ, tài sản vật chất, tài sản
cổ phiếu, tài sản nợ); bảo hộ các quyền lợi hợp pháp. Ðồng thời, quy định rõ
trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu và những người liên quan đối với xã hội.
Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân
phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Các nguồn lực xã hội được phân bổ theo cơ chế thị trường và theo chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước bảo đảm đạt hiệu quả
kinh tế - xã hội cao. Tập trung vốn đầu tư nhà nước phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công quan trọng, một số ngành sản xuất thiết
yếu, then chốt, đóng vai trò chủ đạo và lĩnh vực mà tư nhân không thể hoặc
chưa thể đảm đương được; quan tâm đến các vùng, đối tượng còn nhiều

20


khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng,
các địa phương.
Thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện
kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu,
thành phần kinh tế; khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân

trong và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; tạo điều
kiện để các doanh nghiệp của tư nhân tiếp cận các nguồn lực của Nhà
nước trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng. Khuyến khích các doanh
nghiệp tư nhân liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhà nước, bán cổ
phần cho người lao động tại doanh nghiệp. Ðồng thời, tăng cường và
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân để các doanh
nghiệp tư nhân tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, cơ chế, chính
sách của Nhà nước.
2.2.3. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi
trường
Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách khuyến khích làm giàu đi
đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, vươn lên no ấm, đặc biệt là ở các
vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc và căn cứ cách mạng trước đây.
Chính sách giảm nghèo không chỉ nhằm mục tiêu ổn định mà còn tạo động
lực cho sự phát triển. Tạo điều kiện để mọi công dân nắm bắt được cơ hội
làm ăn, nâng cao thu nhập và đời sống, được hưởng thành quả chung của
phát triển. Tập trung đầu tư phát triển kinh tế, xã hội ở một số vùng trọng
điểm có tỷ lệ hộ nghèo cao; phấn đấu từng bước thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo giữa các đối tượng, các vùng, không để chênh lệch này trở thành
vấn đề xã hội bức xúc. Ðưa mục tiêu giảm nghèo vào nội dung chiến lược,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, của từng địa
phương. Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng xã hội cho
21


người nghèo, giúp người nghèo giảm bớt khó khăn, vươn lên thoát nghèo,
đồng thời khắc phục tư tưởng ỷ lại, bao cấp, trông chờ vào Nhà nước.
Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với
yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng các

hình thức bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện; bổ sung, sửa đổi các
chế độ bảo hiểm xã hội còn bất hợp lý, bảo đảm quyền lợi của người tham
gia bảo hiểm xã hội; tách bảo hiểm xã hội đối với khu vực hành chính nhà
nước ra khỏi khu vực doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các lĩnh vực khác.
Ðiều chỉnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội theo cơ chế tạo nguồn,
độc lập tương đối với chính sách tiền lương, giảm dần phần hỗ trợ từ
ngân sách nhà nước; từng bước cải thiện đời sống của người về hưu theo
trình độ phát triển của nền kinh tế.
Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt
động không vì mục tiêu lợi nhuận để chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội
dựa vào cộng đồng theo tinh thần xã hội hóa với sự hỗ trợ một phần của
Nhà nước, bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định,
hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng, tự vươn lên. Tạo cơ hội cho các đối
tượng bảo trợ xã hội, trước hết là người còn khả năng lao động, tiếp cận
nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu, cơ hội giáo dục, đào tạo, dạy
nghề, việc làm, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, văn hóa, thể thao. Sửa đổi, bổ
sung chế độ trợ cấp xã hội dựa trên cơ sở tăng mức sống tối thiểu của
toàn xã hội. Thực hiện các chương trình mục tiêu hướng ưu tiên vào đối
tượng bảo trợ xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường, giám
sát chặt chẽ việc thực hiện; phòng ngừa, ngăn chặn, không để phát sinh
thêm các ô nhiễm mới, xử lý triệt để những điểm ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng; có chế tài đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm. Bảo vệ
môi trường phải được coi trọng ngay từ đầu và trong suốt quá trình xây
dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
22


hội, của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Có kế hoạch phòng
tránh, khắc phục hậu quả thiên tai; xây dựng kế hoạch ứng phó và giảm

nhẹ tác động tiêu cực do sự biến đổi khí hậu.
2.2.4. Hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia
của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và
của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Mục đích chính là để cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh
tế thị trường đi đúng hướng, trong đó vai trò của Đảng luôn là vấn đề cốt
yếu, Ðảng tăng cường chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để
xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn mô hình kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, nhất là những nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường. Coi trọng đổi mới tư duy, công tác tuyên truyền,
giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thống
nhất nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự
đồng thuận cao trong xã hội. Bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối,
các chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội của Ðảng;
lãnh đạo quá trình tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ðổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đặc biệt là
cán bộ trong lĩnh vực xây dựng và thực thi thể chế kinh tế. Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp phù hợp với yêu cầu phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ðổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước
phù hợp với những yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn
hiện nay. Vận dụng và phát huy mặt tích cực, hạn chế, ngăn ngừa mặt trái
của cơ chế thị trường và tiếp tục tạo ra những tiền đề, điều kiện để nền
kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðổi mới mạnh mẽ
23



hơn phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước. Coi trọng và làm tốt công
tác xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, định hướng kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, sử dụng có hiệu quả các công cụ quản lý, điều tiết vĩ
mô, bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát; phát
triển lành mạnh của các thị trường tài chính, tiền tệ, chứng khoán, bảo
hiểm; ngăn ngừa và xử lý kịp thời những biến động xấu đối với ổn định
kinh tế vĩ mô; phát triển các lĩnh vực xã hội, gắn thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường; tiếp tục đẩy mạnh
cải cách tư pháp; giữ vững an ninh, quốc phòng, ổn định chính trị - xã hội
cho sự phát triển đất nước. Chuyển giao những công việc Nhà nước không
nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội; tinh giản bộ máy nhà nước, tập
trung nguồn lực vào một số lĩnh vực quan trọng nhất trong phát triển
kinh tế, xã hội.
Nâng cao vai trò của các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân trong phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện
luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để các tổ chức dân cử, tổ chức
chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân tham gia có
hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi và giám sát thực hiện luật
pháp, các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

KẾT LUẬN
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một vấn đề phức tạp cả về lý luận lẫn thực tiễn và chưa có tiền lệ trong
lịch sử. Kinh tế thị trường chỉ xuất hiện và phát triển khi lực lượng sản
xuất đã phát triển tới trình độ cho phép đạt được khối lượng lao động
24


thặng dư và tương ứng với nó là khối lượng sản phẩm thặng dư ngày càng

nhiều. Do đó, ở nước ta hiện nay, muốn xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo lập cơ sở vật chất – kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội. Còn nếu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước cốt để khai thác được nhiều tài nguyên thiên nhiên, khoáng
sản và sức lực của người lao động nhằm thu lợi nhuận tối đa, bất chấp hậu
quả về xã hội và môi trường là đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là sản phẩm của tiến bộ nhân loại, nó do sự phát
triển của đời sống sản xuất xã hội, từ chính con người xã hội mà ra. Sự phát
triển của nó có bền vững hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào những giá
trị mà nó tạo ra cho con người. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải luôn gắn với mục tiêu xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa. Vì đó là bản chất, là tính ưu việt của chế độ ta
đang xây dựng, tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII,
IX, X), Nxb Chính trị quốc gia, H. 2010
2. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc
gia, H. 2011
3. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc
gia, H. 2016
4. HVCT, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học tập 1, 2, Nxb QĐND, H.2008
25


×