Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

TỔNG hợp các NGHIÊN cứu về GIAI cấp CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.57 KB, 127 trang )

GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ SUY NGẪM
Trương Giang Long
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về tổ chức, giỏi về chuyên môn, vững
vàng về bản lĩnh chính trị, đủ sức làm chủ quá trình đổi mới, chủ động và tích
cực hội nhập trong xu thế toàn cầu hóa là trách nhiệm của toàn Đảng và cả hệ
thống chính trị. Giai cấp công nhân Việt Nam chính là nền tảng và là cơ sở
chính trị - xã hội vững chắc của Đảng. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh
trong điều kiện hiện nay về thực chất là góp phần quan trọng vào quá trình xây
dựng Đảng.
Hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng
và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân.
Nhờ đó, giai cấp công nhân Việt Nam đã có bước phát triển lớn mạnh, trưởng thành
về chất và có những đóng góp to lớn vào quá trình đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh mặt
tích cực, giai cấp công nhân nước ta đang phải đối mặt với không ít thách thức,
những con số khảo sát dưới đây thực sự là những vấn đề rất đáng để chúng ta suy
ngẫm.
1 - Chất lượng nguồn nhân lực - thách thức của quá trình phát triển.
Cùng với sự tăng trưởng nhanh của dòng vốn đầu tư nước ngoài và xu thế phát
triển của các doanh nghiệp trong nước, đội ngũ công nhân nước ta đang bộc lộ dấu
hiệu hụt hẫng và bất cập. Tình trạng thiếu hụt lao động có tay nghề cao và các chức
danh quản lý có trình độ đang là hiện thực. Số liệu khảo sát tại tỉnh Đồng Nai cho
thấy, 72,55% công nhân lao động trong các doanh nghiệp có độ tuổi từ 18 - 35. Tuyệt
đại bộ phận đều là học sinh phổ thông và xuất thân từ nông thôn, trong đó lao động
phổ thông chiếm đến 43%; 27% có tay nghề đáp ứng được yêu cầu của công việc
đang đảm nhận nhưng đại đa số chưa qua đào tạo và không có bằng cấp. Số đã qua
đào tạo có bằng cấp chỉ chiếm 30%, trong số đã được đào tạo, tỷ lệ có tay nghề cao
cũng rất ít[1]. Bậc 1- 3 chiếm tỷ lệ 66,51%, bậc 4 - 5 chiếm tỷ lệ 25,01%, bậc 6 và 7
chiếm chỉ có 6,88%. Không cần phải cảnh báo, với tốc độ thu hút FDI và xu thế phát
triển như 2 năm gần đây (2006 - 2007), vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề
sẽ càng trở nên trầm trọng. Giai cấp công nhân nước ta không những bất cập so với
yêu cầu phát triển chung của thời đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu phát


triển của bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
2 - Vấn đề ý thức giai cấp và phẩm chất chính trị của đội ngũ công nhân.
Chúng ta không phủ định mặt tích cực và những đóng góp chung to lớn của đội
ngũ giai cấp công nhân nước ta, bởi họ là lực lượng đang vận hành những cơ sở vật
chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng
phát triển chủ yếu của nền kinh tế, nhưng trước mặt trái của cơ chế thị trường và diễn
biến phức tạp của tình hình thế giới, nhiều công nhân lao động có biểu hiện phai nhạt
về chính trị, một bộ phận chỉ lo lắng nhiều đến những vấn đề thiết thực trước mắt, ít
quan tâm đến những vấn đề lâu dài có tính chiến lược như định hướng xã hội chủ
nghĩa, vai trò vị trí của giai cấp công nhân...


Khảo sát tại Đồng Nai cho thấy: 95% công nhân trả lời chỉ quan tâm đến việc làm
và thu nhập, có 40% công nhân được hỏi có quan tâm tới vấn đề định hướng xã hội
chủ nghĩa, 3,5% công nhân không trả lời. Tỷ lệ công nhân là đảng viên rất thấp, năm
2003 là 7,69%, năm 2004 là 8,18%, năm 2005 là 6,87%. Tổ chức đảng được đánh giá
là hoạt động tốt chỉ chiếm 35,7%, Công đoàn 45,5%, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh chỉ có 24,6%, Hội Cựu chiến binh 5,9%. Cũng theo số liệu khảo sát tại 13
doanh nghiệp khác nhau với 5.400 công nhân, cho thấy chỉ có 38,2% công nhân
thường xuyên được học tập các nghị quyết của Đảng. Trong đó doanh nghiệp nhà
nước có tỷ lệ 51,9%, doanh nghiệp liên doanh 40%, công ty cổ phần 37,5%, công ty
tư nhân 32,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có 24,9%[2]. Bản thân
công nhân cũng không thường xuyên cập nhật thông tin. Khảo sát 100 công nhân
Công ty Giầy Thái Bình về WTO chỉ có 10% trả lời có nghe nói về WTO nhưng
không hiểu WTO là gì[3].
Rõ ràng, nếu bản thân người công nhân chưa giác ngộ về mục tiêu lý tưởng, non
yếu về bản lĩnh chính trị cộng với trách nhiệm của các cấp và công tác đào tạo chăm
lo như hiện nay, thì sẽ rất khó vượt qua được áp lực của toàn cầu hóa và hội nhập.
3 - Cường độ lao động, việc làm, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần đang
xuất hiện nhiều vấn đề nghịch lý.

Nước ta hiện đang thuộc nhóm quốc gia có số lượng lao động thất nghiệp cao,
nhiều công nhân thiếu việc làm. Tuy thiếu việc làm nhưng nhìn chung cường độ làm
việc của công nhân tại các doanh nghiệp lại rất căng. Hầu hết các doanh nghiệp đều
tăng ca để bảo đảm kế hoạch và tăng doanh thu. Điều đáng nói là Luật Lao động quy
định công nhân làm việc không quá 200h/người/năm, nhưng trong nhiều doanh
nghiệp công nhân đã phải làm việc bình quân tới 500 - 600h/người/năm[4].
Ở khía cạnh đời sống, tuy người công nhân vẫn đang chấp nhận được với mức
lương hiện nay, nhưng không phải lĩnh vực này không có vấn đề. Tại Thành phố Hồ
Chí Minh, trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước, thu nhập của khối cán bộ,
công chức hành chính, giáo dục bình quân 1.300.000đ/người/tháng; khối doanh
nghiệp nhà nước 1.425.000đ/người/tháng; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1.400.000đ/người/tháng; khối văn phòng và công nhân kỹ thuật cao
4.000.000đ/người/tháng.
Doanh
nghiệp
ngoài
quốc
doanh
1.150.000đ/người/tháng[5]. Ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu...
cũng có những số liệu không mấy cách biệt.
Không ít các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt siêu lợi nhuận, nhưng
công nhân Việt Nam vẫn chỉ nhận được những đồng lương rất ít ỏi. Như vậy, nếu so
với đóng góp chung và với cường độ lao động hiện nay, cộng với sự tăng lên của giá
cả và các loại dịch vụ, đời sống của công nhân lao động trực tiếp sản xuất vẫn còn rất
nhiều khó khăn.
Đời sống vật chất là như vậy, điều kiện làm việc về tinh thần còn đáng lo ngại
hơn thế nhiều. Phải khẳng định nhiều doanh nghiệp chưa thực sự chăm lo đời sống
vật chất và tinh thần cho công nhân tương xứng với quan điểm, chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng. Số lượng các khu công nghiệp gia tăng rất nhanh, nhưng
đến nay chỉ có khoảng 2% công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất được thuê



nhà ở do các doanh nghiệp xây dựng. Tuyệt đại bộ phận còn lại phải tự lo thuê lấy
nhà ở trong những điều kiện chật chội, thiếu thốn, không đủ tiện nghi sinh hoạt và
điều kiện an sinh tối thiểu về văn hóa, thẩm mỹ và môi trường sống. Còn ở tại các
doanh nghiệp, điều kiện làm việc cũng không như mong muốn. Do đa phần công
nghệ thiết bị ở nước ta thuộc thế hệ cũ, người lao động phải làm việc trong môi
trường ô nhiễm như nóng, bụi, tiếng ồn, độ rung... vượt tiêu chuẩn quy định. Điều
kiện làm việc không bảo đảm đã tác động xấu đến sức khỏe công nhân lao động, hậu
quả là bệnh nghề nghiệp gia tăng và diễn biến phức tạp. Tuổi nghề của người công
nhân đang có khuynh hướng rút ngắn đáng kể. Theo thống kê của ngành bảo hiểm
Thành phố Hồ Chí Minh, mười tháng đầu năm 2006 có 58.000 người nộp đơn xin trợ
cấp 1 lần để được nghỉ việc vì không đủ sức khỏe làm việc đến lúc được hưởng chế
độ hưu trí.
Ở hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có công trình và những điều
kiện bảo đảm sinh hoạt văn hóa tối thiểu cho công nhân. Theo một kết quả điều tra xã
hội học tại Bình Dương có đến 71,8% công nhân không hề đến rạp chiếu phim,
88,2% không đi xem ca nhạc, 84,7% không đi xem thi đấu thể thao, 95,3% chưa từng
đến sinh hoạt tại các câu lạc bộ, 91,8% không bao giờ đến các nhà văn hóa tham gia
các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa tinh thần, 89% giải trí bằng ti-vi, 82,4% bằng
nghe đài, chỉ có 1,2% sử dụng In-tơ-nét. Nguyên nhân của tình hình trên đều do công
nhân không có đủ thời gian và bản thân các khu công nghiệp cũng không có đủ cơ sở
vật chất để đáp ứng.
Thực trạng trên đây đã dồn nén làm bùng nổ các cuộc đình công lan rộng và rất
khó kiểm soát như hiện nay. Nếu từ 1995 đến 2005 tất cả các khu công nghiệp, khu
chế xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh có 437 vụ đình công (bình quân 40 vụ/năm),
riêng 6 tháng đầu năm 2006 đã có 303 vụ. Có những vụ số lượng tham gia đến hàng
nghìn người, nhiều vụ kéo dài từ 1 - 2 ngày[6]. Xu hướng cho thấy các cuộc đình
công tự phát ngày càng gia tăng và lan rộng, tính chất gay gắt, phức tạp khó lường.
Đình công trở thành hiện tượng phổ biến ở tất cả các thành phần kinh tế, trong đó

doanh nghiệp nhà nước là 6,9%, doanh nghiệp tư nhân 30%, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao nhất 66,5%[7]. Nguyên nhân của các cuộc đình
công phần lớn đều xuất phát từ phía người sử dụng lao động không thực hiện đúng,
đầy đủ các quy định của pháp luật: Không trả lương đúng bảng lương đã đăng ký, tự
ý thay đổi định mức lao động, sa thải công nhân vô cớ, hà khắc trong quản lý điều
hành, điều kiện lao động không bảo đảm vệ sinh tối thiểu, tiền phụ cấp độc hại thấp,
không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy đủ cho công nhân... Đáng nói hơn cả
là tỷ lệ ký kết các hợp đồng lao động với công nhân rất thấp. Nếu có ký chủ yếu cũng
chỉ là các hợp đồng ngắn hạn. Hiện nay mới chỉ có 21% doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho công nhân, 69% còn lại chưa được
bảo đảm về những quyền lợi tối thiểu[8].
4 - Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong phong trào công nhân.
Cùng với sự nghiệp đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có sự trưởng thành
vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, chưa bao giờ chúng ta có lực lượng công nhân
đông đảo như hiện nay. Tính đến cuối năm 2005, tổng số công nhân lao động làm


việc trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã lên đến 11,3 triệu
người. Trong đó doanh nghiệp nhà nước là 1,84 triệu, công nhân trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước 2,95 triệu, tăng 6,86 lần; 1,3 triệu công nhân làm việc trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,3 lần; doanh nghiệp cá thể 5,29
triệu, tăng 1,63 lần so với 1995[9].
Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%,
ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các
cơ sở kinh tế cá thể công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và thương
mại chiếm 66,67%; 33,33% còn lại làm việc trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp[10].
Các số liệu trên đây cho thấy, đội ngũ và cơ cấu giai cấp công nhân tăng nhanh,
nhưng công tác phát triển đảng và vai trò của Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên
hiệp thanh niên trong công nhân chưa tương xứng, thậm chí rất mờ nhạt.

Nói giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nhưng nhiều công nhân
chưa muốn vào Đảng. Công tác phát triển đảng trong công nhân rất chậm, không có
mục tiêu, kế hoạch và định hướng chiến lược cụ thể. Ở hầu hết các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân đều không muốn hoặc không quan tâm
đến việc xây dựng các tổ chức đảng. Những nơi có tổ chức đảng thì lúng túng trong
công tác tổ chức và phương thức hoạt động, chất lượng đảng viên, hiệu quả hoạt động
của các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp loại hình này đa phần là yếu kém.
Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên trong phong trào công nhân cũng đang
nổi lên nhiều vấn đề bức xúc. Đoàn, hội là lực lượng xung kích và là trường học giáo
dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên công nhân, nhưng nhiều năm qua, tổ chức
đoàn, hội cũng chưa có bước chuyển thích hợp. Hình thức tổ chức và tập hợp thanh
niên công nhân của đoàn, hội chưa thực sự hấp dẫn, chưa phù hợp với cuộc sống và
nhu cầu của tuổi trẻ trước những đổi thay phong phú, đa dạng của đời sống thực tiễn.
Nhiều cuộc đình công, bãi công tự phát liên tiếp diễn ra trong các doanh nghiệp thời
gian qua chưa thấy rõ vai trò của tổ chức Đoàn và Hội Liên hiệp thanh niên công
nhân. Nếu đoàn và hội không là người đi tiên phong bảo vệ lợi ích chính đáng của
đoàn viên, hội viên, không là chỗ dựa vững chắc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần,
là nơi gửi gắm tình cảm, niềm tin, đoàn và hội sẽ không tập hợp và tổ chức được
thanh niên.
Tổ chức công đoàn cũng đang đặt ra nhiều vấn đề. Theo báo cáo của các nhà
khoa học, từ năm 1995 - 2006 đã có 700 cuộc đình công diễn ra ở các doanh nghiệp
không có tổ chức công đoàn. Chúng ta không phủ định thời gian qua tổ chức công
đoàn đã làm được rất nhiều việc. Nhờ có các tổ chức công đoàn đời sống và quyền lợi
của công nhân được bảo đảm và nâng lên rõ rệt. Nhưng phải thẳng thắn thừa nhận,
hoạt động công đoàn đang đứng trước những thách thức rất lớn, nhất là tổ chức công
đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân và các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn 20 năm, gần như hoạt động của các tổ chức
công đoàn vẫn mang nặng đặc trưng chung của thời bao cấp. Bệnh hình thức chủ
nghĩa vẫn là phổ biến. Nhiều tổ chức công đoàn chưa thực sự đứng về phía những
người lao động, bởi cán bộ công đoàn do doanh nghiệp trả lương, làm việc không



chuyên trách dưới sự quản lý, lãnh đạo trực tiếp của chủ doanh nghiệp. Các cuộc đình
công, bãi công thời gian qua, ngoài những nguyên nhân khách quan, còn có một
nguyên nhân thực tế khác, đó là sự yếu kém của các tổ chức công đoàn. Hàng loạt các
vấn đề bức xúc nảy sinh giữa giới chủ và công nhân không được các tổ chức công
đoàn phát hiện hòa giải kịp thời. Nhiều vụ việc công nhân bị ngược đãi, trù dập
không có nhiều tổ chức công đoàn lên tiếng bênh vực, bảo vệ. Tổ chức công đoàn
đang có dấu hiệu thoát ly khỏi phong trào công nhân, không gắn và chưa thực sự đại
diện cho lợi ích chính đáng của công nhân. Chúng ta đang thực sự thiếu một cơ chế
chính sách đủ tầm cho hoạt động công đoàn. Đã đến lúc cần một cuộc cải biến thực
sự mang tính cách mạng trong hoạt động công đoàn, trong đó đặc biệt chú trọng đến
công tác đào tạo cán bộ công đoàn chuyên trách. Xem việc thành lập tổ chức công
đoàn là điều kiện bắt buộc đối với các nhà đầu tư, xây dựng tổ chức công đoàn thực
sự là tổ chức chính trị của giai cấp công nhân.
Từ thực tiễn và các vấn đề nêu trên, xin có một số kiến nghị đề xuất.
Một là: Cần định hướng lại mục tiêu của giáo dục cho sát với yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực thích ứng
với mục tiêu phát triển cụ thể của từng giai đoạn. Thực hiện nhất quán chủ trương xã
hội hóa giáo dục, trong đó Nhà nước và các tổ chức xã hội có nhiệm vụ đào tạo cơ
bản ban đầu, các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng công nhân phải có trách nhiệm đào
tạo nâng cao tay nghề, cập nhật kiến thức chuyên môn, tiêu chuẩn hóa chức danh
nghề nghiệp trong mỗi doanh nghiệp.
Quan tâm đến đội ngũ giai cấp công nhân hiện nay là phải quan tâm đến trình độ
văn hóa, năng lực chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp và ý thức chính trị của họ.
Xây dựng giai cấp công nhân phải thể hiện trước hết ở việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng
nâng cao tay nghề và trình độ chuyên môn. Cần xem việc đào tạo nghề nghiệp, nâng
cao trình độ chuyên môn là một trong những chỉ tiêu pháp lệnh như mọi chỉ tiêu phát
triển kinh tế - xã hội khác. Một thế hệ công nhân mới giỏi về chuyên môn, vững vàng
về ý thức chính trị, tự họ sẽ vươn lên làm chủ và đủ sức đối đầu với mọi thách thức.

Nâng tầm trí tuệ, năng lực chuyên môn và ý thức chính trị cho đội ngũ giai cấp công
nhân, chính là nhân tố góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị, củng cố vững chắc cơ
sở chính trị - xã hội của Đảng trong thời kỳ mới.
Hai là: Phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố các đoàn thể quần chúng là
nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với phong trào công nhân hiện nay. Để làm được
điều này chúng ta phải thẳng thắn trả lời một câu hỏi lớn. Vì sao Đảng của giai cấp
công nhân, Công đoàn của công nhân, Đoàn Thanh niên là tổ chức chính trị của tuổi
trẻ công nhân, nhưng một bộ phận công nhân chưa thiết tha vào Đảng vào Đoàn,
chưa hoàn toàn xem công đoàn là tổ chức của họ. Thực tế cho thấy công tác xây dựng
Đảng và tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sự
nghiệp đổi mới. Một mặt do áp lực của những điều kiện khách quan, mặt khác bản
thân các tổ chức đảng, công đoàn cũng bộc lộ những bất cập yếu kém, tự thân không
theo kịp yêu cầu của sự phát triển, nhưng không có những chấn chỉnh kịp thời. Đã
đến lúc không chỉ dừng lại ở những chỉ thị nghị quyết mà nên có những văn bản pháp
luật thể chế rõ chỉ thị nghị quyết thành những quy định cụ thể. Đảng ta là Đảng cầm


quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên phải được hình
thành trong từng doanh nghiệp bất kỳ thuộc thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên hoạt
động của các tổ chức trên đây phải góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển, sản
xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi khác
của người công nhân phải được bảo đảm tốt hơn. Các chủ trương đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải được thực thi và chấp hành nghiêm túc.
Ba là: Phải thực sự chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần của công nhân. Ký
các hợp đồng lao động với công nhân phải được xem là tiêu chuẩn bắt buộc đối với
các chủ doanh nghiệp. Ngoài hợp đồng lao động cần chú trọng thanh kiểm tra điều
kiện làm việc và cường độ lao động, không để và không cho phép chủ lao động ép
công nhân làm việc vượt quá mức về cường độ, thời gian làm việc. Vấn đề này cần
phải sớm được pháp luật quy định cụ thể. Quan tâm thích đáng đến đời sống tinh
thần, hình thành những tiêu chí có tính pháp quy về ăn ở, nơi vui chơi giải trí, các tiện

ích văn hóa công, chế độ nghỉ dưỡng, thưởng thức các chương trình văn hóa nghệ
thuật ở trong từng doanh nghiệp, ở mỗi cụm dân cư và các khu công nghiệp tập trung.
Khuyến khích động viên và khen thưởng, cổ vũ mạnh mẽ các doanh nghiệp làm tốt,
phê bình và xử lý thích đáng các đơn vị cố tình không làm tốt, hoặc làm có tính chất
đối phó, chiếu lệ... Sự thiếu thốn và nghèo nàn về đời sống văn hóa tinh thần sẽ làm
cho đại bộ phận lao động trẻ sống và làm việc trong môi trường không có cảm hứng
sáng tạo, tính tích cực xã hội không có điều kiện phát huy, lao động chắc chắn sẽ
không đem lại hiệu quả mong muốn, thiệt thòi trước hết cho chính các doanh nghiệp.
Tóm lại, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là sự nghiệp cách mạng lâu dài
khó khăn và đầy thách thức. Chúng ta không thể nói giữ vững và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân một khi giai cấp không hoàn thành được những trọng trách và
những nhiệm vụ kinh tế - xã hội cụ thể do sự nghiệp đổi mới đang đặt ra. Vì thế phải
bằng sự nhạy cảm và bản lĩnh chính trị kiên định, Đảng ra sức phấn đấu làm cho giai
cấp công nhân, bằng lao động sáng tạo của mình, tạo ra sự giàu có và phát triển ổn
định cho đất nước. Chuẩn bị cho họ những điều kiện để thông qua những đóng góp
cống hiến của mình, giai cấp công nhân được xã hội trân trọng, tôn vinh. Nhờ đó mà
phát triển đội ngũ về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, vươn lên trở thành giai cấp công nhân trí
thức, lực lượng trụ cột của Đảng và của toàn xã hội.
[1] Báo cáo của Ban Tuyên giáo tỉnh Đồng Nai, năm 2006
[2] Báo cáo của Ban Tuyên giáo tỉnh Đồng Nai, năm 2006
[3] Tạp chí Cộng sản, Chuyên đề cơ sở số 8/2007, tr 42
[4] Báo cáo của Viện Công nhân và Công đoàn Việt Nam, 2006
[5] Báo cáo của Liên đoàn Lao động TP.Hồ Chí Minh, năm 2006
[6] Số liệu của Viện Nghiên cứu Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006
[7] Xem tài liệu Hội thảo khoa học về Nâng cao đời sống văn hóa - tinh thần cho
công nhân các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Bình Dương, năm 2006
[8], [9] Số liệu Viện nghiên cứu công nhân - Công đoàn Việt Nam, năm 2006
[10] Số liệu Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây dựng. Tổng Cục thống kê 2006



MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG
NHÂN TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA
Nguyễn Linh Khiếu
Để thiết thực xây dựng và phát triển giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu cấp
bách của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ở
nước ta hiện nay, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền và giáo dục về sứ mệnh, vai
trò của giai cấp công nhân; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của công
nhân; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã
hội trong các doanh nghiệp, đồng thời, đổi mới phương thức hoạt động của các
tổ chức này phù hợp với tình hình mới.
Ở nước ta, giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên
phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam. Quá trình đổi mới mạnh mẽ theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo ra những cơ hội
mới cho sự phát triển giai cấp công nhân Việt Nam. Việc cấu trúc lại nền kinh tế, sắp
xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, thu hút đầu tư của nước ngoài, thành lập
doanh nghiệp mới của các thành phần kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và lao
động, nhập - chuyển giao kỹ thuật công nghệ cao, phát triển kết cấu hạ tầng, xây
dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất..., đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng
động với tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời tạo ra hàng triệu việc làm mới cho các lao
động công nghiệp. Quá trình này đã đưa lại những tích cực rõ rệt, một mặt, phát triển
giai cấp công nhân về số lượng; mặt khác, cũng tạo ra những cơ hội để người công
nhân học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề.
Bên cạnh những thuận lợi, quá trình này cũng tạo ra những thách thức lớn đối với
giai cấp công nhân Việt Nam. Việc cơ cấu lại nền kinh tế, tập trung phát triển những
ngành kinh tế có lợi thế cạnh tranh quốc tế đã dẫn tới giảm việc làm ở những lĩnh vực
không được đầu tư. Cùng với quá trình này, việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà
nước, cổ phần hóa cũng làm xuất hiện một lượng lao động dôi dư khá lớn. Lượng lao
động không có việc làm vừa là vấn đề bức xúc của mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp

vừa là nỗi bức xúc của xã hội. Đội ngũ cán bộ, công nhân tiếp tục làm việc trong các
doanh nghiệp cổ phần hóa, về cơ bản, được đào tạo, rèn luyện và trưởng thành trong
môi trường làm việc cũ nên một bộ phận trình độ còn hạn chế, tay nghề thấp, ý thức
tổ chức kỷ luật kém, nặng tâm lý trông chờ ỷ lại, an phận... nên không ít người không
đáp ứng được những đòi hỏi của tác phong, quy trình, công nghệ sản xuất mới trong
điều kiện cạnh tranh khốc liệt.
Cùng với sự xuất hiện ồ ạt của các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, các liên doanh đã tạo ra những khu công nghiệp - khu chế xuất tập
trung, thu hút một đội ngũ công nhân mới, rất đông đảo, trẻ và có trình độ văn hóa.
Nhưng, đội ngũ công nhân này cơ bản có nguồn gốc từ nông thôn, mang nặng tâm lý,
ý thức, lối sống của người nông dân; không được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ một
cách cơ bản; chưa được giáo dục một cách đầy đủ về ý thức chính trị, ý thức giai cấp;
mục đích đơn giản của họ là có việc làm, có thu nhập, ý thức làm thuê kiếm sống là


chính. Thu nhập của đội ngũ công nhân này rất thấp, đời sống vật chất và tinh thần vô
cùng khó khăn, nhất là về nhà ở, vệ sinh công nghiệp, vệ sinh môi trường, văn hóa...
Để giai cấp công nhân Việt Nam phát triển và trưởng thành, ngày càng xứng đáng
là lực lượng quan trọng nhất để xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và chế
độ xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần sớm có một chiến lược quốc gia tổng thể, đồng bộ
xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời gian tới. Chúng tôi
xin đề xuất một số giải pháp cơ bản sau:
1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa. Vừa tăng trưởng
kinh tế với tốc độ cao, ổn định vừa bảo đảm phát triển văn hóa - xã hội hài hòa, lành
mạnh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, đặc
biệt là giai cấp công nhân; giữ vững ổn định chính trị; bảo đảm an ninh quốc phòng,
trật tự an toàn xã hội. Một xã hội ổn định, phát triển toàn diện và hài hòa không chỉ là
môi trường thuận lợi cho sự phát triển của giai cấp công nhân mà còn của mọi người
dân trong xã hội.
2. Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy

hoạch nền kinh tế, vùng kinh tế, khu vực kinh tế, cấu trúc lại nền kinh tế phù hợp với
sự phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích các tập thể cá nhân phát
triển sản xuất - kinh doanh, chủ động và tích cực tham gia vào thị trường lao động
quốc tế, phát triển cảng biển, hệ thống đường giao thông thủy, bộ, đường sắt, hàng
không, xây dựng những khu công nghiệp, khu chế xuất mới... Đây sẽ là quá trình phát
triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại; đồng thời, hướng tới việc tạo ra một
thị trường lao động công nghiệp mới, thu hút nhiều lao động với phong phú về ngành
nghề, đa dạng về chủng loại. Quá trình này sẽ phát triển giai cấp công nhân không chỉ
về số lượng mà cả chất lượng.
3. Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí
và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Xuất phát từ thực trạng đời sống của
người công nhân còn nhiều khó khăn, nên trong quan niệm của xã hội hiện nay, hình
ảnh người công nhân chưa phải là hình ảnh được đề cao. Trong điều kiện như thế, để
giai cấp công nhân có điều kiện khẳng định được vai trò, vị trí của mình cũng như
hoàn thành được sứ mệnh lịch sử cao quý của mình cần có một chiến dịch tuyên
truyền, vận động rộng khắp trong xã hội nhằm đề cao, tôn vinh người công nhân, sao
cho cả xã hội nhận thức được vai trò và vị trí quan trọng của giai cấp công nhân trong
sự nghiệp phát triển kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; đồng
thời, cũng là nhân tố quyết định xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
4. Cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và
tay nghề cho giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề sống còn đối với người công
nhân và việc phát triển giai cấp công nhân trong tình hình mới. Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh
tế đang tạo ra một nhu cầu mới về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Đặc
thù của kinh tế thị trường là tính cạnh tranh cao, lao động và việc làm cũng không
ngoài tình trạng đó. Sự cạnh tranh trong sử dụng lao động đòi hỏi lực lượng lao động
cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp và cơ bản. Do đó, chất lượng lao động,



nguồn nhân lực mới là nhân tố quyết định cho sự phát triển và tăng trưởng cao. Đối
với người lao động, khi tham gia thị trường lao động nếu chưa được đào tạo cơ bản,
đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường lao động, thì rất khó tìm được việc làm, và
nếu có, thì cũng thường là việc làm không ổn định, lao động giản đơn, nặng nhọc và
thu nhập thấp. Tính cạnh tranh cao cùng với sự sôi động của thị trường lao động đòi
hỏi Nhà nước cần có một chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực vừa đông
đảo, có chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng nhằm đáp ứng kịp thời và lâu dài nhu
cầu nguồn lực con người cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân.
Trong xã hội hiện nay, cùng với nông dân, giai cấp công nhân là những người nghèo
trong xã hội. Đời sống vật chất và tinh thần của người công nhân lao động còn nghèo
nàn. Đây là một nghịch lý rất đáng suy nghĩ. Giai cấp tiên tiến, ưu tú, nắm quyền lãnh
đạo xã hội mà lại nghèo. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước cần cấp thiết có một chiến lược
thiết thực chăm lo đời sống người công nhân, nhất là đội ngũ công nhân trẻ mới vào
nghề, tập trung đông ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong đó, trước hết, là các
chính sách mới về việc làm, nhà ở và tiền lương. Có như thế, giai cấp công nhân mới
thoát khỏi những bức bách của đời sống, có điều kiện học tập, rèn luyện nâng cao tay
nghề và ý thức xã hội. Chỉ khi đó, đội ngũ công nhân trẻ này mới gắn bó sâu sắc với
sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước, có ý thức giai cấp, có lý tưởng xã hội chủ
nghĩa.
6. Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với cuộc vận động thực hiện Quy
chế Dân chủ ở cơ sở và chống tham nhũng. Xây dựng và phát triển giai cấp công
nhân phải được thực hiện trong một môi trường kinh tế - xã hội mà mỗi người công
nhân luôn có điều kiện phát huy năng lực của mình và được thụ hưởng thành quả lao
động do chính mình làm ra. Muốn thế, cần thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế Dân chủ
trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Một khi người công nhân được tôn
trọng, được thực sự góp phần vào quá trình phát triển doanh nghiệp thì sẽ tạo ra một
động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, công nhân yên tâm và hăng say làm việc, sáng
tạo mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và bản thân.

Cùng với thực hiện nghiêm túc Quy chế Dân chủ trong các doanh nghiệp, đấu
tranh chống tham nhũng cũng là một vấn đề gây bức xúc trong không ít các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần. Tham nhũng đang
tạo ra khoảng cách giàu - nghèo giữa công nhân, viên chức và người lãnh đạo doanh
nghiệp, gây nên sự bất bình trong dự luận công nhân, mất đoàn kết nội bộ, mâu thuẫn
trong doanh nghiệp. Nếu không kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng sẽ dễ dẫn tới
tình trạng bất ổn, làm sản xuất đình đốn. Kiên quyết đấu tranh loại trừ tệ tham nhũng
ra khỏi các doanh nghiệp đó là một việc làm vừa có ý nghĩa phát triển sản xuất, kinh
doanh vừa có ý nghĩa bảo vệ cán bộ và công nhân không bị rơi vào trạng thái mâu
thuẫn trên. Đó chính là một con đường thiết thực góp phần xây dựng và phát triển
giai cấp công nhân trong các doanh nghiệp.
7. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã
hội trong các doanh nghiệp; đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức chính


trị - xã hội trong các doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới. Đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp được đề
cập ở đây là trong các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa. Trong
quá trình chuyển đổi vừa qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với doanh nghiệp
cũng như đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp còn lúng túng,
có nhiều bất cập. Chính vì vậy, vị thế, vai trò của Đảng trong các doanh nghiệp nhất
là các doanh nghiệp đã cổ phần hóa khá mờ nhạt. Các tổ chức chính trị - xã hội trong
nhiều doanh nghiệp hầu như rất lúng túng trong phương hướng hoạt động, không
hoạt động hoặc hoạt động chỉ mang tính hình thức.
Vấn đề đặt ra là, Đảng cần có phương thức lãnh đạo mới, một cơ chế mới để vừa
thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình vừa thúc đẩy sự hoạt động một cách có hiệu
quả của các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp. Trong đó, đặc biệt tạo
lập mối quan hệ mới giữa Đảng và tổ chức công đoàn, từng bước góp phần đưa Công
đoàn trở thành một tổ chức hùng mạnh, thực sự xứng đáng là tổ chức hoạt động vì
quyền lợi chính đáng của toàn thể công nhân, lao động. Sự lãnh đạo sát sao của Đảng

đối với tổ chức công đoàn sẽ là một sức mạnh mới thiết thực góp phần bảo vệ, chăm
sóc và phát triển giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân cũng là một cách xây
dựng và phát triển giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.
Tạp chí cộng sản, số 144 /2007.
Tạp chí cộng sản, số 143 /2007.
TƯ TƯỞNG CỦA CÁC MÁC VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VÀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY
TS Nguyễn An Ninh
Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
(ĐCSVN)-Các Mác sinh ngày 5 - 5 - 1818, năm nay,
2007 là kỷ niệm lần thứ 189 ngày sinh của vị lãnh tụ vĩ
đại
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, người
dành trọn cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng GCCN,
nhân dân lao động. Cùng với phương pháp duy vật lịch
sử
và học thuyết về giá trị thặng dư, học thuyết về sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN là một trong ba
cống hiến vĩ đại của C.Mác. Từ đây, GCCN thế giới có
được “vũ khí lý luận” sắc bén trong cuộc đấu tranh để
tự Các Mác
giải phóng và lý luận chỉ đạo quá trình xây dựng xây
dựng xã hội XHCN và CSCN.
Sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN là một tất yếu khách quan bắt nguồn từ chính
thực tiễn sản xuất hiện đại, từ nhu cầu phát triển theo xu hướng xã hội hóa của lực
lượng sản xuất (LLSX) mà sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện
đại là biểu hiện tập trung nhất. Sứ mệnh đó còn bắt nguồn từ địa vị kinh tế - xã hội



của GCCN, một giai cấp “là sản phẩm của đại công nghiệp”, trực tiếp sản xuất của
cải vật chất cho xã hội, người đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, cho xu thế
xã hội hóa sản xuất. Chính sự phát triển của CNTB, đến một ngưỡng nhất định, làm
rõ mâu thuẫn cơ bản giữa LLSX xã hội cao với QHSX tư nhân TBCN. Sở hữu tư
nhân TBCN ngày đối lập với xu hướng xã hội hóa. Nó kìm hãm tiến bộ xã hội thông
qua việc duy trì chế độ bóc lột giá trị thặng dư và áp bức, bất công xã hội. Phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại bằng cách xóa bỏ QHSX tư nhân TBCN, tạo ra một
QHSX mới mang tính xã hội hóa và giải phóng GCCN - “LLSX hàng đầu của toàn
thể nhân loại” là quy luật của lịch sử và cũng là nội dung cơ bản nhất của sứ mệnh
này.
Trong tư tưởng của Mác, tất yếu khách quan ấy được thể hiện và thực hiện thông
qua quá trình phát triển về chính trị, tư tưởng và tổ chức của GCCN để trở thành một
giai cấp tự giác. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân, sự
trưởng thành của đảng Cộng sản và sự xác lập nhà nước của GCCN chính là những
biểu hiện tập trung của tính tự giác ấy. Từ đó, quá trình thực hiện sứ mệnh là quá
trình cách mạng XHCN. Nội dung của nó bao gồm: cách mạng trên lĩnh vực chính trị
để phá hủy nhà nước của GCTS, thiết lập nhà nước của GCCN, nền dân chủ XHCN
từ đó tiến hành cách mạng trên lĩnh vực kinh tế, thông qua việc cải tạo QHSX cũ, xác
lập QHSX công hữu để đáp ứng nhu cầu phát triển của LLSX và xây dựng cơ sở vật
chất cho CNXH; cùng với đó là cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng để xác lập vị trí
chủ đạo của hệ tư tưởng GCCN, tiếp thu những giá trị của truyền thống, văn minh
nhân loại và dần khắc phục những tàn dư tư tưởng của xã hội cũ...Đó là quá trình
cách mạng toàn diện, triệt để, khó khăn, phức tạp và lâu dài.
Ngày nay, do tính quy định của sản xuất hiện đại, GCCN có một số biểu hiện
mới: trình độ văn hóa - tay nghề cao hơn; một số công nhân đã có cả tư liệu sản xuất,
cổ phiếu, đời sống một bộ phận được cải thiện v.v... Song, những biểu hiện đó không
làm thay đổi địa vị cơ bản của công nhân trong CNTB. Họ vẫn đang là lực lượng chủ
yếu làm ra của cải cho xã hội và lợi nhuận cho các nhà tư bản; là lực lượng đối lập
trực tiếp với GCTS, bị bóc lột nhiều nhất và khoảng cách về mức thu nhập giữa họ
với giới chủ ngày càng lớn. Công nhân trong các nước tư bản phát triển được trí tuệ

hóa, lao động bớt nặng nhọc hơn, có chút ít cổ phần trong doanh nghiệp... thì họ càng
bị ràng buộc chặt chẽ hơn vào guồng máy sản xuất của tư bản, càng bị bóc lột nặng
nề và tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tỷ suất bóc lột giá trị thặng
dư trung bình ở thế kỷ XIX là 20, thì hiện nay là 300, cá biệt có nơi, như tập đoàn
Microsoft tỷ suất này lên tới 5000. Từ một chiều cạnh khác, hiện nay sự tăng lên
lượng tri thức khoa học và văn hóa của công nhân lại cũng là một tiền đề quan trọng
để giúp họ nhận thức và cải tạo xã hội. Họ đang phê phán CNTB và đến với CNXH
như đến với cái đúng và do sự thôi thúc của lý trí chứ không chỉ do nghèo đói. Với tri
thức và khả năng làm chủ công nghệ cao, với năng lực sáng tạo và ý thức về sứ
mệnh, GCCN hiện đại đang có thêm điều kiện để tự giải phóng.
Nhờ có những điều chỉnh lớn và tận dụng được thành tựu của cách mạng khoa
học và công nghệ, đặc biệt là qua toàn cầu hóa kinh tế, CNTB đang còn khả năng tiếp
tục kéo dài sự tồn tại nhưng không thể tránh được “định mệnh” mà Mác đã vạch ra từ


sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là biểu
hiện tập trung của xu thế xã hội hóa LLSX và cũng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn cơ
bản trong lòng CNTB. Nó khai triển mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất
TBCN đến mọi ngõ ngách của thế giới qua những biểu hiện xã hội đa dạng. Đó là
mâu thuẫn giữa GCCN hiện đại đang bị CNTB toàn cầu bóc lột giá trị thặng dư với
một GCTS “ngày càng trở nên là giai cấp thừa” trong sản xuất và phản động về chính
trị; Đó là mâu thuẫn giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, hay
“phương Bắc và phương Nam”, giữa “trung tâm và ngoại vi”...; là mâu thuẫn của lợi
ích từng quốc gia - dân tộc với lợi ích của các tập đoàn tư bản; giữa những nước phát
triển và đang phát triển; giữa chủ quyền quốc gia - dân tộc với xu thế đồng hóa cưỡng
bức; giữa văn hoá dân tộc với cuộc xâm lăng bằng tư tưởng, lối sống của những nước
đế quốc trong môi trường toàn cầu đang vận hành theo những cơ chế bất bình đẳng;
Đó còn là mâu thuẫn giữa các nước tư bản xung quanh việc tranh giành vị trí, thế lực
và ảnh hưởng thông qua việc chiếm lĩnh ưu thế về KH&CN, những nguồn tài
nguyên...

Nhìn chung từ thực tiễn hiện đại, nhu cầu có một toàn cầu hóa với chất lượng mới
đang hiện rõ. Và, mầm mống của một phương thức sản xuất mới cũng đang lớn dần,
chủ yếu là theo cách này. Sứ mệnh lịch sử thế giới của GCCN mang bản chất quốc tế
và không hề xa lạ với những hiện tượng quốc tế phản ánh tiến bộ xã hội. Chủ động,
tích cực hội nhập quá trình toàn cầu hóa kinh tế; tận dụng những thời cơ, tranh thủ
ngoại lực từ quá trình toàn cầu hoá hiện nay và làm biến đổi nó theo hướng tích cực
là một tiến trình hợp quy luật và là con đường để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới
của GCCN.
Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức và giữ vững định hướng XHCN là
nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam hiện nay. Sứ mệnh của
GCCN Việt Nam là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo định hướng
XHCN; qua đó giải phóng giai cấp, giải phóng người lao động, xây dựng một “xã hội
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”...Hiện nay, để sớm đưa đất
nước khỏi tình kém phát triển, nội dung trọng tâm là đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với
kinh tế tri thức và giữ vững định hướng XHCN.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay
là “Rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng
của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Theo đó phát triển GCCN nước ta
cả về số lượng và chất lượng, và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đổi
mới. Phát triển GCCN cũng chính là phát triển, hoàn thiện chủ thể của sứ mệnh lịch
sử hiện đại - cơ sở xã hội quan trọng nhất bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng, khối
đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam cũng chỉ có thể thực hiện thắng lợi khi
quyền lãnh đạo cách mạng của GCCN, thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, được giữ vững và không ngừng tăng cường; Nhà nước XHCN và chế độ


dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân lao động nước ta không ngừng được

hoàn thiện và phát triển.
Kỷ niệm ngày sinh của Các Mác vĩ đại, GCCN cùng toàn Đảng, toàn dân ta tiếp
tục thực hiện lý tưởng cao đẹp của Người, xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam
và góp phần xứng đáng vào quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của
GCCN./.
Website báo Đảng cộng sản ngày 5/5/2007
XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Đặng Ngọc Tùng
Ủy viên BCHTƯ Đảng
Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ biến đổi và phát
triển. Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, GCCN Việt Nam trở thành giai cấp
lãnh đạo cách mạng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc đến thắng lợi hoàn toàn; và ngày
nay đang giành được nhiều thành tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu
dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cùng với quá trình đi lên
của đất nước, GCCN Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất
lượng và cơ cấu.
Hiện nay, đội ngũ công nhân, viên chức và lao động trong các loại hình doanh
nghiệp và cơ sở kinh tế ở nước ta có khoảng 11,3 triệu người, chiếm 13,5% dân số và
26,4% lực lượng lao động xã hội. Nhìn chung, tuổi đời của công nhân, lao động
(CNLĐ) tương đối trẻ: từ 18 đến 30 chiếm 36,4%; còn trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, tuổi dưới 25 chiếm tới 43,2%. Trình độ học vấn, chuyên môn
nghề nghiệp của CNLĐ những năm gần đây được nâng lên đáng kể (năm 1985, trình
độ trung học phổ thông là 43%; hiện nay là 69,3%);... tỷ lệ công nhân được đào tạo
nghề cũng tăng lên. GCCN Việt Nam có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, các
ngành nghề và là một lực lượng sản xuất cơ bản, chủ yếu; có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với nền kinh tế quốc dân. GCCN Việt Nam luôn giữ vững bản chất cách
mạng, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, khắc phục khó khăn, đưa sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước đi lên. Đa số họ là những người
có khả năng thích ứng với cơ chế mới, tiếp cận nhanh khoa học, công nghệ hiện đại;
năng động, sáng tạo, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật mang lại giá trị kinh tế cao.
Trong công cuộc đổi mới, CNLĐ nước ta đã đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, để trên
cơ sở đó Đảng, Nhà nước có các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phát triển
sản xuất, giữ vững ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Có thể khẳng định rằng,
GCCN Việt Nam luôn luôn là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước, chế độ
XHCN; là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh công – nông – trí, nền tảng của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; vừa là lực lượng tích cực, đi đầu trong công cuộc đổi
mới, vừa là lực lượng kiên quyết trên mặt trận đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng,


lãng phí, đặc quyền, đặc lợi và các hiện tượng tiêu cực khác. GCCN Việt Nam cũng
là lực lượng tiêu biểu cho truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế với
GCCN, nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Bên cạnh đó, GCCN Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế. Trình độ văn hóa,
chuyên môn, khả năng nghề nghiệp, kiến thức quản lý kinh tế chưa đáp ứng với yêu
cầu của đất nước thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế
(HNKTQT). Sự mất cân đối trong cơ cấu lao động - kỹ thuật đang diễn ra phổ biến;
biểu hiện rõ nhất là tình trạng thừa lao động giản đơn, thiếu lao động có trình độ
chuyên môn cao. Điều đáng báo động là, ý thức học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, nghề nghiệp của cả công nhân và cán bộ khoa học-kỹ thuật nước ta nhìn chung
không cao; CNLĐ chưa ý thức đầy đủ yêu cầu của cạnh tranh quốc tế để có giải pháp
tích cực, chủ động hội nhập; lòng say mê nghề nghiệp, ý thức tổ chức, kỷ luật, tác
phong công nghiệp, vai trò làm chủ còn hạn chế...
Hiện nay, chúng ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược (xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc) trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng diễn ra sâu rộng; khoa học-kỹ
thuật phát triển mạnh mẽ và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; nước ta đã là một
thành viên của WTO;... Điều đó tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
GCCN trong các ngành nghề và khu vực kinh tế. Cùng với đó, cơ chế thị trường và

sự cạnh tranh giữa trong với ngoài nước diễn ra ngày càng gay gắt; sự tác động của
kinh tế thị trường đang tạo nên tính đa dạng trong cơ cấu kinh tế và phức tạp trong cơ
cấu GCCN. Sự phân hóa giầu nghèo trong GCCN cũng diễn ra ngày một sâu sắc;
quan hệ lao động cũng đang có những diễn biến phức tạp; một số chính sách liên
quan đến quyền lợi của CNLĐ còn bị vi phạm, nhưng chưa được kiểm tra thường
xuyên và có biện pháp xử lý nghiêm khắc, kịp thời...
Ngày nay, tiếp tục chăm lo xây dựng, phát huy vai trò của GCCN Việt Nam, phù
hợp với tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và HNKTQT là vấn đề sống còn
của cách mạng, của chế độ XHCN ở nước ta. Cần nhận thức đúng rằng, đầu tư xây
dựng GCCN là đầu tư chiến lược, đầu tư trực tiếp cho phát triển, để củng cố và tăng
cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội.
Trước hết, cần quán triệt sâu sắc quan điểm coi xây dựng GCCN là nhiệm vụ tất
yếu, mang tính chiến lược; gắn liền với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị của dân,
do dân, vì dân; với thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, đối
ngoại và với từng bước đi của quá trình CNH, HĐH đất nước. Xây dựng, phát huy
vai trò của GCCN phải được thực hiện thông qua đường lối của Đảng; được thể chế
bằng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đồng bộ của Nhà nước; bằng các biện
pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trước mắt, Đảng cần tập trung lãnh đạo,
sớm hoạch định chiến lược quốc gia về xây dựng, phát triển GCCN hiện đại, làm cơ
sở để Nhà nước ban hành các văn bản luật pháp, xây dựng các cơ chế, chính sách phù
hợp, tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai thực hiện. Vấn đề có ý nghĩa then chốt
hiện nay là, phải không ngừng tăng cường bản chất GCCN của Đảng, thường xuyên
củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; làm cho Đảng ta có sự phát triển vượt
bậc về trí tuệ, năng lực, có trình độ lý luận, tư duy khoa học và bản lĩnh chính trị cao,
ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.


Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức chính trị, trình
độ giác ngộ giai cấp, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường cho
GCCN. Nội dung tuyên truyền, giáo dục cần tập trung làm cho GCCN nắm vững thực

chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng
cao nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; nâng cao kiến thức văn hóa và tạo điều kiện, cơ hội cho CNLĐ tham gia các
hoạt động văn hóa-xã hội; tổ chức tốt đời sống vật chất và tinh thần, tạo động lực để
CNLĐ nỗ lực phấn đấu vươn lên. Cùng với quá trình đó, cần tăng cường tuyên
truyền, giáo dục nhằm tạo sự chuyển biến nhận thức của toàn xã hội đối với yêu cầu
CNH, HĐH đất nước trong bối cảnh HNKTQT gắn với việc nâng cao trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ của GCCN. Qua đó nâng cao giá trị và địa vị của CNLĐ,
nhất là CNLĐ có trình độ cao; tạo điều kiện để phát huy tiềm năng trí tuệ, bảo đảm
việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, xây dựng các giá trị văn hóa lao
động mới, từng bước hình thành phong cách lao động công nghiệp cho GCCN. Trong
quá trình triển khai công tác này, cần hết sức coi trọng xây dựng nội dung, hình thức
tuyên truyền, giáo dục phong phú, sinh động, phù hợp với từng đối tượng trong từng
thành phần kinh tế, từng loại hình sản xuất, kinh doanh.
Ba là, coi trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo CNLĐ, xây dựng
đội ngũ CNLĐ có trình độ tri thức, tay nghề cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng phù hợp với tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước và HNKTQT. Kết hợp bồi dưỡng, rèn luyện tay nghề với nâng cao nhận
thức cho đội ngũ CNLĐ về những vấn đề mới của kinh tế thị trường và HNKTQT
như: cạnh tranh, thị trường lao động, thị trường công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật
Lao động, phá sản, bảo hiểm xã hội,v.v. Cần phát huy tinh thần trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH,
HĐH; đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng hóa các loại hình đào tạo CNLĐ, kết hợp đào
tạo tập trung với không tập trung, đào tạo chính quy với vừa học vừa làm, đào tạo tại
các nhà trường, trung tâm đào tạo với đào tạo trong các doanh nghiệp; đào tạo cơ bản
với đào tạo lại;... một cách phù hợp, hiệu quả, thích ứng với khả năng, điều kiện học
tập của CNLĐ.


Bốn là, thường xuyên quan tâm xây dựng hệ thống chính sách bảo đảm xã hội và

chính sách khuyến khích xã hội đối với CNLĐ. Cần thấy rằng, chính sách xã hội là
đòn bẩy quan trọng của tính tích cực xã hội. Do đó, cần rà soát để xóa bỏ những cơ
chế đã và đang kìm hãm tính tích cực, chủ động, sáng tạo của CNLĐ; đồng thời, tạo
lập cơ chế mới, đảm bảo giải phóng người lao động về mọi mặt, tạo điều kiện để
CNLĐ phát huy khả năng của mình trong lao động, học tập và cống hiến. Chính sách
xã hội trong điều kiện mới cần phải coi trọng đáp ứng các điều kiện thiết yếu cho
hoạt động của người lao động nói chung, cho GCCN nói riêng; đồng thời, phải thể
hiện sự quan tâm đến nguyện vọng chính đáng của CNLĐ là được trả công tương
xứng với sức lao động mà họ đã bỏ ra; được chăm lo đến điều kiện lao động, điều
kiện sống, việc làm ổn định, kể cả sự công bằng xã hội. Trước mắt, cần tiếp tục hoàn
thiện chính sách tiền lương và công tác tổ chức tiền lương trong các loại hình doanh
nghiệp, thuộc các thành phần kinh tế, nhằm đảm bảo giá trị tiền lương thực tế và đời
sống cho CNLĐ; thực hiện tốt nguyên tắc phân phối theo lao động, hạn chế tối đa sự
chênh lệch quá cao về thu nhập của CNLĐ giữa các ngành nghề, các thành phần kinh
tế và giữa các bộ phận công nhân ngay trong cùng một doanh nghiệp. Cần có quy
định ưu đãi với công nhân lành nghề, thợ bậc cao, để khuyến khích đội ngũ CNLĐ
tích cực phấn đấu vươn lên. Nhanh chóng hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu tư
phát triển nhà ở cho CNLĐ; có chính sách cụ thể hỗ trợ về nhà ở cho những gia đình
CNLĐ nghèo. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện Luật Lao động, bảo hộ
lao động; xử lý nghiêm những vi phạm quyền lợi đối với người lao động. Chú trọng
chăm lo, cải thiện điều kiện lao động; phòng, chống có hiệu quả tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp; xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khỏe
công nhân, nhất là với công nhân nữ, công nhân làm việc nặng nhọc, độc hại. Không
ngừng phát triển, nâng cao chất lượng khám và chữa bệnh của các cơ sở y tế ngành
nghề.
Cùng với chính sách bảo đảm xã hội, Nhà nước cần hết sức quan tâm thực hiện
tốt chính sách khuyến khích xã hội đối với CNLĐ, bao gồm chính sách thi đua - khen
thưởng, tôn vinh các cá nhân, tập thể xuất sắc, có nhiều cống hiến, nhất là những
người trực tiếp lao động; có cơ chế động viên kịp thời, phù hợp với những CNLĐ
trang

thực sự có tài, có sáng kiến, phát minh, sáng(Xem
chế. tiếp
Đảng,
Nhà4)nước cần lãnh đạo và
chỉ đạo các ngành, các cấp kết hợp chặt chẽ, hài hòa chính sách đảm bảo xã hội với
chính sách khuyến khích xã hội, tạo động lực mạnh mẽ, kích thích mọi cá nhân, tập
thể CNLĐ trong các thành phần kinh tế, các ngành nghề cùng thi đua học tập, lao
động.
Năm là, tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức Công
đoàn trong GCCN, bảo đảm để Công đoàn ngày càng thu hút đông đảo CNLĐ tham
gia với tinh thần tự giác, tích cực, ý thức làm chủ cao. Hoạt động của Công đoàn cần
đổi mới theo hướng đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng; hướng mạnh về
cơ sở; lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động; lấy công nhân, viên chức, lao động làm đối
tượng vận động; lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công
nhân, viên chức, lao động và xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, xây dựng


GCCN lớn mạnh, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển làm mục tiêu
hoạt động.
Để làm được điều đó, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Công
đoàn. Từng cấp ủy Đảng phải có trách nhiệm định hướng cho hoạt động của Công
đoàn ở cấp mình, ngành mình, bảo đảm mọi hoạt động của Công đoàn phù hợp với
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước, góp phần quan
trọng vào việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa sự nghiệp đổi
mới đất nước không ngừng phát triển. Cần tập trung nghiên cứu, đề ra những chủ
trương, biện pháp đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong tất cả các thành phần kinh
tế. Công tác cán bộ của Đảng cần ưu tiên tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng những cán
bộ trẻ, có năng lực, phẩm chất tốt, xuất thân từ CNLĐ vào các cương vị lãnh đạo, chủ
trì các cấp. Tăng cường công tác kiểm tra và xử lý nghiêm những vi phạm trong thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; phát huy vai trò của GCCN và tổ

chức Công đoàn trong tình hình mới. Bản thân tổ chức Công đoàn ở từng cấp phải
đổi mới mạnh mẽ hơn nội dung, phương thức hoạt động; kiên quyết khắc phục tình
trạng xơ cứng, trì trệ và hiện tượng “hành chính hóa” trong tổ chức hoạt động của
mình. Đồng thời, đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, để thu hút đông đảo
CNLĐ tham gia Công đoàn và hoạt động tích cực, có hiệu quả. Các cấp ủy Đảng phải
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo để Công đoàn thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của
mình trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức hữu quan; thường xuyên tiếp xúc,
lắng nghe ý kiến của Công đoàn và công nhân, viên chức, lao động, tạo điều kiện để
tổ chức Công đoàn được góp tiếng nói xứng đáng của mình vào việc hoạch định
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và trong quản lý Nhà nước, xã hội.
Cần tăng cường chỉ đạo kiểm tra các cấp, các ngành và các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế trong việc triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đối với GCCN. Nhà nước cần chú trọng phối hợp chặt
chẽ với Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, triển khai có hiệu quả các chương trình
hoạt động và tạo điều kiện thuận lợi về kinh phí để Công đoàn hoạt động, góp phần
xây dựng GCCN Việt Nam không ngừng lớn mạnh.
Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 5/2007
Để nâng cao chất lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
(ĐCSVN) - Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng,
các tổ chức chính quyền nhà nước, các đoàn thể nhân dân và toàn thể nhân dân.
1. Giai cấp công nhân: khái niệm, quá trình phát triển
Thuật ngữ “công nhân” xuất hiện lần đầu vào khoảng thế kỷ XVI, khi chủ nghĩa
tư bản bắt đầu phát triển. Trước đó, người ta dùng thuật ngữ “thợ thủ công”. Giữa
thuật ngữ “công nhân” và “vô sản” tuy thống nhất, nhưng không đồng nhất. Trung
Quốc trước đây gộp cả thành phần “cố nông” vào hàng ngũ “vô sản”. Dưới chế độ tư
bản, công nhân được hiểu như người lao động làm thuê, người làm công ăn lương,
không có tài sản riêng. Khi C.Mác và Ph.Ăngghen viết “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”
vào cuối năm 1857, đầu năm 1858, các ông đã bắt đầu nâng vị trí người công nhân từ



làm thuê trở thành người làm chủ, và cũng từ đây, giai cấp công nhân bắt đầu xuất
hiện ý thức hệ tư tưởng của mình với tư cách là một giai cấp cách mạng.
Kể cả dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa, công nhân đều là
một trong những giai cấp cơ bản, lực lượng chủ yếu trong việc sản xuất của cải vật
chất. Chỗ khác nhau là, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân có cơ hội
cải tạo các quan hệ xã hội, còn dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, thì giai cấp công nhân
không có cơ hội làm việc đó. Một điểm khác nhau nữa về mặt lý thuyết, dưới chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân là giai cấp cầm quyền trong xã hội, còn dưới chủ
nghĩa tư bản thì không.
Công nhân làm thuê xuất hiện vào thế kỷ XVI. Trong suốt một thời gian dài, công
nhân chưa phải là giai cấp đã hình thành một cách hoàn chỉnh với tư cách một giai
cấp. Sự phát sinh, phát triển của giai cấp vô sản công nghiệp, sự chuyển biến của nó
thành một giai cấp độc lập được gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đều nhất quán nhận định giai cấp công nhân là
giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất trong xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân đã được các ông vạch ra là thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã
hội; là giai cấp duy nhất có khả năng thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người để
giải phóng cho mình và giải phóng cho các giai cấp lao động khác; trở thành giai cấp
nắm bá quyền lãnh đạo. Sở dĩ đánh giá cao giai cấp công nhân, vì các nhà sáng lập
chủ nghĩa xã hội khoa học cho rằng, đó là giai cấp sản xuất tập trung, có ý thức tổ
chức, kỷ luật; có trình độ giác ngộ caơ; có tinh thần cách mạng triệt để. Khi Đảng
Cộng sản tác động lãnh đạo, thì cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự phát trở
thành tự giác.
Lịch sử đã diễn ra những thời kỳ huy hoàng của giai cấp công nhân, làm cho tỷ
trọng chính trị - xã hội của giai cấp công nhân được tăng lên. Số lượng giai cấp công
nhân cũng ngày càng tăng lên tương ứng với sự phát triển của đại công nghiệp. Đến
giữa thế kỷ XIX, số lượng công nhân trên toàn thế giới là 10 triệu người. Đến đầu thế
kỷ XX, số lượng công nhân công nghiệp tại các nước tư bản chủ nghĩa là 30 triệu
người. Đến cuối những năm 70 thế kỷ XX, toàn thế giới có 600 triệu công nhân, viên

chức. Đến nay, toàn thế giới có khoảng 950 triệu công nhân, viên chức. Giai cấp công
nhân có các tổ chức công đoàn, các tổ chức chính trị và các tổ chức khác của mình.
300 triệu công nhân thế giới đã được hợp thành các công đoàn tại các nước riêng lẻ.
Sự phát triển của giai cấp công nhân trong lịch sử được chia làm ba giai đoạn: 1)
Giai cấp công nhân là một khối người thụ động, bị bóc lột; 2) Giai cấp công nhân với
tư cách là một nhân tố mới trong cuộc đấu tranh kinh tế và xã hội; 3) Giai cấp công
nhân với tư cách là lực lượng xã hội có ý thức, đội tiên phong của những người lao
động và chiến sĩ tích cực đấu tranh để giải phóng toàn thể loài người khỏi bóc lột, áp
bức dân tộc và áp bức xã hội.
Về tổ chức, trong lịch sử đã có một thời kỳ dài khoảng 70 năm (từ những năm 90
thế kỷ XIX đến những năm 60 thế kỷ XX), các đảng cộng sản và đảng công nhân
(khoảng 90 đảng) nắm được giai cấp công nhân. Từ những năm 60 thế kỷ XX đến
nay, giai cấp công nhân thế giới bị chi phối bởi các đảng cộng sản cầm quyền và các
đảng xã hội dân chủ (dân chủ xã hội) cầm quyền. Các tổ chức quần chúng mang tính


chất quốc tế trước đây do Quốc tế Cộng sản nắm, nay các tổ chức này do Quốc tế xã
hội nắm và chi phối, cấp kinh phí cho để hoạt động.
Về phong trào, từ khi Cách mạng tháng Mười Nga nổ ra (năm 1917) đến những
năm 80 thế kỷ XX, giai cấp công nhân trưởng thành nhanh trong cuộc đấu tranh giai
cấp và đấu tranh dân tộc, nhiều lúc đã vươn lên thành cao trào. Từ những năm 80, 90
thế kỷ XX đến nay, do sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở châu
Âu, chủ nghĩa xã hội khoa học bước vào thoái trào, cho nên phong trào công nhân thế
giới cũng đang ở vào giai đoạn thoái trào. Khẩu hiệu “Vô sản thế giới đoàn kết lại”
và khẩu hiệu “Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” đang bị bóc tách
ra từng mảng riêng rẽ.
Phương hướng tiến lên của giai cấp công nhân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
ra sau khi Người đi dự Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân vào năm l960, tại
Mátxcơ va, Liên Xô về: “Căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước mình và chú ý đến
tình hình quốc tế, các đảng cộng sản cần nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc

dân chủ đấu tranh chống chế độ tư bản, để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và
của quần chúng nhân dân”.
2. Giai cấp công nhân Việt Nam trong lịch sử và hiện tại
Năm 1858, quân viễn chinh Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược Việt Nam. Từ đấy,
Pháp bắt đầu lôi kéo tầng lớp tư sản mại bản vào Việt Nam. Khi tầng lớp tư sản mại
bản vào Việt Nam, thì những nhóm công nhân Việt Nam riêng lẻ cũng bắt đầu xuất
hiện và từng bước trưởng thành với tư cách là một giai cấp.
Có hai đặc điểm chung lớn nhất của giai cấp công nhân Việt Nam là hầu hết xuất
thân từ nông dân mà ra và giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản
dân tộc Việt Nam. “Cha chạy ra Hồng Gai cuốc mỏ/ Anh chạy vào đất đỏ làm phu”.
Thời Việt Nam thuộc Pháp, chủ nhà máy, xí nghiệp chia công nhân ra làm hai loại:
“công nhân áo xanh” và “công nhân áo nâu”. Công nhân áo xanh là công nhân đứng
máy, công nhân áo nâu là công nhân tạp vụ.
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào đầu năm 1930, đánh dấu cái
mốc về sự chuyển biến về chất trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam
từ tự phát tiến đến tự giác.
Hồ Chí Minh tổng kết: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào
đầu năm 1930”. Ở đây, yếu tố phong trào công nhân và phong trào yêu nước là quan
trọng như nhau, không thể tách rời. Nếu quá đề cao phong trào công nhân mà xem
nhẹ phong trào yêu nước là không thực tế với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam khi
tiến hành cách mạng hơn 90% số dân là nông dân. Trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam đã có giai đoạn nhìn nhận vấn đề giai cấp lên trên vấn đề dân tộc, đặt vấn đề dân
tộc nằm trong vấn đề giai cấp. Đến Hội nghị Trung ương Đảng (tháng 5-1941), bắt
đầu có bước rẽ ngoặt trong nhận thức tư tưởng là chuyển từ đấu tranh giai cấp sang
đấu tranh dân tộc, cụ thể là đấu tranh để giải phóng dân tộc, đặt vấn đề giai cấp nằm
trong vấn đề dân tộc, muốn giải phóng được giai cấp, trước hết phải giải phóng được
dân tộc. Từ đấy, vấn đề giai cấp được gắn với vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội, dân tộc gắn với thời đại.



Trong lịch sử của mình, giai cấp công nhân Việt Nam đã theo đội tiên phong của
mình là Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện thành công cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ (đến năm 1947 bổ sung thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) tiến lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Những ngày chuẩn bị thành lập Đảng, giai cấp công nhân
Việt Nam đã có những cuộc đấu tranh quyết liệt chống thực dân và tư bản nước
ngoài, giành quyền lợi chính trị và kinh tế cho giai cấp mình và dân tộc mình. Rất
nhiều công nhân chân chính đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh này để cho giai cấp
và dân tộc mình hồi sinh. Sự gắn bó giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân
trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người đã
tạo nên sức mạnh của cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cứu nước, rất nhiều công nhân đã xung
phong tình nguyện vào bộ đội chiến đấu. Từ công nhân trở thành quân nhân. Nhiều
công binh xưởng do công nhân bộ đội đảm nhiệm đã sản xuất rất nhiều vũ khí cung
cấp cho các chiến trường. Anh hùng công nhân Ngô Gia Khảm là một trong những
người có nhiều công lao trong việc sản xuất vũ khí giết giặc. Hậu phương thi đua với
tiền phương đã trở thành phong trào quần chúng rộng rãi trong công nhân và nông
dân.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giai cấp công nhân Việt Nam ở
miền Bắc và ở miền Nam đã có những cống hiến đặc biệt xuất sắc. Nhiều anh hùng,
liệt sĩ trong cuộc kháng chiến này xuất thân từ công nhân, trong đó có anh hùng liệt sĩ
công nhân Nguyễn Văn Trỗi. Hàng chục vạn công nhân miền Bắc đã rời xưởng máy
của mình để vào miền Nam chiến đấu. Nhiều cán bộ công đoàn ở miền Bắc đã tình
nguyện vào miền Nam để gây dựng các tổ chức công đoàn ở miền Nam trong lúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra ác liệt.
Từ năm 1955 đến năm 1960, miền Bắc bước vào khôi phục và cải tạo kinh tế. Từ
năm 1960 đến năm 1975, miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ quá độ. Các
nhà máy, xí nghiệp ở miền Bắc thời kỳ này phần lớn là quốc doanh, tiếp đến là công
tư hợp doanh, một số xưởng sản xuất nhỏ là của tư nhân. Giai cấp công nhân miền
Bắc thời kỳ này sôi nổi thi đua phấn đấu theo lời kêu gọi của Bác Hồ: “Mỗi người

làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”. Công nhân làm việc tại các cơ sở quốc
đoanh và công tư hợp doanh được Đảng và Chính phủ quan tâm khá chu đáo. Họ
được cấp nhà ở tập thể, được sinh hoạt văn hoá vui tươi. Ngày làm việc, tối về học bổ
túc văn hoá, nâng cao trình độ. Tay nghề được rèn luyện. Nhiều công nhân đã có
trình độ bậc 7/7.
Giai cấp công nhân Việt Nam hiện có khoảng 5 triệu người, chiếm khoảng 6%
dân số. Điểm thuận lợi lớn nhất hiện nay của giai cấp công nhân Việt Nam là có
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam lãnh
đạo. Đảng cầm quyền là điều kiện thuận lợi cho giai cấp công nhân Việt Nam phát
triển. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công
nhân Việt Nam có bước phát triển mới. Cùng với việc thành lập các khu công nghiệp,
khu chế xuất, mỗi năm hàng trăm doanh nghiệp ra đời, số lượng công nhân tăng
nhanh. So với công nhân làm việc trong các doanh nghiệp cổ phần hoá và tư nhân
theo chế độ hợp đồng, thì đời sống vật chất và tinh thần, nhìn chung kém hơn so với


công nhân làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh theo chế độ biên chế. Trong
sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp, của các ngành kinh tế khác nhau diễn ra
sự phân tầng của nhiều loại trình độ công nghệ. Tương ứng với các loại trình độ công
nghệ là trình độ kiến thức, tay nghề, mức thu nhập, tâm lý, tình cảm khác nhau của
công nhân dẫn đến phân hoá ngay trong cùng một doanh nghiệp. Luật pháp, chính
sách, cơ chế liên quan đến đời sống, việc làm của công nhân lại chưa theo kịp với
tình hình. Công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước (trước đây gọi là doanh
nghiệp quốc doanh) giảm mạnh do tiến trình cổ phần hoá.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới
toàn diện (năm 1986), số lượng doanh nghiệp là 14 nghìn xí nghiệp, công ty với trên
3 triệu công nhân. Đến năm 2001, chỉ còn 5.231 doanh nghiệp với 1,85 triệu công
nhân. Đến năm 2002, cả nước có 900 doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá.
Đến cuối tháng 6 - 2005 có 2.384 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá. Như vậy,
số công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước, sau khi cổ phần hoá, đã được chuyển

sang các doanh nghiệp cổ phần hoá, làm cho số công nhân ngoài khu vực kinh tế nhà
nước tăng đáng kể. Trước năm 1986 và những năm đầu đổi mới, khu vực kinh tế nhà
nước gần như rơi vào tình trạng ngưng trệ, nhưng từ năm 1991 đến nay, đã phát triển
khá nhanh. Đến năm 2002, có xấp xỉ 50 nghìn doanh nghiệp ngoài nhà nước với 1,4
triệu công nhân. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngoài nhà nước chủ yếu là doanh
nghiệp nhỏ, chỉ có một số rất ít có quy mô sử dụng lao động từ 500 đến l.000 công
nhân. Công nhân khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gồm khoảng 600 nghìn
lao động làm việc trong hơn 2 nghìn doanh nghiệp (có 466 nghìn công nhân làm việc
trong 1.337 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Công nhân Việt Nam lao động ở
nước ngoài tính đến nay có khoảng 450 nghìn người. Công nhân trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước (có sách, báo viết là doanh nghiệp dân doanh) nhìn chung trẻ,
xuất thân từ nông dân, tay nghề thấp, chưa được đào tạo cơ bản, chưa được giác ngộ
chính trị. Tiền lương thấp, thậm chí trong doanh nghiệp dân doanh không có thang
lương, bảng lương theo quy định của luật pháp.
Từ ngày đất nước bước vào thực hiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp quốc
doanh đang đi dần vào cổ phần hoá. Rất nhiều doanh nghiệp tư nhân (gọi là dân
doanh) trong và ngoài nước mọc lên. Công nhân ở những doanh nghiệp này, trên thực
tế, trở thành người làm thuê, làm công ăn lương. Chủ doanh nghiệp, trên thực tế, họ
là nhà tư bản. Chỗ khác nhau giữa chủ xí nghiệp, nhà máy của những năm 30 – 40 thế
kỷ XX với chủ doanh nghiệp hiện nay là chủ xí nghiệp, nhà máy của những năm 30 40 thế kỷ XX ở Việt Nam 1à sống dưới chế độ thực dân, đế quốc phong kiến, còn chủ
doanh nghiệp hiện nay là sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Công nhân làm việc
theo chế độ hợp đồng. Ngoài đồng lương ra, hầu như không có các khoản phúc lợi
nào khác đáng kể. Ngay như nhà ở tập thể của công nhân, chủ doanh nghiệp cũng
không giải quyết được. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố lớn, các khu công nghiệp
tập trung chưa xây dựng nhà ở lưu trú cho công nhân. Cả nước hiện có 131 khu công
nghiệp, khu chế xuất với 900 nghìn công nhân, nhưng chỉ có 2% số công nhân được
thuê nhà ở do doanh nghiệp xây dựng. Đồng lương rẻ mạt, điều kiện ăn, ở không có,
sinh hoạt văn hoá, tinh thần nghèo nàn đã dẫn đến sự bần cùng hoá công nhân trong



hoàn cảnh mới. Rất nhiều nữ công nhân ở nông thôn vào các doanh nghiệp cổ phần
hoá và tư nhân, ban ngày đi làm việc, ban đêm cũng đi “làm việc” để kiếm thêm đồng
lương mà chị em gọi đó là “lương phụ”. Gọi là “lương phụ”, nhưng nhiều khi thu
nhập lại cao hơn lương chính.
Ở lại nông thôn không có việc làm, vào doanh nghiệp, đồng lương chết đói, biết
thế, nhưng vẫn phải làm thế, vì nếu không làm, thì biết đi đâu, về đâu và làm gì?
Trong bối cảnh như vậy, công nhân làm việc trong các doanh nghiệp cổ phần hoá và
tư nhân đều không có điều kiện trở thành cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ
chuyên môn. Có người nói rằng, tình cảnh của công nhân Việt Nam hiện nay không
hơn gì tình cảnh công nhân Anh hồi thế kỷ XIX mà Ph.Ăngghen đã mô tả trong tác
phẩm “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”.
Tình hình trên đã dẫn đến những cuộc đình công của công nhân đang có những
diễn biến phức tạp. Đến nay, cả nước đã xảy ra trên 1.370 vụ đình công. Riêng năm
2006, xảy ra 390 vụ và từ đầu năm 2007 đến nay là gần 70 vụ.
4. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giai cấp công nhân Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Theo một số thống kê, đến năm 2010, giai cấp công nhân Việt Nam có thể sẽ có
khoảng từ 15 đến 16 triệu người. Con số dự báo này có phần hơi cao khi chúng ta
nhìn vào các cơ sở đào tạo ngành, nghề hiện nay ở Việt Nam hiện rất ít và chất lượng
đào tạo thấp.
Để nâng cao chất lượng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta phải làm gì?
- Đảng phải hết sức quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo giai cấp công nhân trong tiến trình
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng phải có nghị quyết mới về
giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết này phải đánh giá đúng thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay,
từ đó mà có những giải pháp cụ thể xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam phát triển
mạnh cả về số lượng và chất lượng; có uy tín chính trị với dân tộc Việt Nam, nhân
dân Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước. Làm thế nào để nhân dân Việt Nam,
nhất là đối với lớp trẻ, có quyền tự hào về giai cấp công nhân của mình, một giai cấp

có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường và xây dựng đất nước kiên cường.
Đảng phải có kế hoạch tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở đảng và phát triển đảng
viên trong các doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đảng phải có chương trình, kế hoạch cụ thể đào tạo đội ngũ cán bộ, trước hết là cán
bộ công đoàn trong giai cấp công nhân. Định kỳ, các cấp lãnh đạo đảng, chính quyền
địa phương, công đoàn tiếp xúc với công nhân, giải quyết những vấn đề bức xúc của
công nhân. Đảng phải thấy rằng, với hiện trạng tỷ lệ lao động có trình độ cao hiện
còn rất thấp, lao động chưa qua đào tạo còn nhiều, giai cấp công nhân rất khó đáp
ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, do đó, đòi
hỏi Đảng phải đổi mới căn bản chiến lược và chính sách đạo tạo nguồn nhân lực cho
đất nước, trước hết là đào tạo giai cấp công nhân.
Phấn đấu trong một thời gian gần, tất cả các doanh nghiệp quốc doanh, cổ phần
hoá, tư doanh (kể cả các doanh nghiệp của người nước ngoài) đều phải tổ chức công


đoàn, công nhân lấy đó làm đoàn thể hoạt động và đây cũng là nơi gửi gắm tư tưởng,
tình cảm của mình đối với Đảng, Nhà nước, đoàn thể và nhân dân.
- Đối với Nhà nước phải có chính sách nhà ở, tiền lương, thực hiện ký kết thoả
ước lao động tập thể, hợp đồng lao động, thiết chế văn hoá trong tất cả các doanh
nghiệp để bảo vệ lợi ích chính đáng cho công nhân, ít nhất cũng phải giải quyết cho
công nhân những quyền lợi cơ bản như vấn đề ăn, ở, sinh hoạt văn hoá, tinh thần,
bằng phương tiện công để đi làm việc.
Nhà nước nên có sự tính toán cẩn trọng trong việc cổ phần hoá các doanh nghiệp
nhà nước, đừng nên biến các doanh nghiệp này, tài sản và vốn có của nhà nước, bỗng
dưng biến thành của một nhóm người tư nhân, trong đó có cả cán bộ nhà nước. Liên
Xô trước đây, khi tổng kết về chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1941 - 1945) rút ra kinh
nghiệm là trong chiến tranh nếu không có các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh giúp
sức, thì cuộc chiến tranh rất khó kết thúc, vì không đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật để
phục vụ cho chiến tranh và tiến hành chiến tranh. Thời bình, kinh tế phát triển có thể
dựa vào tất cả các thành phần kinh tế, nhưng thời chiến, kinh tế của đất nước lại phải

dựa vào các cơ sở quốc doanh là chủ yếu.
Nhà nước cũng cần đứng ra giải quyết vấn đề phân hoá giàu nghèo ngày càng bộc
lộ rõ và phức tạp trong giai cấp công nhân. Hiện nay, những người có cổ phần hoá
trong nhà máy, bỗng dưng trở thành “công nhân quý tộc”, còn những công nhân
không có cổ phần hoá, vẫn chỉ là công nhân làm thuê, gây nên mâu thuẫn mới trong
nội bộ giai cấp công nhân.
- Đối với bản thân đội ngũ công nhân Việt Nam phải biết phát huy truyền thống,
chủ nghĩa yêu nước của người công nhân phải được nâng lên trong hoàn cảnh mới;
phải học tập, rèn luyện, tự ý thức vươn lên nắm lấy đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật,
công nghệ. Khi công nhân đã chiếm được đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật, công
nghệ, thì anh ta có khả năng làm chủ được nhà máy về mặt kỹ thuật, luôn luôn có
sáng kiến, cải tiến kỹ thuât, làm sao cho chủ doanh nghiệp buộc phải tôn trọng anh ta
và sử dụng anh ta ở mức tối đa. Đối với những công nhân lao động phổ thông, thì
phải thể hiện tinh thần làm việc, tính tổ chức, kỷ luật, làm việc có năng suất cao, chất
lượng tốt để cho chủ doanh nghiệp, nhất là chủ doanh nghiệp người nước ngoài, phải
phục công nhân Việt Nam làm việc có ý thức tổ chức kỷ luật, có tay nghề cao, năng
suất cao, chất lượng tốt.
Các nhà khoa học cần tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tư vấn, tham
mưu cho Đảng và Nhà nước để có những giải pháp hữu hiệu nhằm phát triển cả về số
lượng và chất lượng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới.
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các tổ chức chính
quyền nhà nước, các đoàn thể nhân dân và toàn thể nhân dân.
PGS.
TS,
Đàm
Đức
Vượng
(Hội đồng Lý luận Trung ương)

Website Báo Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 22/8/2007


Một số ý kiến về định nghĩa, đặc điểm của giai cấp công nhân việt nam hiện
nay
I. Về định nghĩa giai cấp công nhân Việt Nam
Trong các sách báo và tài liệu trong nước những năm gần đây, có nhiều tác giả
bàn đến giai cấp công nhân Việt Nam, vai trò và sứ mạng của nó trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc và trong công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, qua theo dõi các tài
liệu hiện có, chúng tôi cho rằng, có lẽ hiện nay chưa có cách hiểu thống nhất về thế
nào là giai cấp công nhân hiện đại và giai cấp công nhân Việt Nam. Nếu không xác
định được rõ ràng giai cấp công nhân Việt Nam là gì và ai sẽ được đưa vào thành
phần của giai cấp công nhân thì chúng ta sẽ không thể làm rõ được thực trạng và
không làm rõ được thực trạng thì không thể đưa ra được các giải pháp để xây dựng và
phát triển giai cấp đó.
Để giải quyết vấn đề thế nào là giai cấp công nhân Việt Nam, theo chúng tôi,
trước hết, cần trở lại những quan điểm cơ bản của C. Mác, Ph. Ăngghen và Hồ Chí
Minh về giai cấp công nhân, những người đã đặt nền móng cho cách hiểu về giai cấp
công nhân nói chung và giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng. Trong những tác
phẩm quan trọng của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu ra những chỉ dẫn quan
trọng về giai cấp công nhân mà các ông gọi là giai cấp vô sản như:
- Giai cấp vô sản là giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống vào việc phải bán sức lao
động của mình, chứ không phải sống dựa vào lợi nhuận của bất cứ tư bản nào.
- Giai cấp vô sản hay là giai cấp của những người vô sản là giai cấp lao động thế
kỷ XIX.
- Giai cấp vô sản là giai cấp do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra.
- Giai cấp vô sản là giai cấp những người công nhân làm thuê hiện đại.
- Sự ra đời của giai cấp vô sản gắn với nền đại công nghiệp hiện đại và là sản
phẩm của nền đại công nghiêp. “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai
cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai cấp khác

đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; giai cấp vô sản
trái lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”.
- Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra
những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô sản.
Chúng ta có thể nhận thấy C. Mác và Ph. Ăngghen đã có nhiều chỉ dẫn quan
trọng về giai cấp công nhân. Những điều mà các ông nói về giai cấp công nhân như
vậy là cơ sở phương pháp luận để xem xét giai cấp công nhân ngày nay.
Có thể thấy, C. Mác và Ph. Ăngghen định nghĩa giai cấp công nhân thông qua 2
khía cạnh cơ bản, đó là: thứ nhất, thông qua nghề nghiệp, thông qua tài sản, v.v. và
thứ hai, thông qua địa vị lịch sử và vai trò của giai cấp đó trong hệ thống sản xuất.
Theo cách định nghĩa thứ nhất, trong quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen,
người công nhân trước hết là người vô sản, là những người lao động, không có tài
sản, hoàn toàn chỉ sống dựa vào việc phải bán sức lao động, là những người làm thuê
hiện đại, là những người lao động trong nhà máy và không có tư liệu sản xuất. Vì
không có tư liệu sản xuất nên buộc phải đi bán sức lao động và trở thành người làm
thuê.


Theo cách định nghĩa thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp gắn liền với nền đại
công nghiệp hiện đại và là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân là
giai cấp thực sự cách mạng, có sứ mạng lịch sử là xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới, v.v..
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển những quan điểm của C. Mác và
Ph. Ăngghen về giai cấp công nhân để xây dựng quan niệm về giai cấp công nhân
Việt Nam. Những quan niệm của Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân Việt Nam có
thể được trình bày một cách vắn tắt trên một số điểm sau đây:
Thứ nhất, trong xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến, công nhân là những
người lao động làm thuê cho chủ nghĩa tư bản đế quốc, bị bóc lột nặng nề. Người
viết: “Tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống,
là công nhân. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay là trong nông nghiệp, bất kỳ

họ làm nghề gì cũng đều thuộc về giai cấp công nhân.
Chủ chốt của giai cấp ấy là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy, hầm
mỏ, xe lửa, v.v. Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa
hàng, những cố nông, v.v., cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân
công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân” . Đây có thể
coi là một trong những định nghĩa của Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân. Giai cấp
công nhân, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, là tất cả những người không có tư liệu
sản xuất, phải bán sức lao động để kiếm sống. Khái niệm giai cấp công nhân như vậy
là rất rộng, nhưng trong quan niệm của Người, chỉ có giai cấp công nhân công
nghiệp, làm việc trong nhà máy mới đại diện tiêu biểu cho giai cấp công nhân.
Thứ hai, sau khi cách mạng giành được chính quyền nhà nước, công nhân không
còn là người làm thuê nữa mà cùng với tầng lớp nhân dân lao động khác trở thành
người làm chủ nhà nước về mọi mặt, làm chủ cả trong sản xuất lẫn phân phối. Người
viết: “Công nhân ta chẳng những không còn là người “culi” như dưới chế độ thực dân
phong kiến, mà cũng không phải là người vô sản theo nghĩa đen của chữ đó, tức là
không có của cải gì. Ngày nay, công nhân ta là người làm chủ tập thể của các xí
nghiệp, là giai cấp lãnh đạo nước nhà” .
Thứ ba, công nhân là những người đấu tranh dũng cảm nhất, cách mạng nhất.
Nhờ có lý luận cách mạng soi đường, công nhân đã trở thành lực lượng lãnh đạo cách
mạng. Đồng thời, giai cấp công nhân có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của
mình nhờ có Đảng tiên phong, có liên minh công nông vững chắc, có công đoàn làm
trường học cách mạng của giai cấp. Hồ Chí Minh viết: "Đặc tính cách mạng của giai
cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp
tiên tiến nhất trong sản xuất, gánh vác trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc,
để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng
cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời tinh thần đấu tranh của họ
ảnh hưởng và giáo dục tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và
hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo” .
Thứ tư, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa xã hội
là phải nâng cao năng suất lao động và tham gia quản lý sản xuất, quản lý xã hội, đi

tiên phong trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa… “Ai xây dựng chủ


×