Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Học thuyết chính trị đạo đức của nho giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.95 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

TÊN ĐỀ TÀI

HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - ĐẠO ĐỨC CỦA NHO
GIÁO Ở VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN

GVHD
Học viên
Chuyên ngành
Khóa

: PGS.TS Lê Hữu Ái
: Đặng Văn Nghĩa
: Khoa học máy tính
: K31

Đà Nẵng 09/2015


-1MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC .......................................................................................................................1
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 2
CHƢƠNG 1. HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - ĐẠO ĐỨC CỦA NHO GIÁO Ở TRUNG
QUỐC CỔ ĐẠI ...............................................................................................................3
1.1. Cở sở kinh tế - xã hội và tiền đề tƣ tƣởng đối với sự hình thành Nho giáo .........3


1.2. Một số tƣ tƣởng cơ bản của Nho giáo về Chính trị - đạo đức .............................. 4
1.2.1. Quan điểm của Nho giáo về con ngƣời ........................................................ 4
1.2.2. Quan điểm của Nho giáo về xã hội lý tƣởng ................................................6
1.2.3. Quan điểm của Nho giáo về đƣờng lối trị nƣớc (tƣ tƣởng đức trị) ..............7
CHƢƠNG 2. NHO GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CON NGƢỜI VIỆT
NAM DƢỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN ...........................................................................9
2.1. Nho giáo trong hệ tƣ tƣởng Nho - Phật - Lão ở Việt Nam...................................9
2.2. Nho giáo ngày càng trở thành công cụ tinh thần của các triều đại phong kiến
Việt Nam....................................................................................................................10
CHƢƠNG 3. VAI TRÒ CỦA NHO GIÁO TRONG VIỆC HOẠCH ĐỊNH ĐƢỜNG
LỐI CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM ......................................................... 13
3.1. Chế độ phong kiến Việt Nam và đặc điểm của nó. ............................................13
3.2. Nho giáo – cơ sở tƣ tƣởng chủ yếu để định ra và thực hiện đƣờng lối đức trị...14
3.3. Nho giáo – cơ sở tƣ tƣởng để chế định pháp luật và hoạch định việc giáo dục,
khoa cử. .....................................................................................................................15
KẾT LUẬN ...................................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 20

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


-2MỞ ĐẦU
Nho giáo với tƣ cách là học thuyết Chính trị - đạo đức xuất hiện ở Trung Quốc
và đã có mặt ở Việt Nam hàng ngàn năm. Ở Việt Nam, đặc biệt từ thế kỷ XI đến nửa
đầu thế kỷ XIX, các triều đại phong kiến đã tiếp nhận và chủ yếu sử dụng Nho giáo
làm hệ tƣ tƣởng và công cụ để trị nƣớc, đào tạo ra những con ngƣời phù hợp với yêu
cầu và mục đích của giai cấp phong kiến thống trị. Là một bộ phận của kiến trúc
thƣợng tầng xã hội, là ý thức hệ và công cụ thống trị của các triều đại phong kiến Việt
Nam, Nho giáo đã ảnh hƣởng đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã
hội và con ngƣời Việt Nam, đến quá trình hình thành, phát triển của xã hội và chế độ

phong kiến Việt Nam.
Có thể nói, từ khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã đƣợc các triều đại phong
kiến và các tầng lớp ngƣời Việt Nam tiếp nhận chủ yếu từ phƣơng diện học thuyết
Chính trị - đạo đức, đạo đức. Và ngay cả ở phƣơng diện này thì phạm vi, tính chất và
mức độ tiếp nhận cũng khác nhau trong mỗi triều đại phong kiến và trong từng giai
đoạn phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Sở dĩ nhƣ vậy, xét đến cùng là do
điều kiện kinh tế - xã hội, yêu cầu của sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam
trong mỗi giai đoạn quy định và nhu cầu cai trị, quản lý xã hội của mỗi một triều đại
phong kiến chi phối. Tất nhiên, chủ nghĩa yêu nƣớc là truyền thống của dân tộc Việt
Nam là nhân tố chính vì vậy mà Nho giáo đƣợc du nhập, tồn tại ở Việt Nam không
hoàn toàn là Nho giáo Trung Quốc, không đƣợc tiếp nhận với tƣ cách là một hệ thống
hoàn chỉnh, mà nó đƣợc tiếp nhận từng mảng, tiếp nhận trên cơ sở chọn lọc, biến đổi,
cải tiến và đơn giản hóa nhằm phục vụ những nhiệm vụ chính trị thực tiễn của giai cấp
phong kiến và của dân tộc. Nho giáo đó là Nho giáo Việt Nam. Điều này dễ nhận thấy
khi nghiên cứu sự thể hiện của nó ở Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Chính vì vậy mà tôi cho rằng, vấn đề trên cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ
thêm trong tiểu luận này. Cho nên tôi đã chọn đề tài “Học thuyết chính trị - Đạo đức
của Nho giáo ở Việt Nam thời phong kiến”.

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


-3-

CHƢƠNG 1. HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ - ĐẠO ĐỨC CỦA NHO GIÁO Ở
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1. Cở sở kinh tế - xã hội và tiền đề tƣ tƣởng đối với sự hình thành Nho giáo
Là học thuyết Chính trị - đạo đức và là một bộ phận kiến trúc thƣợng tầng, Nho
giáo cũng nảy sinh, tồn tại trên một cơ sở hạ tầng, một tồn tại xã hội nhất định. Tiểu
luận chỉ ra rằng, thời đại Khổng Tử là một thời kỳ xã hội Trung Quốc diễn ra những

biến đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội.
Từ sự biến đổi trong lĩnh vực kinh tế (lực lƣợng sản xuất phát triển, đặc biệt
trong lĩnh vực nông nghiệp, thủ công nghiệp và thƣơng nghiệp) đã ảnh hƣởng, tác
động và dẫn đến sự biến động trong lĩnh vực Chính trị - đạo đức: làm xuất hiện quá
trình giải thể hình thái chiếm hữu nô lệ để gia nhập vào hình thái phong kiến; các hình
thức sở hữu ruộng đất và đi liền với nó là kết cấu giai cấp – xã hội cũng thay đổi;
những mâu thuẫn vốn có và nảy sinh thêm trong lòng xã hội ngày càng trầm trọng; các
cuộc chiến tranh giữa các nƣớc chƣ hầu xảy ra thƣờng xuyên; địa vị và vai trò của vua
Thiên tử chỉ là hình thức; các quan hệ xã hội cơ bản bị đảo lộn; kỷ cƣơng, trật tự xã
hội theo mô hình nhà Chu bị vi phạm.
Thực tiễn xã hội đặt ra một vấn đề lớn: Làm thế nào để thiết lập lại trật tự, kỷ
cƣơng xã hội và điều quan trọng hơn là phải làm gì để đƣa xã hội phát triển đi lên.
Chính từ việc giải đáp nhiệm vụ thực tiễn đó đã làm xuất hiện nhiều học phái, nhiều
nhà tƣ tƣởng trong đó có Nho giáo.
Sự xuất hiện của Nho giáo nói chung, học thuyết Chính trị - đạo đức của Nho
giáo nói riêng còn trên cơ sở kế thừa, tiếp thu từ đời sống tƣ tƣởng của Trung Quốc từ
trƣớc đến bây giờ. Đó là tƣ tƣởng tôn giáo, trong đó Nho giáo đặc biệt tiếp thu tƣ
tƣởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”. “thời thƣợng đế”, “trời và ngƣời hợp nhất”. Đó là
tƣ tƣởng chính trị, Nho giáo tiếp thu tƣ tƣởng cho rằng, vì nhà Chu làm theo “mệnh
trời” mà thống trị đƣợc thiên hạ, đƣợc thay trời cai trị thiên hạ.
Đó là tƣ tƣởng đạo đức, Nho giáo tiếp nhận hai chữ Đức và Hiếu làm nòng cốt.
Trong đó nổi bật tƣ tƣởng mang đậm tính chính trị - tôn giáo rằng, vì các bậc tiên
vƣơng nhà Chu có đức, kính đức nên đƣợc sánh cùng Thƣợng đế và đƣợc Thƣợng đế
cho hƣởng nƣớc, hƣởng dân và rằng, các bậc tiên vƣơng có hiếu, luôn nhớ công ơn tổ
tiên, biết gìn giữ phép tắc của tổ tiên cho nên mới đƣợc nhận mệnh trời mà cai trị thiên
hạ. Từ đó, tiểu luận khẳng định Nho giáo tiếp nhận những tƣ tƣởng trên đây về thực
chất là tiếp nhận một phƣơng thức chính trị mà các tiên triều đã thực hiện và sử dụng
thần quyền để củng cố và thực hiện vƣơng quyền trong việc cai trị.
Tiểu luận còn chỉ rõ rằng, trong đời sống chính trị của Trung Quốc từ trƣớc đến
giờ, dù muồn hay không, không thể không quan tâm đến đời sống và vai trò của dân.


Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


-4Bởi vì ở Trung Quốc và các nƣớc phƣơng Đông, địa vị thống trị xã hội không phải bao
giờ cũng đƣợc quyết định trực tiếp bởi địa vị kinh tế.
Khác với các gia giáo khác, Nho giáo đặc biệt đề cao và coi đạo đức, con ngƣời
có đạo đức là một trong những công cụ, phƣơng tiện chủ yếu nhất, hiệu quả nhất trong
việc đƣa xã hội từ loạn tới trị, do vậy, Nho giáo còn là một học thuyết đạo đức. Tất
nhiên học thuyết Chính trị - đạo đức gắn liền và đan xen với học thuyết đạo đức trong
cái chính thể Nho giáo.
1.2. Một số tƣ tƣởng cơ bản của Nho giáo về Chính trị - đạo đức
Trƣớc hết tiểu luận đã đƣa ra những căn cứ để khẳng định rằng, Nho giáo về cơ
bản là học thuyết Chính trị - đạo đức hay nói một cách khác, nội dung cơ bản, bao
trùm của Nho giáo là học thuyết Chính trị - đạo đức. Những căn cứ xuất phát để đi đến
sự khẳng định bao gồm: hoàn cảnh ra đời, phạm vi ứng dụng, vị trí, mối liên hệ và vai
trò của các bộ phận cấu thành (học thuyết triết học, Chính trị - đạo đức, đạo đức, quản
lý xã hội) của Nho giáo. Là học thuyết Chính trị - đạo đức, Nho giáo chủ yếu đề cập
đến những vấn đề cơ bản: Quan điểm về con ngƣời, về xã hội lý tƣởng và về đƣờng lối
Đức trị.
1.2.1. Quan điểm của Nho giáo về con ngƣời
Là tƣ tƣởng cơ bản nhất và bao trùm trong Nho giáo. Trong đó nổi bật là những
vấn đề về bản tính và vai trò của con ngƣời trong thế giới và là cơ sở để các nhà Nho
đề xuất ra học thuyết Chính trị - đạo đức, đạo đức và là căn cứ nhằm khẳng định tính
tuyệt đối của những nguyên lý cai trị của Nho giáo. Xung quanh vấn đề tính ngƣời,
nhà Nho tập trung lý giải một số vấn đề sau: Tính ngƣời là gì? do đâu mà có? tính
ngƣời có thể thay đổi, cải tạo đƣợc không và cải tạo bằng phƣơng pháp nào?
Lý giải về bản tính con ngƣời là gì cũng có nhiều quan niệm khác nhau, trái
ngƣợc nhau. Nếu Không Tử chƣa nói rõ bản tính của con ngƣời là thiện hay là ác thì
Mạnh Tử coi bản tính con ngƣời là thiện còn Tuân Tử lại cho là ác, Cáo Tử thì quan

niệm cái bản tính đó không thiện cũng không ác. Về sau, khi lý giải vấn đề này, phần
lớn các nhà Nho đều cho rằng, bản tính con ngƣời có cả thiện và ác. Nhƣ Đổng Trọng
Thƣ thì cho rằng con ngƣời có hai bản tính thiện và ác; Dƣơng Hùng thì lại khẳng
định, bản tính con ngƣời thiện ác lẫn lộn; Chu Đôn Di, Chu Hy thì cho rằng tính ngƣời
ta thiện ác lẫn lộn.
Khi lý giải về nguồn gốc của tính, giữa các nhà Nho cũng có những quan điểm
khác nhau. Mạnh Tử coi đó là cái nguyên sơ, ban đầu, ai cũng có và do trời phú cho.
Tuân tử thì cho rằng bản tính con ngƣời đƣợc quy định bởi những nhu cầu bản năng,
tự nhiên của con ngƣời. Với Đổng Trọng Thƣ thì bậc Thánh nhân vì bản tính của họ
do trời phú nên mới hoàn thiện, còn kẻ tiểu nhân luôn bị chi phối bởi vật dục nên bản

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


-5tính của họ là ác, đối với tầng lớp trung gian thì theo ông bản tính của họ vừa thiện vừa
ác.
Dù có những quan điểm khác nhau về tính, nguồn gốc của tính nhƣng các nhà
Nho đều khẳng định rằng, bản tính con ngƣời dù thế nào đi chăng nữa thì đều có thể bị
biến đổi hoặc có thể cải tạo đƣợc. Lý giải vấn đề này cũng có những ý kiến khác nhau
giữa các nhà Nho. Khổng Tử cho rằng, do “Tập” mà cái bản tính lành ban đầu của con
ngƣời có thể thay đổi. Mạnh Tử thì khẳng định rằng, cái bản tính thiện đó sẽ dễ bị biến
mất, nếu con ngƣời không biết bảo vệ, chăm sóc nó, hoặc bị vƣớng bởi những ham
muốn, dục vọng vật chất tầm thƣờng, trƣớc mắt.
Nhìn chung theo các nhà Nho, phƣơng thức tốt nhất, hiệu quả nhất để bản tính
con ngƣời luôn luôn thiện (Mạnh Tử), từ ác trở thành thiện (Tuân Tử) là con ngƣời
phải luôn tu dƣỡng, học tập và hành động theo điều kiện, phải có đạo đức nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, phải hành động theo ý trời, mệnh trời. Tuy nhiên, theo nhiều nhà Nho, kẻ
tiểu nhân, tầng lớp bị trị do ngay từ đầu đã đánh mất bản tính thiện do trời phú cho, lại
luôn bị vật dụng mê hoặc, luôn suy nhgiã và làm những điều ác, do vậy học luôn là
ngƣời bị cai trị, bị giáo hóa. Còn bậc thánh nhân, quân tử do tính của họ toàn thiện, lại

luôn tận tâm trong việc tồn tâm, tu dƣỡng, tính thiện, biết và sợ mệnh trời và hành
động theo ý trời mà họ luôn là ngƣời cai trị, giáo hóa ngƣời.
Nhƣ vậy, dù có những lý giải khác nhau về tính ngƣời, nhƣng điểm chung rất
cơ bản ở các nhà Nho là đề cao đến mức tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức, tu dƣỡng
đạo đức, vai trò của trời, mệnh trời cùng những nguyên tắc trị nƣớc của Nho giáo.
Về vai trò của con ngƣời các nhà Nho tập trung lý giải hai mối quan hệ: con
ngƣời với trời và con ngƣời với xã hội. Vai trò của con ngƣời trong hai mối quan hệ đó
đƣợc tập trung trong học thuyết Đạo làm ngƣời của Nho giáo.
Từ chỗ cho rằng vạn vật gốc ở trời và trời sinh ra con ngƣời, nhiều nhà Nho đã
lấy đó làm cơ sở để định rõ vị trí, vai trò của trời đối với con ngƣời và thái độ, trách
nhiệm của con ngƣời đối với trời. Theo nhiều nhà Nho, trời có đức, có đạo, có mệnh
và là chúa tể tối cao, quyết định mọi sự sinh thành, biến hóa của vũ trụ, vạn vật, có
quyền uy tuyệt đối với con ngƣời. Vì vậy mà theo họ, tri thiên mệnh, úy thiên mệnh là
một điều cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với con ngƣời. Do vậy mà trách
nhiệm, bổn phận của con ngƣời là phải suy nghĩ, hành động đúng với đạo trời, mệnh
trời. Nếu không sẽ mắc tội với trời và bị trời trừng phạt. Nhƣ vậy, khi lý giải về mối
quan hệ giữa trời và ngƣời, trong tƣ tƣởng của nhà Nho về cơ bản là duy tâm.
Về vai trò của con ngƣời trong các mối quan hệ xã hội cơ bản, Nho giáo nhìn
nhận con ngƣời từ nhiều phƣơng diện: Từ phƣơng diện đạo đức, Nho giáo đề cập đến
quan hệ Quân tử - tiểu nhân. Từ phƣơng diện lao động xã hội, Nho giáo bàn đến mối
quan hệ thông trị - bị trị, vua – tôi, vua – dân. Từ phƣơng diện thiết chế xã hội, Nho
Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


-6giáo đƣa ra các quan hệ: trong gia đình đó là các quan hệ cha – con, chồng – vợ, anh –
em; trong xã hội, đó là các quan hệ bằng - hữu, trên – dƣới, thiên tử - thiên hạ,… Ứng
với từng mối quan hệ đó, Nho giáo lại đƣa ra những quy phạm, chuẩn mực đạo đức để
ràng buộc con ngƣời, định rõ trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình và ngoài
xã hội. Tuy nhiên, vai trò của con ngƣời đƣợc đề cập, quan tâm nhiều nhất ở các nhà
Nho là ba mối quan hệ (Tam cƣơng) với năm đức chủ yếu (Ngũ thƣờng).

Trong quan hệ cha mẹ - con cái, Nho giáo đƣa ra hai chuẩn mực đạo đức: Tử và
Hiếu. Theo đó, cha mẹ phải thƣơng yêu con cái, con cái phải hiếu, kính cha mẹ. Tuy
nhiên, từ Đổng Trọng Thƣ trở đi, Nho giáo đặc biệt đề cao địa vị, uy quyền tuyệt đối
của ngƣời cha đối với con cái. Chính vì vậy mà Nho giáo luôn coi trọng đức hiếu, tức
nhấn mạnh trách nhiệm của con cái đối với cah mẹ; ngƣời con có hiếu mới là ngƣời có
nhân, lễ, nghĩa, trí.
Trong quan hệ chồng – vợ, Nho giáo đƣa ra chuẩn mực đạo đức đó là đức
Nghĩa để ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm giữa vợ chồng với nhau. Mặc dù vậy, từ
Đổng Trọng Thƣ trở đi, nhà Nho luôn đề cao vị trí vai trò lớn hơn của ngƣời chồng đối
với ngƣời vợ, ngƣời phụ nữ chỉ đƣợc coi là đạo đức, có tiết hạnh là phải tuyệt đối vâng
phục quyền uy, mệnh lệnh của ngƣời chồng, của gia đình chồng.
Trong quan hệ vua – tôi thì riêng khái niệm “tôi” lại bao gồm ba loại đối tƣợng:
Thứ nhất chỉ mọi ngƣời nói chung dƣới quyền thống trị của nhà vua, thứ hai là chỉ dân
– lực lƣợng đối lập với giai cấp thống trị, thứ ba là chỉ những ngƣời giúp nhà vua trong
việc cai trị. Và dù ở thành phần nào thỉ theo nhà Nho, trách nhiệm và nghĩa vụ của bề
tôi là phải tận trung với nhà vua. Trong quan hệ với bề tôi, vì nhà vua còn là cha mẹ
của bền tôi, do vậy đức trung của bề tôi còn là đức hiếu. Vua còn đƣợc coi là thiên tử,
đƣợc thay trời trị dân, trị thiên hạ. Nhiệm vụ của nhà vua là phải dƣỡng dân, giáo hóa
dân; còn dân thì phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, ý chí của nhà vua, cũng tức là
phục tùng mệnh lệnh, ý chí của trời.
Việc Nho giáo đề cao đến mức tuyệt đối hóa vai trò cùa nhà vua, đạo đức của
nhà vua và ở chừng mực nhất định đề cao vai trò của dân, xét đến cùng và về thực chất
cũng nhằm mục đích là duy trì, bảo vệ trật tự, cơ cấu giai cấp của chế độ phong kiến,
địa vị thống trị và lợi ích của giai cấp phong kiến.
1.2.2. Quan điểm của Nho giáo về xã hội lý tƣởng
Xã hội lý tƣởng là một khái niệm dùng để chỉ một xã hội, một trạng thái xã hội
phát triển cao nhất và hoàn thiện nhất. Xã hội đó không chỉ là mục đích cuối cùng, là
ƣớc vọng của một giai cấp mà còn là căn cứ định hƣớng và chi phối toàn bộ hoạt động
của giai cấp đó. Quan điểm của Nho giáo về xã hội lý tƣởng đƣợc thể hiện tập trung
trong học thuyết Chính trị - đạo đức.


Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


-7Trong quan điểm về xã hội lý tƣởng, Nho giáo đƣa ra ba đặc trƣng cơ bản: Một
là, đó là một xã hội thái bình, ổn định, có trật tự, kỷ cƣơng, mọi ngƣời đƣợc chăm sóc,
nuôi dƣỡng, bình đẳng và mọi cái đều là của chung. Hai là, đó là một xã hội có đạo
đức và có đời sống vật chất tƣơng đối đầy đủ. Ba là, đó là một xã hội có giáo dục, mọi
ngƣời trong xã hội phải đƣợc giáo dục, giáo hóa. Mặc dù vậy, xã hội lý tƣởng trong
quan điểm của nhà Nho cũng chỉ là một xã hội đẳng cập, xã hội phong kiến mà thôi, là
cái xã hội mà trong đó giai cấp phong kiến mãi mãi là giai cấp thống trị.
1.2.3. Quan điểm của Nho giáo về đƣờng lối trị nƣớc (tƣ tƣởng đức trị)
Nhằm khắc phục tình trạng rối loạn trong xã hội, đƣa xã hội từ loạn đến trị và
kiến tạo xã hội lý tƣởng, Nho giáo đƣa ra tƣ tƣởng đức trị. Tƣ tƣởng đức trị là những
quan niệm về đƣờng lối trị nƣớc, quản lý xã hội dựa trên những chuẩn mực đạo đức,
đó là hệ thống những nguyên tắc, quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi con ngƣời
trong các mối quan hệ xã hội, buộc mọi ngƣời phải tuân thủ một cách tự giác và nó
đƣợc củng cố bằng những tấm gƣơng đạo đức.
Nho giáo đặc biệt đề cao vai trò của đạo đức trong việc trị nƣớc. Theo đó, đạo
đức là công cụ, phƣơng tiện chủ yếu nhất của giai cấp phong kiến trong việc cai trị,
quản lý xã hội; là tiền đề, điều kiện quan trọng nhất để hình thành, hoàn thiện đạo đức
con ngƣời, góp phần củng cố, duy trì trật tự, kỷ cƣơng và ổn định xã hội; là phƣơng
thức cơ bản nhất để tạo ra mẫu ngƣời lý tƣởng cần có và xã hội lý tƣởng.
Tƣ tƣởng “Đức trị” trong học thuyết Chính trị - đạo đức của Nho giáo gồm các
nội dung chủ yếu sau: Nhân - lễ - chính danh; vai trò của đạo đức và tu dƣỡng đạo đức
của nhà vua, kẻ cầm quyền trong việc thi hành đƣờng lối đức trị; vai trò của dân.
Ở Nho giáo, Nhân – Lễ - Chính danh vừa là những chuẩn mực đạo đức cơ bản
vừa là phƣơng thức chủ yếu để thực thi đƣờng lối đức trị nhằm mục đích chính trị.
Trong tƣ tƣởng đức trị, đạo đức, sự tu dƣỡng đạo đức của nhà vua, kẻ cầm quyền gắn
liền và quyết định sự thành bại của việc cai trị, sự hƣng vong của chế độ, của triều đại.

Do đó Nho giáo luôn yêu cầu nhà vua, kẻ cầm quyền phải thƣờng xuyên tu dƣỡng đạo
đức mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Ngoài ra, Nho giáo coi việc nhà vua nêu gƣơng
đạo đức và thi hành đạo đức có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện thành công
đƣờng lối Đức trị.
Đề cập vai trò của dân, Nho giáo coi dân là lực lƣợng to lớn trong xã hội, là gốc
của nƣớc là nền tảng của nền chính trị. Tuy nhận thấy vai trò to lớn và ảnh hƣởng của
dân đối với sự thịnh trị, thành bại của chế độ, nhƣng Nho giáo chƣa đi đến nhận thức
đúng đối với sự thịnh trị, thành bại của chế độ, nhƣng Nho giáo chƣa đi đến nhận thức
đúng rằng, dân là lực lƣợng sáng tạo ra lịch sử và thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt
của lịch sử. Họ đƣợc coi là gốc, là quý nhƣng không bao giờ là chủ và không đƣợc làm
chủ.

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


-8Từ việc coi dân là gốc của nƣớc nhƣng dân chỉ là ngƣời bị cai trị, bị sai khiến
và hèn kém về đạo đức, cho nên Nho giáo luôn yêu cầu nhà vua, kẻ cai trị phải dƣỡng
dân và giáo hóa dân. Có nhƣ vậy theo Nho giáo nhà vua mới đƣợc lòng tin của dân,
mới giữ đƣợc dân, mới duy trì đƣợc địa vị và quyền lợi thống trị của mình. Tất nhiên,
với ngƣời dân nào không tuân theo và làm trái với giáo huấn của vua thì Nho giáo yêu
cầu nhà vua, kẻ cầm quyền phải dùng pháp luật, hình phạt.
Nho giáo đề cao vai trò của đạo đức, của đƣờng lối đức trị, về cơ bản cũng
nhằm duy trì, bảo vệ trật tự, kỷ cƣơng của chế độ phong kiến và địa vị, quyền lợi của
giai cấp phong kiến thống trị.
Nhƣ vậy nội dung cơ bản, bao trùm của Nho giáo là học thuyết Chính trị - đạo
đức. Cái cốt lõi trong học thuyết này là vấn đề con ngƣời, đạo đức của con ngƣời và xã
hội. Nho giáo đặc biệt coi trọng, đề cao vai trò của nhà vua nói chung và đạo đức của
nhà vua nói riêng trong việc tu, tề, trị, bình, ổn định và phát triển xã hội. Chính vì vậy
mà Nho giáo không tránh khỏi tính chất duy tâm và siêu hình. Tất cả chỉ là để đi đến
mục đích cuối cùng nhằm củng cố, bảo vệ chế độ phong kiến, vĩnh viễn hóa địa vị,

quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị. Vì vậy mà Nho giáo không thể không
chứa đựng những hạn chế, càng không thể là cái cần có cho mọi ngƣời, mọi xã hội,
cho mọi giai đoạn phát triển của xã hội loài ngƣời.

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


-9-

CHƢƠNG 2. NHO GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CON NGƢỜI
VIỆT NAM DƢỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN
Trong chƣơng này, bài tiểu luận trình bày hai nội dung: nho giáo trong hệ tƣ
tƣởng Nho - Phật – Lão và Nho giáo ngày càng trở thành công cụ tinh thần của các
triều đại phong kiến Việt Nam.
2.1. Nho giáo trong hệ tƣ tƣởng Nho - Phật - Lão ở Việt Nam
Trƣớc hết, tiểu luận phân tích khái niệm hệ tƣ tƣởng và vai trò của hệ tƣ tƣởng
trong đời sống tinh thần của con ngƣời.
Hệ tƣ tƣởng là “hệ thống những quan điểm, tƣ tƣởng thể hiện lợi ích căn bản
của một giai cấp nhất định, đƣợc cụ thể hóa trong cƣơng lĩnh chính trị, trong đƣờng lối
chiến lƣợc và sách lƣợc của chính Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nƣớc”.
Hệ tƣ tƣởng chính trị hình thành một cách tự giác và đƣợc các nhà tƣ tƣởng
truyền bá. Nó phản ánh những lợi ích và địa vị căn bản của các giai cấp và mối quan
hệ Chính trị - đạo đức giữa các giai cấp đó trong việc quản lý xã hội, bảo vệ đất nƣớc.
Tiểu luận cũng chỉ ra rằng, hệ tƣ tƣởng chính trị của giai cấp thống trị, thông
qua các tổ chức Nhà nƣớc, đƣờng lối và cƣơng lĩnh chính trị của giai cấp đó đóng vai
trò to lớn trong lĩnh vực kinh tế, tinh thần của xã hội. Nó là nhân tố chủ đạo, xâm
nhập, chi phối, quy định phƣơng hƣớng chính trị của các hình thái ý thức xã hội khác
nhƣ pháp luật, đạo đức, khoa học,… Hệ tƣ tƣởng chính trị của giai cấp thống trị còn là
công cụ thống trị và quản lý xã hội của giai cấp đó, và vì vậy nó có vai trò nhất định
đến sự phát triển của xã hội, đến tiến trình phát triển của lịch sử. Vai trò tích cực hay

tiêu cực của hệ tƣ tƣởng của một giai cấp chủ yếu là do tính chất, vai trò lịch sử của
giai cấp đó quyết định.
Cấu trúc của hệ tƣ tƣởng chính trị bao gồm những tƣ tƣởng, quan điểm về chính
trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, triết học. Tất nhiên vị trí, vai trò của các yếu tố trong
hệ tƣ tƣởng là khác nhau.
Thứ hai, tiểu luận tập trung vào việc phân tích vị trí, vai trò, phạm vi của Nho
giáo trong hệ tƣ tƣởng Nho-Phật-Lão và trong mô thức “Tam giáo đồng nguyên” đối
với việc cai trị và quản lý xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Tiểu luận chỉ rõ rằng, từ thế kỷ XI trở đi, dƣới thời Lý – Trần, xuất phát từ điều
kiện kinh tế - xã hội, nhu cầu xây dựng và phát triển bộ máy Nhà nƣớc phong kiến
trung ƣơng tập quyền và nhu cầu cai trị và quản lý xã hội đồng thời nhằm thực hiện
những nhiệm vụ chính trị thực tiễn đặt ra cho giai cấp phong kiến và dân tộc, các nhà
tƣ tƣởng và các triều đại phong kiến Việt Nam đã lựa chọn cả Nho giáo, Phật giáo,
Đạo giáo làm hệ tƣ tƣởng và công cụ để thực hiện những nhiệm vụ và mục đích chính
trị trên đây. Tất nhiên, vai trò của mỗi “giáo” ấy là khác nhau. Vai trò chủ yếu của Nho
Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 10 giáo đƣợc các triều đại phong kiến sử dụng là trên lĩnh vực Chính trị - đạo đức: Xây
dựng và củng cố triều đại, là phƣơng tiện chủ yếu nhất trong việc cai trị, quản lý xã
hội, trong việc hoạch định và triển khai nền giáo dục – khoa cử… Vì vậy mà theo thời
gian, Nho giáo ngày càng có vị trí, vai trò to lớn hơn so với Phật giáo, Đạo giáo trong
việc đáp ứng những nhu cầu chính trị của các triều đại phong kiến dƣới thời Lý – Trần.
Tiểu luận cũng chỉ rõ, hiện tƣợng “Tam giáo đồng nguyên” ở cuối thế kỷ VIII
đầu thế kỷ XIX là do một số nhà Nho tiêu biểu đề xuất ra nhằm khắc phục sự suy yếu,
bất lực của Nho giáo, đồng thời theo các nhà Nho này, đó còn là phƣơng tiện hiệu quả
nhất, để khắc phục tình trạng suy yếu, khủng hoảng của chế độ phong kiến và sự rối
loạn trong xã hội phong kiến. Tất nhiên sự kết hợp ba giáo này là theo tinh thần “Dĩ
phật, Đạo nhập Nho”, là đề cao Nho giáo mà thôi. Mặc dù vậy, sự kết hợp này cho
thấy, Nho giáo ngày càng mất đi địa vị độc tôn của nó. Và trên thực tế, Nho giáo ngày

càng suy yếu, bất lực và không thể khắc phục có hiệu quả tình trạng suy yếu, khủng
hoảng của chế độ phong kiến.
Tiểu luận cho rằng, mặc dù dƣới thời Lê Sơ (thế kỷ XV) và thời Lê Trung
Hƣng (từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII) Nho giáo ở vị trí độc tôn, nhƣng nhà vua,
các triều đại phong kiến vẫn sử dụng Phật giáo, Đạo giáo nhằm những mục đích chính
trị là bảo vệ duy trì địa vị thống trị của giai cấp phong kiến, triều đại phong kiến.
2.2. Nho giáo ngày càng trở thành công cụ tinh thần của các triều đại phong kiến
Việt Nam.
Nho giáo du nhập vào nƣớc ta từ thời Bắc thuộc chủ yếu theo gót giày của quân
xâm lƣợc phƣơng Bắc và giao lƣu văn hóa. Là công cụ chủ yếu để thống trị, nô dịch
nhân dân ta, đồng hóa và biến nƣớc ta thành quận huyện của Trung Quốc, Nho giáo đã
bị nhân dân ta căm ghét, chống lại. Vì vậy, phạm vi ảnh hƣởng của Nho giáo ở nƣớc ta
trong thời kỳ này là hạn hẹp, chỉ giới hạn ở những nơi mà phong kiến đặt ách thống trị
và một bộ phận tầng lớp trên ngƣời Việt Nam mà thôi. Đa số ngƣời Việt Nam xa lánh,
xa lạ với Nho giáo. Tất nhiên, vì Nho giáo còn là một tri thức thức cần thiết cho con
ngƣời, cho nên một số ngƣời Việt Nam do đƣợc học Nho giáo và về sau đã biết vận
dụng ít nhiều kiến thức Nho học vào việc xây dựng, chỉ đạo hoạt động của bộ máy nhà
nƣớc, độc lập tự chủ sau các cuộc khởi nghĩa thắng lợi.
Dƣới các thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, mặc dù cơ sở kinh tế, giai cấp của chế độ
phong kiến và bộ mày Nhà nƣớc phong kiến trung ƣơng tập quyền ngày càng đƣợc
củng cố, nhƣng nhiệm vụ thực tiễn chủ yếu của bộ máy nhà nƣớc đó là phải tập trung
vào việc củng cố sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, là ổn định trật tự, kỷ cƣơng xã
hội, cho nên Nho giáo chƣa có điều kiện và cơ sở kinh tế - xã hội để phát triển và có
vai trò nhất định đối với con ngƣời. Các bộ sử nhƣ Đại Việt sử ký toàn thƣ, Lịch triều
hiến chƣơng loại chí đã cho biết rõ, ở nƣớc ta dƣới các triều đại này, Phật giáo là quốc
giáo, nhiều sƣ tăng đƣợc nhà vua trọng dụng, Phật giáo không chỉ ảnh hƣởng đến đông
Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 11 đảo quần chúng nhân dân mà ở cả triều đình. Ngoài ra, những hiện tƣợng vi phạm đạo

Tam cƣơng, Ngũ thƣờng thƣờng xuyên diễn ra, ngay cả ở chốn cung đình.
Từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV dƣới thời Lý – Trần, nhiệm vụ xây dựng và
phát triển đất nƣớc về mọi mặt là xu thế phát triển khách quan hợp quy luật của sự
phát triển. Nhằm mục đích chính trị này, triều đại phong kiến Việt Nam đã lựa chọn
Nho giáo làm hệ tƣ tƣởng, công cụ chính trị. Tất nhiên trong cái hệ tƣ tƣởng hỗn dung
Nho – Phật – Lão, Phật giáo đƣợc coi là quốc giáo, là tôn giáo của triều đình, nhƣng
theo thời gian, Nho giáo ngày càng phát triển, ngày càng có vai trò lớn hơn, đặc biệt
trong việc cai trị, quản lý xã hội, trong việc đào tạo nhân tài và bổ sung tầng lớp quan
lại có trị thức vào bộ máy nhà nƣớc. Mặc dù vậy, trong thời Lý – Trần, Phật giáo vẫn
có vị trí, vai trò, phạm vi ảnh hƣởng của nó rộng lớn hơn so với Nho giáo. Quá trình
Nho giáo hóa đời sống xã hội dƣới thời Trần gặp sự phản kháng từ nhiều phía, ngay cả
ở một số vua Trần. Ở làng xã, nhân dân chủ yếu vẫn sống theo phong tục, tập quán cũ
mà chƣa bị ràng buộc nhiều bởi những quy phạm Nho giáo.
Dƣới thời Lê Sơ (thế kỷ XV), đặc biệt dƣới thời Lê Thánh Tông trị vì (1460 1497), Nho giáo đã chiếm địa vị độc tôn trong lĩnh vực hệ tƣ tƣởng của triều đại phong
kiến và chi phối nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chủ yếu của đời sống tinh thần của xã hội,
con ngƣời. Giáo dục khoa cử Nho học là phƣơng thức chủ yếu để đào tạo nhân tài, là
phƣơng tiện căn bản để tuyển chọn quan lại tham gia vào bộ máy chính quyền, Nho
giáo còn là căn cứ, cơ sở để xây dựng và thực thi pháp luật. Việc các triều đại phong
kiến bằng nhiều cách để hạn chế Phật giáo cũng nhằm đề cao Nho giáo cùng các
nguyên tắc trị nƣớc, quản lý xã hội theo tinh thần Nho giáo.
Mặc dù dƣới thời Lê Trung Hƣng (từ 1527 đến 1789), Nho giáo vẫn đƣợc các
tập đoàn phong kiến lấy làm hệ tƣ tƣởng thống trị, là bệ đỡ chính trị, nhƣng Nho giáo
vẫn hoàn toàn bất lực, không sao khắc phục đƣợc đất nƣớc loạn ly bởi những cuộc
chiến tranh giữa các phe phái, tập đoàn phong kiến. Nhiều chuẩn mực, quy phạm,
nguyên tắc của Nho giáo bị vi phạm nghiêm trọng: đất nƣớc có nhiều vua, nhiều chúa,
ngôi vua chỉ là hình thức, nạn chiếm ngôi vua, bề tôi giết vua, diễn ra thƣờng xuyên
ngay cả chốn cung đình và Hoàng tộc. Đã xuất hiện sự phân hóa trong nội bộ các nhà
Nho, trong tƣ tƣởng và hành động của họ. Mặc dù có nhiều việc làm từ các nhà Nho
nhằm cứu vãn sự suy yếu và đề cao Nho giáo nhƣ các hoạt động Kinh học, Khảo cứu
học và “dĩ Phật, Đạo nhập Nho”, nhƣng vẫn không sao khôi phục địa vị, vai trò độc

tôn của nó dƣới thời Lê Sơ.
Đến đầu thế kỷ XIX dƣới triều Nguyễn, nhằm khắc phục sự suy yếu của chế độ
phong kiến và Nho giáo, nhà Nguyễn đã ra sức tuyên truyền Nho giáo, đã có những cố
gắng nhất định trong việc tái địa vị độc tôn của nó và trong việc làm cho Nho giáo chi
phối đến các mặt, các lĩnh vực của xã hội và con ngƣời. Nhƣng chế độ phong kiến
triều Nguyễn lấy Nho giáo làm hệ tƣ tƣởng, làm bệ đỡ chính trị và công cụ thống trị đã
Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 12 ngày càng trở nên lạc hậu, bảo thủ, phản động và trên thực tế đã cản trở sự phát triển
của xã hội Việt Nam, do vậy, Nho giáo ngày càng suy yếu, bất lực, càng bộc lộ rõ tính
chất bảo thủ, phản động của nó. Cũng tất yếu khi thực dân Pháp xâm lƣợc và đặt ách
thống trị lên nƣớc ta, Nho giáo đã chấm dứt vai trò lịch sử của nó với tƣ cách là hệ tƣ
tƣởng của giai cấp phong kiến thống trị.
Vậy từ khi chế độ phong kiến và Nhà nƣớc phong kiến trung ƣơng tập quyền
đƣợc hình thành vào giữa thế kỷ thứ X cho đến nửa đầu thế kỷ XIX, Nho giáo ngày
một biểu hiện rõ nét hơn trong đời sống tinh thần của con ngƣời Việt Nam.
Phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, nhu cầu củng cố và phát triển của chế độ
phong kiến, nhu cầu cai trị, quản lý xã hội và góp phần thực hiện những nhiệm vụ thực
tiễn giữ nƣớc và xây dựng đất nƣớc của chế độ phong kiến lấy Nho giáo làm hệ tƣ
tƣởng, từ thời Lý – Trần đến thời Lê Sơ, Nho giáo về cơ bản đã đóng góp vai trò tích
cực trong đời sống tinh thần của con ngƣời và của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Nhƣng từ thế kỷ XVI trở đi, khi chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng và
suy yếu, mặc dù Nho giáo vẫn đƣợc các triều đại phong kiến, các tập đoàn phong kiến
đề cao và là “bệ đỡ” tƣ tƣởng chủ yếu, nhƣng Nho giáo đã bất lực và bộc lộ những
điểm yếu và tính chất giáo điều, bảo thủ vốn có của nó. Đặc biệt từ thế kỷ XIX, Nho
giáo ngày càng suy yếu và trở nên phản động, kìm hãm sự phát triển của đất nƣớc. Khi
thực dân Pháp xâm lƣợc và đặt ách thống trị trên nƣớc ta, Nho giáo đã chấm dứt vai
trò lịch sử của nó.


Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 13 -

CHƢƠNG 3. VAI TRÒ CỦA NHO GIÁO TRONG VIỆC HOẠCH ĐỊNH
ĐƢỜNG LỐI CỦA CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM
Trong chƣơng này, tiểu luận trình bày và phân tích ba nội dung: Sự hình thành,
phát triển và đặc điểm của chế độ phong kiến Việt Nam, Nho giáo là cơ sở chủ yếu để
định ra và thực hiện đƣờng lối đức trị, Nho giáo là cơ sở để chế định và thực thi pháp
luật, hoạch định việc giáo dục – khoa cử. Qua đó cũng cho thấy vai trò và sự thể hiện
của Nho giáo trong tiến trình hình thành, phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.
3.1. Chế độ phong kiến Việt Nam và đặc điểm của nó.
Trong tiểu luận đã đƣa ra một số quan điểm khác nhau của một số nhà nghiên
cứu Việt Nam về điều kiện quy định và bối cảnh hình thành chế độ phong kiến Việt
Nam. Tôi tán thành quan điểm của tác giả cuốn Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam
cho rằng, chế độ phong kiến hình thành trên đất âu Lạc không phải là chế độ phong
kiến Việt Nam, đƣợc nảy sinh từ những yếu tố nội sinh mà đƣợc áp đặt từ bên ngoài,
dƣới ảnh hƣởng của chế độ phong kiến Trung Quốc. Tiểu luận khẳng định rằng, chính
quá trình phong kiến hóa theo mô thức của chế độ phong kiến Trung Quốc đã dẫn đến
sự tan rã của chế độ phong kiến nguyên thủy và gây ra những biến đổi trong nội bộ xã
hội Âu Lạc, tạo ra những điều kiện, những nhân tố kinh tế - xã hội, chính trị cho sự
này sinh chế độ phong kiến Việt Nam vào thế kỷ X, đặc biệt đã làm xuất hiện giai cấp
phong kiến Việt Nam, một trong những nhân tố hết sức quan trọng cho sự hình thành
chế độ phong kiến Việt Nam sau này. Với việc tiếp thu tri thức Nho học và chống Hán
cùng những nguyên nhân khác, giai cấp phong kiến Việt Nam đã dần trƣởng thành về
mọi mặt, đặc biệt là ý thức về địa vị và vai trò của mình, về độc lập và chủ quyền dân
tộc. Và chính giai cấp này là lực lƣợng lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa của nhân dân
chống lại sự thống trị của phong kiến Trung Quốc trong thời Bắc thuộc.
Đến giữa thế kỷ X, sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử, chế độ phong kiến Việt

Nam đƣợc hình thành. Căn cứ vào sự biến đổi, phát triển của cơ sở kinh tế và kiến trúc
thƣợng tầng của xã hội phong kiến Việt Nam, tiểu luận đã chia tiến trình hình thành,
phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam thành ba thời kỳ sau:
- Từ thế kỷ X đến thế kỷ XVI là thời kỳ hình thành và phát triển bƣớc đầu của
chế độ phong kiến Việt Nam. Thời kỳ này lại có thể chia thành ba giai đoạn: Từ nửa
cuối thế kỷ X đến đầu thế kỷ XI là giai đoạn xây dựng chế độ phong kiến dân tộc độc
lập, từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XV là giai đoạn xây dựng, củng cố và phát triển, và
thế kỷ XV là giai đoạn phát triển cao độ của chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế
và bộ máy Nhà nƣớc quân chủ quan liêu. Từ thế kỷ XVI đến nửa cuối thế kỷ XVIII là
thời kỷ khủng hoảng của chế độ phong kiến. Từ thế kỷ XIX dƣới triều Nguyễn là thời
kỳ khôi phục chế độ phong kiến. Nhƣng đó là chế độ phong kiến tập quyền chuyên
chế, phản động. Đặc biệt trƣớc những thách thức của thời đại, chế độ phong kiến đó
Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 14 ngày càng khủng hoảng, suy yếu và khi thực dân Pháp xâm lƣợc và đặt ách thống trị
lên đất nƣớc ta, chế độ phong kiến đó đã suy vong.
Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam từ
thế kỳ X đến giữa thế kỷ XIX, tiểu luận đã đƣa ra hai đặc điểm cơ bản của chế độ
phong kiến Việt Nam:
- Một là, chế độ phong kiến Việt Nam là chế độ phong kiến tập quyền quân chủ
chuyên chế. Đây là đặc điểm nổi bậc nhất.
- Hai là, chế độ phong kiến Việt Nam còn bảo tồn và in đậm dấu ấn của công xã
nông thôn.
3.2. Nho giáo – cơ sở tƣ tƣởng chủ yếu để định ra và thực hiện đƣờng lối đức trị.
Tƣ tƣởng “Đức trị” trong Nho giáo phản ánh trực tiếp, tập trung và bảo vệ lợi
ích của giai cấp phong kiến lấy Nho giáo làm hệ tƣ tƣởng. Nó đƣợc thể hiện trong
đƣờng lối chính trị của giai cấp phong kiến thống trị, vì vậy nó có vai trò to lớn trong
đời sống xã hội, tác động trở lại và làm thay đổi ít nhiều đến cơ sở kinh tế.
Trong lịch sử của chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI trở đi, nhằm xây

dựng, củng cố chế độ phong kiến, duy trì trật tự, kỷ cƣơng xã hội và thực hiện những
nhiệm vụ thực tiễn của công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc, giai cấp phong kiến Việt
Nam đã tiếp thu và thực hiện tƣ tƣởng “Đức trị” của Nho giáo. Tất nhiên, phạm vi,
mức độ, tính chất của tƣ tƣởng đó đƣợc giai cấp phong kiến Việt Nam vận dụng ít
nhiều có khác nhau trong mỗi giai đoạn phát triển của giai cấp phong kiến. Tình hình
này chủ yếu là do hoàn cảnh và vai trò lịch sử của giai cấp phong kiến trong giai đoạn
đó quy định.
Là nhà Nho và là nhà tƣ tƣởng của chế độ phong kiến, các nhà Nho Việt Nam
đặc biệt đề cao vai trò đƣờng lối đức trị của Nho giáo, coi đó là cái gốc, cái căn bản để
xây dựng và duy trì xã hội phong kiến ổn định, thịnh trị.
Trƣớc hết, với các nhà tƣ tƣởng Việt Nam, quan điểm của Nho giáo về xã hội lý
tƣởng là sự định hƣớng và là mục đích của đƣờng lối đức trị. Tiểu luận đã chỉ rõ, trong
suốt tiến trình phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI trở đi, ở bất kỳ
hoàn cảnh nào, thực trạng nào của xã hội và chế độ phong kiến Việt Nam, thì các nhà
Nho, nhà tƣ tƣởng, nhà vua Việt Nam không thể không dựa vào quan niệm của Nho
giáo về xã hội lý tƣởng để định hƣớng và triển khai việc xây dựng, củng cố chế độ
phong kiến. Theo đó xã hội phong kiến, chế độ phong kiến cần đƣợc xây dựng, củng
cố đó là có vua sáng, tôi hiền, đất nƣớc thái bình, thịnh trị, không có chiến tranh; nhân
dân no đủ, đƣợc chăm sóc và yên ổn làm ăn, lấy nghề nông làm gốc. Đó còn là một xã
hội, một chế độ có trật tự, có kỷ cƣơng, đứng đầu là đấng minh quân lo cho dân cho
nƣớc.

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 15 Tiểu luận cũng chỉ rõ quan niệm về xã hội lý tƣởng ở nhà Nho Việt Nam không
chỉ chịu ảnh hƣởng của Nho giáo mà còn xuất phát từ truyền thống văn hóa của dân
tộc, từ những điều kiện kinh tế - xã hội và những nhiệm vụ thực tiễn đặt ra cho dân
tộc, cho giai cấp phong kiến Việt Nam trong mỗi giai đoạn phát triển. Chính vì vậy,
những quan điểm đó không thể không có những hạn chế nhất định nhƣng đã đƣợc phát

triển, bổ sung thêm và vƣợt ra khỏi giới hạn chật hẹp, khắc nghiệt của Nho giáo Trung
Quốc.
Về việc thực hiện đƣờng lối đức trị: Trong tiểu luận đã chỉ rõ, nhà Nho Việt
Nam đều coi việc cai trị xã hội bằng những chuẩn mực đạo đức là một trong những
biện pháp hiệu quả nhất để xây dựng và củng cố chế độ phong kiến Việt Nam, củng cố
ngôi vua, duy trì trật tự, kỷ cƣơng xã hội phù hợp với yêu cầu của chế độ phong kiến
và bảo vệ địa vị, lợi ích của giai cấp phong kiến.
Dƣới thời Lý – Trần, dù các triều đại phong kiến Việt Nam đều vận dụng Phật
giáo, Đạo giáo vào việc trị nƣớc, trị dân, nhƣng về cơ bản, đƣờng lối cai trị của các
triều đại phong kiến là dựa vào tƣ tƣởng “Đức trị” của Nho giáo. Nhằm đáp ứng những
nhiệm vụ đặt ra trong việc xây dựng, củng cố chế độ phong kiến trung ƣơng tập quyền,
tập hợp và đoàn kết lực lƣợng của toàn dân trong việc dựng nƣớc và giữ nƣớc, các nhà
Nho đặc biệt đề cao trung nghĩa. Trung là trung thành tuyệt đối với vua, với triều đại,
còn cái nghĩa lớn nhất của mọi thần dân là trung thành với nhà vua. Đồng thời, nhà
vua phải có đạo đức, luôn tu dƣỡng đạo đức và thi hành đƣờng lối đạo đức với dân.
Đến thời Lê Sơ, nhà vua, nhà Nho càng đề cao vai trò của đạo đức, của đức trị.
Các triều đại phong kiến đặc biệt quan tâm việc triển khai, thực thi đƣờng lối này
nhằm Nho giáo hóa toàn bộ đời sống xã hội và chi phối mọi mối quan hệ xã hội chủ
yếu của con ngƣời. Nguyễn Trãi thì đề xuất đƣờng lối chính trị nhân nghĩa nhằm mục
đích là đất nƣớc đƣợc thái bình, vua sáng tôi hiền, nhân dân yên vui, no đủ. Lê Thánh
Tông thì dựa hẳn vào tƣ tƣởng Đức trị của Nho giáo để chỉ đạo và triển khai đƣờng lối
đức trị nhằm kiến tạo và duy trì một xã hội, một chế độ phong kiến thái bình, thịnh trị
nhƣ thời vua Nghiêu, vua Thuấn.
Từ thế kỷ XVI trở đi, trong tƣ tƣởng của nhiều nhà Nho và vua chúa Việt Nam
đều coi việc thực thi đƣờng lối đức trị là biện pháp hữu hiệu nhất để khắc phục sự rối
loạn, chia cắt của đất nƣớc và tình trạng khủng hoảng, suy yếu của chế độ phong kiến.
3.3. Nho giáo – cơ sở tƣ tƣởng để chế định pháp luật và hoạch định việc giáo dục,
khoa cử.
Với các nhà Nho và giai cấp phong kiến Việt Nam, Nho giáo không chỉ là căn
cứ, cơ sở để định ra và triển khai đƣờng lối “Đức trị” mà còn là căn cứ, cơ sở chủ yếu

để chế định pháp luật và hoạch định việc giáo dục, thi cử.

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 16 Tiểu luận đã nêu ra rằng, trƣớc thời Bắc thuộc nƣớc ta chƣa có pháp luật mà
việc tổ chức và quản lý xã hội chủ yếu dựa vào luật tục. Còn trong thời Bắc thuộc,
pháp luật đƣợc lƣu hành ở nƣớc ta là pháp luật phong kiến Trung Quốc. Dƣới các thời
Ngô, Đinh, Tiền Lê, các triều đại phong kiến chƣa có điều kiện ban hành bộ luật riêng.
Và để duy trì địa vị thống trị, quyền lợi của mình, những triều đại này đã áp dụng
những hình phạt hết sức dã man, tàn bạo đối với những ai không phục tùng. Chỉ từ thế
kỷ XI trở đi, xã hội Việt Nam dần đi vào thế ổn định và phát triển, các quan hệ xã hội
và mâu thuẫn giai cấp ngày càng phức tạp, việc tổ chức quản lý xã hội bằng luật tục
hay giới luật của Phật giáo không thể đáp ứng hữu hiệu nhu cầu cai trị, củng cố ngôi
vua… của nhà vua và giai cấp phong kiến. Vì vậy cùng với việc gia tăng vị trí, vai trò
của Nho giáo và tầng lớp Nho sĩ trong đời sống Chính trị - đạo đức. Nhà nƣớc phong
kiến Việt Nam đã ban hành nhiều bộ luật và các văn bản dƣới luật (chế, chiếu, giáo
điều, huấn điều, …) khác nhằm những mục đích chính trị này.
Qua phân tích và căn cứ nội dung, tính chất, đối tƣợng chế tài của các bộ luật
Việt Nam, tiểu luận đã đi đến khẳng định rằng, ảnh hƣởng của Nho giáo ở mỗi một bộ
luật là rõ ràng dù rằng mức độ, phạm vi, tính chất ảnh của Nho giáo ở những bộ luật
này là khác nhau. Biểu hiện của Nho giáo ở những bộ luật này cũng nhƣ những văn
bản dƣới luật khác ở chỗ: tôn quân quyền, quân chủ thần quyền, chính danh định phận,
thân dân, đạo đức…. của Nho giáo không chỉ là cơ sở tƣ tƣởng, mà chính những bộ
luật đó còn bảo vệ, triển khai những quan điểm trên của Nho giáo. Tất nhiên, những bộ
luật này không chỉ ảnh hƣởng bởi Nho giáo mà phong tục tập quán cùng những giá trị
truyền thống dân tộc, điều kiện kinh tế - xã hội, những nhiệm vụ thực tiễn đặt ra cho
giai cấp phong kiến và dân tộc ở từng giai đoạn phát triển, … cũng là cơ sở, căn cứ
hình thành và triển khai những bộ luật này. Ngoài ra, bộ Hình thƣ ở Triều Lý còn chịu
ảnh hƣởng nhiều của Phật giáo, bộ Quốc triều hình luật ở triều Trần còn chịu ảnh

hƣởng của Pháp gial; bộ Hình triều luật lệ dƣới triều Nguyễn lại chịu chi phối của bộ
luật nhà Thanh Trung Quốc.
Trong lĩnh vực giáo dục, thi cử dƣới chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI
trở đi nhƣ trong tiểu luận đã chỉ rõ, về căn bản là chịu ảnh hƣởng của Nho giáo. Sự thể
hiện rõ nhất của Nho giáo trong lĩnh vực này là ở mục đích, nội dung, phƣơng thức
đào tạo và tuyển chọn nhân tài.
Mục đích của giáo dục là dạy đạo lý làm ngƣời, tức là đào tạo ra những con
ngƣời luôn suy nghĩ, hành động theo những chuẩn mực đạo đức của Nho giáo, đề từ
đó mỗi ngƣời, tùy theo địa vị xã hội và chức phận của mình đem cái đạo đã học mà
hành đạo sao cho phù hợp với yêu cầu của giai cấp phong kiến thống trị. Đồng thời
thông qua giáo dục, thi cử Nho học để đào tạo nhân tài, đào tạo ra một tầng lớp Nho sĩ
– tri thức theo lý tƣởng Nho giáo, bổ sung vào bộ máy chính quyền. Với mục đích nhƣ
vậy đã quy định nội dung giáo dục, thi cử.
Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 17 Nội dung giáo dục, thu cử chủ yếu là những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
của Nho giáo trong Tứ thƣ, Ngũ kinh. Ngoài ra, Bắc sử, Nam sử, làm toán cùng những
bài học kinh nghiệm trị nƣớc của các đời vua phƣơng Bắc trƣớc đây cũng là một phần
trong nội dung giáo dục, thi cử. Theo thời gian, khoa cử Nho học là phƣơng thức chủ
yếu nhất để tuyển chọn quan lại và chọn nhân tài cho đất nƣớc.
Ảnh hƣởng và vai trò của Nho giáo trong lĩnh vực giáo dục, thi cử còn thể hiện
trong việc hoạch định tiêu chuẩn đội ngũ những ngƣời dạy học và ngƣời đi học, đi thi.
Nói chung tiêu chuẩn cơ bản của đội ngũ những ngƣời dạy học không chỉ am
tƣờng Nho học mà còn là những ngƣời gƣơng mẫu về đức hạnh. Còn ngƣời đi học, đi
thi thì trƣớc hết và căn bản phải là ngƣời có đạo đức theo tinh thần của Nho giáo.
Ngƣời đỗ đạt phải là những ngƣời giỏi về đƣờng Nho học và phải biết vận dụng những
tri thức đã học trong việc đánh thời cuộc, đất nƣớc, của triều đại và trong việc trị dân
trị nƣớc.
Phƣơng thức giáo dục, học và thi cũng chịu ảnh hƣởng của Nho giáo. Chính

mục đích, nội dung giáo dục, thi cử đã là nguyên nhân chủ yếu quy định phƣơng thức
giáo dục, học và thi. Nhìn chung phƣơng thức dạy học và thi chủ yếu dựa theo tinh
thần “Thuật nhi bất tác”, “học thuộc lòng”, “lựa lời đón ý”.
Tiểu luận cũng đã chỉ rõ nền giáo dục - khoa cử dƣới chế độ phong kiến Việt
Nam là nền giáo dục – khoa cử Nho học. Nền giáo dục – khoa cử đó đã có vai trò tích
cực nhất định đối với sự phát triển của đất nƣớc, của chế độ phong kiến Việt Nam:
Nhƣ góp phần tạo ra một tầng lớp trí thức cho xã hội, một đội ngũ nhân tài cho đất
nƣớc và chính trong đội ngũ này, nhiều ngƣời đã góp phần to lớn trong việc xây dựng
và phát triển nền văn hóa dân tộc và phát triển đất nƣớc về mọi mặt. Đồng thời nền
giáo dục đó đã góp phần tạo nên truyền thống hiếu học, tôn sƣ trọng đạo và hoàn thiện
đạo đức của ngƣời Việt Nam,… Tất nhiên, chính cái nền giáo dục - khoa cử đó cũng
để lại những ảnh hƣởng tiêu cực nhất định, nhƣ ngƣời phụ nữ không đƣợc đi học, đi
thi, ngƣời dạy, ngƣời học và đi thi chỉ biết vùi đầu trong đống sách vở của các bậc
thánh hiền,…Do đó trƣớc những biến cố, những thách thức của thời đại, tầng lớp tri
thức Nho học này không thể đáp ứng đƣợc và chính họ đã góp phần làm suy yếu Nho
giáo, kéo dài sự trì trệ, bảo thủ của chế độ phong kiến, cản trở sự phát triển của đất
nƣớc.
Nhƣ vậy đến thế kỷ XI, giai cấp phong kiến Việt Nam chính thức chọn Nho
giáo làm hệ tƣ tƣởng để xây dựng, củng cố và phát triển chế độ phong kiến. Tuy nhiên,
giai cấp phong kiến và các triều đại phong kiến Việt Nam chỉ lựa chọn, bổ sung và
phát triển những gì của Nho giáo có lợi, cần thiết cho việc thực hiện những mục đích
chính trị và nhiệm vụ thực tiễn đặt ra cho chế độ phong kiến, cho dân tộc trong mỗi
giai đoạn phát triển. Nhằm những mục đích đó, các triều đại phong kiến đã vận dụng

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 18 Nho giáo để định hƣớng và triển khai đƣờng lối đức trị, xây dựng và thực thi pháp luật
cũng nhƣ trong việc hoạch định giáo dục – khoa cử. Vì vậy từ thế kỷ XI trở đi Nho
giáo đã góp phần nhất định vào việc củng cố và phát triển chế độ phong kiến Việt

Nam.
Song do tính chất bảo thủ, những hạn chế cố hữu của Nho giáo cũng nhƣ tính
chất và vai trò hạn chế của giai cấp phong kiến sử dụng Nho giáo khiến cho Nho giáo
bộc lộ tính chất thiểu năng, lạc hậu của nó và ngày càng trở thành một tác nhân chủ
yếu cản trở sự phát triển của đất nƣớc về nhiều mặt.

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 19 KẾT LUẬN
Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức, Nho giáo đề cập đến con ngƣời và
nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị và quan hệ chính trị của xã hội và con ngƣời. Tất
nhiên những lĩnh vực đó đƣợc nhìn nhận chủ yếu từ phƣơng diện đạo đức – chính trị.
Nền tảng và cơ sở lý luận của học thuyết chính trị - đạo đức của Nho giáo là tƣ tƣởng
về xã hội lý tƣởng. Và nhằm mục đích này, học thuyết chính trị - đạo đức của Nho
giáo chủ yếu đề cập đến những vấn đề về đạo đức, vai trò tu dƣỡng đạo đức của con
ngƣời, của nhà vua, ngƣời cầm quyền trong các mối quan hệ cơ bản của con ngƣời với
trời đất, với xã hội; cùng những biện pháp cơ bản để duy trì trật tự, kỷ cƣơng, ổn định
từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Tất nhiên, xét về tính ứng dụng và mục đích, Nho
giáo là một học thuyết trị nƣớc nƣớc của nhà vua, của ngƣời cai trị, là công cụ để tổ
chức, quản lý xã hội phù hợp với nhu cầu, mục đích chính trị của nhà vua, ngƣời cầm
quyền. Do vậy, Nho giáo là hệ tƣ tƣởng, là chỗ dựa chủ yếu của nhà vua, của giai cấp
phong kiến trong xã hội phong kiến.

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31


- 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Trọng Kim, Nho giáo, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh 1992, tr.400.
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Triết học Mác – Lênin, t.2, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà

Nội 1998, tr.145.

Học viên: Đặng Văn Nghĩa – K31



×