Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Các biện pháp quản lý nợ công của việt nam, kết quả đạt được và những vấn đề cần tiếp tục giải quyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.37 KB, 43 trang )

1


Lời mở đầu
Trong quá trình phục hồi kinh tế thế giới, các quốc gia phải đối mặt với nhiều vấn
đề trong đó có khủng hoảng nợ công. Mức nợ công vượt quá cao so với ngưỡng an
toàn ở nhiều nền kinh tế đang trở thành chủ đề nóng hiện nay bởi nó không chỉ tác
động xấu đến nền kinh tế của các nước trong vòng xoáy nợ công, mà hơn thế nữa,
hậu quả của nó còn lây lan sang nhiều khu vực nói riêng và đe dọa nghiêm trọng
tới sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung. Vấn đề nợ công đang trở thành mối
quan tâm lo ngại to lớn đối với nhiều quốc gia và Việt Nam cũng không phải ngoại
lệ.
Nợ công quốc gia là vấn đề hệ trọng được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt
quan tâm. Bản chất của nợ công không phải là xấu, nợ công đem lại rất nhiều tác
động tích cực cho nền kinh tế nếu biết sử dụng hiệu quả và hợp lý. Nợ công là
nguồn vốn cần thiết và rất quan trọng để bổ sung cho đầu tư phát triển, xây dựng
hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, chi cho đầu tư phát triển và một phần chi
cho sự nghiệp trong các dự án ODA theo cam kết. Rất nhiều công trình quan trọng,
thiết yếu về giao thông, điện, viễn thông, nước sạch, thủy lợi, y tế, giáo dục… đã
hoàn thành, phát huy hiệu quả và nhiều công trình đang xây dựng góp phần thu hút
đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội
và nâng cao đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, tình trạng gia tăng nợ công ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra ngày càng
nhiều vấn đề cần phải giải quyết đối với tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế, chúng
em đã lựa chọn đề tài “ Các biện pháp quản lý nợ công của Việt Nam, kết quả đạt
được và những vấn đề cần tiếp tục giải quyết”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của bài tiểu
luận được kết cấu thành ba phần như sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về nợ công và quản lý nợ công.
Phần II: Khủng hoảng nợ công ở một số nước châu Âu và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam.


Phần III: Thực trạng quản lý nợ công tại Việt Nam trong giai đoạn vừa qua,
các biện pháp quản lý nợ công, kết quả đạt được và những vấn đề cần tiếp tục
giải quyết.
Trong phạm vi kiến thức còn hạn chế, bài tiểu luận có thể còn thiếu sót, do vậy
nhóm chúng em rất mong nhận được những nhận xét và góp ý của cô để bài được
hoàn thiện hơn.

2


Phần I: Cơ sở lý luận về nợ công và quản lý nợ công
I.

Tổng quan về nợ công
1. Các khái niệm liên quan
Theo luật Quản lý nợ công ban hành ngày 29/06/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010
thì nợ công bao gồm: nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của địa
phương.
Nợ là khoản phải hoàn trả, bao gồm khoản gốc, lãi, phí và chi phí khác có liên quan tại
một thời điểm, phát sinh từ việc vay của chủ thể được phép vay vốn theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký
kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do
Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ
chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm
thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng
vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ

quyền phát hành.
2. Mục đích
Mục đích của nợ công là tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nhà nước, các dự án
đầu tư của các doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, tín dụng vay
nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.

3


3. Bản chất của nợ công
Vay nợ là một cách huy động vốn cho phát triển. Bản chất nợ không phải là xấu. Nợ đem
lại rất nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế của các nước đi vay. Thực tế, các nước
muốn phát triển nhanh đều phải đi vay. Những nền kinh tế lớn nhất thế giới như Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản… lại cũng chính là những con nợ lớn. Nợ công có nhiều tác động
tích cực, nhưng cũng có không ít tác động tiêu cực.
Tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
Thứ nhất, nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để
phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Muốn phát triển
cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy
động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ
tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Thứ hai, nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một bộ
phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay nợ mà
những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả
khu vực công lẫn khu vực tư.
Thứ ba, nợ công tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế.
Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại giao quan trọng của các
nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác
kinh tế song phương. Biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn
ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích đối tác, đồng thời

giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước.
Bên cạnh những tác động tích cực, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực: Nợ
công gia tăng sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ ngoài
nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo và thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc
sử dụng và quản lý nợ công sẽ dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí tràn lan. Tình
trạng này làm thất thoát các nguồn lực, giảm hiệu quả đầu tư và điều quan trọng hơn là
4


giảm thu cho ngân sách. Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực, nhằm phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện
pháp luật về quản lý nợ công.
Về bản chất, nợ công chính là các khoản vay để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản
vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù
đắp. Vì vậy, suy cho cùng, nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay
ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần dần, được
hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách. Tỷ lệ nợ
công/GDP chỉ phản ánh một phần nào đó về mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công. Mức
độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan
trọng hơn, phụ thuộc vào tình trạng phát triển của nền kinh tế.
Khi xét đến nợ công, chúng ta không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải trả
mà phải quan tâm nhiều tới rủi ro và cơ cấu nợ. Vấn đề quan trọng phải tính là khả năng
trả nợ và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng nợ trên GDP.
Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỉ lệ nợ công/GDP được coi là chỉ số
đánh giá phổ biến nhất cho cách nhìn tổng quát về tình hình nợ công của một quốc gia.
Mức an toàn của nợ công được thể hiện qua việc nợ công có vượt ngưỡng an toàn tại
một thời điểm hay giai đoạn nào đó không.
4. Tiêu chí để đánh giá mức an toàn của nợ công được thể hiện cụ thể là:
Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 150%
kim ngạch xuất khẩu. Ngân hàng Thế giới đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công

là 50% GDP. Các tổ chức quốc tế cho rằng, tỷ lệ nợ hợp lý đối với các nước đang phát
triển nên ở mức dưới 50% GDP.
Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ
của Chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách. Tuy nhiên, trên thực tế không có hạn
mức an toàn chung cho các nền kinh tế. Không phải tỷ lệ nợ công/GDP thấp là trong
ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào tình trạng mạnh
5


hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Mỹ có tỷ lệ nợ công
bằng 96% GDP nhưng vẫn được xem là ở ngưỡng an toàn bởi năng suất lao động của Mỹ
cao nhất thế giới là cơ sở bảo đảm bền vững cho việc trả nợ. Nhật Bản có số nợ lên tới
hơn 200% GDP vẫn được coi là ngưỡng an toàn. Trong khi đó, nhiều nước có tỷ lệ
nợ/GDP thấp hơn rất nhiều nhưng đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ như: Venezuela
năm 1981 với tỷ lệ nợ công chỉ là 15% GDP; Thái Lan năm 1996 với tỷ lệ nợ công là
40% GDP; Argentina năm 2001 với tỷ lệ nợ công là 45% GDP; Ucraina năm 2007 với tỷ
lệ nợ công là 13% GDP;
Thứ ba, đánh giá nợ công trong mối liên hệ với các tiêu chí kinh tế vĩ mô. Để đánh giá
đúng mức độ an toàn của nợ công không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ nợ/GDP, mà cần phải
xem xét nợ một cách toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tốc
độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn
(qua tiêu chí ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư xã
hội… Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi
suất, thời gian trả nợ… cũng cần được xem xét khi đánh giá bản chất nợ công, tính bền
vững của nợ công. Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền
kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài.
Tóm lại, việc đánh giá đúng thực trạng nợ công và bản chất nợ công của một nền kinh tế,
một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ,
nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng
tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới

đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên
bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn mà
không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế
nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng dễ
đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách, tác động tiêu cực đến tăng trưởng.

6


5. Phân loại nợ công
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong việc
quản lý và sử dụng nợ công.
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay:Nợ công gồm có hai loại: Nợ trong nước và
nợ nước ngoài.
Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức trong nước.
Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ
chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ.
Việc phân loại này sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế.
Việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ, vì các khoản vay nước
ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế
khác.
Theo phương thức huy động vốn: Nợ công có hai loại: Nợ công từ thỏa thuận trực
tiếp và Nợ công từ công cụ nợ.
Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận vay trực
tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Phương thức huy
động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định,
thỏa thuận giữa các nhà nước.
Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc

dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.
Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công: Nợ công có ba loại: Nợ công
từ vốn vay ODA, Nợ công từ vốn vay ưu đãi và Nợ thương mại thông thường.
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ: Nợ công được phân loại thành: Nợ công phải trả và Nợ
công bảo lãnh.
Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa vụ trả
7


nợ.
Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ,
nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
Theo cấp quản lý nợ: Nợ công được phân loại thành Nợ công của trung ương và Nợ công
của chính quyền địa phương.
Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh.
Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là bên vay nợ và
có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì
những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân sách và
được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm bảo
chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.
Việc phân loại nợ công có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý và sử dụng nợ công.
Tương ứng với mỗi loại nợ sẽ có giải pháp quản lý bảo đảm quy mô nợ phù hợp, qua đó
sẽ chủ động tăng hay giảm nợ để tạo nguồn thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
6. Quỹ tích lũy trả nợ
Quỹ tích lũy trả nợ là quỹ thuộc ngân sách nhà nước, được Chính phủ thành lập và giao
cho Bộ tài chính quản lý nhằm đảm bảo khả năng thanh toán nghĩa vụ nợ của các khoản
vay về cho vay lại hoặc nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước phát sinh từ các
khoản bảo lãnh của Chính phủ.
Nguồn thu của Quỹ tích lũy trả nợ bao gồm:
-


Thu hồi nợ từ các khoản vay về cho vay lại của Chính phủ.
Phí bảo lãnh Chính phủ
Thu hồi các khoản tạm ứng vốn từ quỹ tích lũy trả nợ theo quy định của Chính

-

phủ
Lãi tạm ứng vốn và lãi cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ Chính phủ
Lãi tiền gửi hoặc ủy thác quản lý nguồn vốn của Quỹ tích lũy trả nợ
Các khoản thu hợp pháp khác

Nội dung chi của Quỹ tích lũy trả nợ bao gồm:
8


-

Hoàn trả ngân sách nhà nước các khoản trả nợ cho các khoản vay nước ngoài của

-

Chính phủ vay về cho vay lại
Ứng trả thay cho người được bảo lãnh trong trường hợp người được bảo lãnh

-

không trả được nợ
Ứng vốn để thực hiện cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ chính phủ và nợ được


-

Chính phủ bảo lãnh để giảm thiểu chi phí đi vay
Ứng vốn khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ tích lũy trả nợ theo quy

-

định của Chính phủ
Chi phí nghiệp vụ quản lý Quỹ tích lũy trả nợ theo Quy định của Chính phủ

Nguồn vốn tạm thời của Quỹ tích lũy trả nợ phải được bảo toàn, phát triển thông qua dịch
vụ tiền gửi và quản lý tài sản của tổ chức tài chính, tín dụng có uy tín trong nước.

II.

Tổng quan về quản lý nợ công
1. Khái niệm
Quản lý nợ công là một tiến trình lập và thực hiện chiến lược quản lý nợ của một quốc
gia nhằm tạo được lực lượng vốn theo yêu cầu, đạt được các mục tiêu về rủi ro và chi phí
cũng như các mục tiêu khác mà Nhà nước đề ra.
2. Tầm quan trọng của quản lý nợ công
Nhìn lại lịch sử nền kinh tế thế giới từ trước tới nay, có thể thấy nợ công là một bộ phận
thường trực trong các kế hoạch phát triển kinh tế và chưa bao giờ vắng bóng trong dự toán
ngân sách Nhà nước của bất cứ quốc gia, châu lục nào. Do tính chất cần thiết khách quan và
không thể thay thế được của nó, nhiệm vụ quản lý nợ công đang trở nên ngày càng quan trọng.
Thứ nhất, quản lý nợ công, cụ thể là đưa ra cấu trúc các khoản nợ giúp ngăn chặn lây lan sự
bất ổn kinh tế.
Thứ hai, chính sách quản lý nợ công thận trọng giúp giảm thiểu những cuộc khủng hoảng tài
chính – tiền tệ bắt nguồn từ khâu quản lý nợ yếu kém.
Thứ ba, một cơ chế quản lý tốt sẽ giúp chính phủ xác định được: vay nợ bao nhiêu là hợp lý để

vừa đảm bảo nhu cầu của chính phủ, vừa vay được với chi phí thấp và giảm thiểu rủi ro. Thực

9


tế chỉ ra rằng, không phải mọi khoản nợ công đều mang tính tiêu cực. Do đó, vấn đề đặt ra
trước hết là phải quản lý nợ công như thế nào cho hiệu quả.
3. Mục tiêu của quản lý nợ công
Hướng dẫn quản lý nợ công của IMF/WB-2001 chỉ rõ: “mục tiêu của quản lý nợ công là đảm
bảo nhu cầu tài chính của chính phủ được đáp ứng với chi phí thấp nhất trong trung và dài hạn
phù hợp với mức độ rủi ro”. Thông qua chính sách và kế hoạch phát triển riêng của từng quốc
gia, mục tiêu này đã được cụ thể hóa, thể hiện thông qua các nội dung chủ yếu trong quản lý
nợ công, bao gồm:
- Bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với vấn đề cơ cấu, quy mô và
sử dụng nợ công.
- Nâng cao và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về nợ công
- Xây dựng các chiến lược quản lý nợ cụ thể và hiệu quả.
- Xây dựng các mô mình quản lý rủi ro trong hoạt động quản lý nợ.
- Đề xuất và thực thi phát triển thị trường chứng khoán Chính phủ.
4. Nội dung quản lý nhà nước về nợ công
Theo luật Quản lý nợ công ban hành năm 2009 thì nội dung quản lý nhà nước về nợ
công gồm có:
-

Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
nợ công.

-

Xây dựng, ban hành chỉ tiêu an toàn về nợ, mục tiêu, định hướng huy động, sử

dụng vốn vay và quản lý nợ công trong từng giai đoạn; hệ thống các chỉ tiêu giám
sát nợ chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia và kế hoạch vay, trả nợ chi
tiết hàng năm.

-

Tổ chức huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công đúng mục đích,
hiệu quả, bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.

-

Giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ, quản lý nợ công, quản
lý rủi ro tài khoá, bảo đảm an toàn nợ và an ninh tài chính quốc gia.
10


-

Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, hiệu quả quản lý nợ công.

-

Tổng hợp, báo cáo, công bố thông tin về nợ công.

-

Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về quản lý nợ công.

-


Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.

-

Xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về quản
lý nợ công.

-

Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nợ công.

-

Hợp tác quốc tế trong quản lý nợ công.

4. Nguyên tắc quản lý nợ công
Theo luật Quản lý nợ công ban hành năm 2009 thì Quản lý nợ công phải đảm bảo những
nguyên tắc chặt chẽ sau:
-

Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công, từ việc huy động, phân bổ, sử
dụng vốn vay đến việc trả nợ.

-

Bảo đảm an toàn nợ trong giới hạn được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm
an ninh tài chính quốc gia và cân đối vĩ mô nền kinh tế.

-


Bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay; không vay ngắn hạn để
đầu tư dài hạn. Vốn vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình,
dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ.

-

Người vay chịu trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với khoản vay.

-

Công khai, minh bạch trong việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và
quản lý nợ công. Chương trình, dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ, chính
quyền địa phương phải được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc kiểm toán
độc lập.

-

Mọi nghĩa vụ nợ của Chính phủ được đối xử bình đẳng.

5. Những hành vi bị cấm trong Quản lý nợ công
11


Khi tiến hành hoạt động quản lý nợ công thì những hành vi sau được coi là vi phạm pháp
luật:
-

Huy động vốn không đúng thẩm quyền, mục đích.

-


Quyết định cho vay, cho vay lại, cấp bảo lãnh chính phủ không đúng thẩm quyền,
mục đích, đối tượng.

-

Sử dụng vốn vay trái phép, sai mục đích, lãng phí.

-

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt, chiếm dụng, gây thất thoát vốn vay.

-

Thông đồng, thiếu trách nhiệm trong công tác thẩm định.

-

Cản trở hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm việc thực hiện
pháp luật về quản lý nợ công.

-

Không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, kịp thời, chính xác thông tin về nợ
công theo quy định của pháp luật.

6. Hậu quả của việc quản lý nợ công không hiệu quả
Vấn đề quản lý nợ công hiện nay đang trở thành mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia
trên thế giới, cả những nước phát triển và đang phát triển. Trong điều kiện của nước ta
hiện nay khi thu nhập còn tương đối thấp, tỷ lệ tiết kiệm thấp trong khi nhu cầu đầu tư

lớn vào cơ sở hạ tầng và con người để nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế
trong quá trình hội nhập, nâng cao tỷ lệ gia tăng trong dài hạn đáp ứng mục tiêu tăng
trưởng GDP bình quân trên 8%/năm thì nợ nước ngoài đóng vai trò hết sức quan trọng.
Vấn đề đặt ra là phải quản lý tốt mục đích sử dụng vốn vay, hiệu quả sử dụng của vốn
vay mang lại hệu quả cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nếu không, quản lý
nợ công không hiệu quả sẽ mang lại những hệ lụy hết sức nghiêm trọng cho quốc gia bởi
lẽ bản chất của nguồn vốn đi vay là khoản nợ và đi kèm đó là nghĩa vụ trả nợ. Những hậu
quả của việc quản lý nợ công kém hiệu quả có thể kể đến như sau:
-

Một là, tệ nạn lãng phí, tham nhũng hoành hành. Biểu hiện qua chỉ số ICOR. Chỉ
số ICOR càng cao càng phản ánh việc sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả, tình
trạng lãng phí, thất thoát vốn càng nhiều. Đặc biệt ở một số quốc gia đang phát
triển như nước ta hiện nay đang được tài trợ bởi nhiều nguồn vốn vay lãi suất ưu
12


đãi, thời gian ân hạn dài như nguồn vốn ODA từ các nước phát triển như Nhật
Bản, EU…đã tạo ra tâm lý ỷ lại, tiêu “tiền chùa”, cha chung không ai khóc… Bên
canh đó tệ nạn tham nhũng trở thành mối lo cho quốc gia. Quản lý lỏng lẻo tạo cơ
hội cho tệ nạn tham nhũng hoành hành.
-

Hai là, quản lý nợ công kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng tới mức độ tín nhiệm quốc
gia. Các khoản nợ cho dù do Chính phủ vay hay với tư cách bảo lãnh đều gắn liền
với vai trò và nghĩa vụ của Chính phủ đối với các khoản vay này liên quan đến
mức độ tín nhiệm quốc gia. Nếu công tác quản lý lỏng lẻo, gây thất thoát vốn vay,
hiệu quả sử dụng vốn vay kém hiệu quả, không những làm suy giảm lòng tin ở nhà
đầu tư mà lâu dài còn tác động đến khả năng hoàn trả nợ của quốc gia. Kết quả là
gây ra tình trạng bất ổn trong tài chính quốc gia cũng như làm mất cân đối trong

nền kinh tế vĩ mô.

-

Ba là, từ việc bất ổn của kinh tế vĩ mô sẽ gây ra bất ổn chính trị, ảnh hưởng đến
chủ quyền của quốc gia.
Chính vì vậy, quản lý nợ công nói chung và nợ nước ngoài nói riêng luôn là nhiệm
vụ hàng đầu, là mối quan tâm, là mục tiêu lâu dài của mỗi quốc gia.

7. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả quả lý nợ công
Xác định mức độ ổn định nợ và dịch vụ nợ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết
định xem xét nên tăng thêm nợ hay giảm nợ, hoặc lựa chọn nguồn vốn nào tài trợ cho
thích hợp.
-

Đánh giá tính ổn định nợ nước ngoài của VN theo mức ngưỡng của HIPCs [1]
Đánh giá tính bền vững của nợ công được thực hiện qua các chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ NPV của nợ/xuất khẩu (NPV/X): đo lường hiện giá thuần của nợ nước ngoài liên
quan đến khả năng trả nợ của quốc gia từ nguồn thu xuất khẩu;

13


Tỷ lệ NPV của nợ/thu ngân sách nhà nước (NPV/DBR): đo lường hiện giá thuần của nợ
nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu ngân sách nhà
nước.
Tuy nhiên, chỉ tiêu thứ hai chỉ được sử dụng nếu như đáp ứng hai điều kiện: (i) tỷ lệ xuất
khẩu/GDP (X/GDP) phải lớn hoặc bằng 30% và (ii) tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/GDP
(DBR/GDP) phải lớn hơn 15%. Một quốc gia được xem là an toàn nếu như NPV/GDP
nhỏ hơn 150%; NPV/DBR nhỏ hơn 250%.


Bảng 1: Ngưỡng nợ nước ngoài theo tiêu chuẩn HIPCs

Tỷ lệ nợ

Mức ngưỡng

NPV của nợ/xuất khẩu

150%

NPV của nợ/thu ngân sách trừ các
khoản hỗ trợ
Dịch vụ nợ/xuất khẩu

250%

15%

Dịch vụ nợ/nguồn thu ngân sách trừ
các khoản hỗ trợ

10%

Nguồn: UNDP, Dự án VIE/01/010.
Dịch vụ nợ/xuất khẩu (TDS/X) và dịch vụ nợ/nguồn thu ngân sách (TDS/DBR): là những
chỉ tiêu đo lường tính lỏng được Ngân hàng Thế giới và IMF đưa vào để đánh giá mức độ
bền vững nợ công. TDS/X đo lường khả năng thanh toán dịch vụ nợ từ nguồn thu xuất
khẩu. Còn TDS/DBR đo lường khả năng thanh toán dịch vụ nợ từ thu ngân sách nhà
14



nước. Một quốc gia đảm bảo tính lỏng, TDS/X phải thấp hơn 15% và TDS/DBR thấp hơn
10%.

-

Đánh giá sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ nước ngoài
Sự ổn định nợ được đánh giá dựa trên các ngưỡng chỉ tiêu nợ được tính toán dựa vào
kinh nghiệm lịch sử của các nước HIPCs, nhằm hướng đến ngăn ngừa các cú sốc liên
quan đến nợ. Tuy vậy, trong vài năm gần đây, một cách tiếp cận mới mà Ngân hàng Thế
giới đưa vào để đánh giá chất lượng quản lý nợ công đó là dựa vào chất lượng chính sách
và thể chế. Các quốc gia có chính sách và thể chế tốt thì có thể chống đỡ được mức nợ
cao hơn so với mức ổn định nợ cơ bản.

Bảng 2: Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế

Mức ngưỡng (%)

Kém
CPIA ≤3

NPV của nợ/GDP
NPV

của

nợ/xuất

của


nợ/thu

khẩu
NPV

Đánh giá sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách
Vừa

Mạnh

3< CPIA <3.9

CPIA ≥ 3.9
30%

45%

60%

100%

200%

300%

200%

275%


350%

ngân sách trừ đi các
15


khoản hỗ trợ
Dịch vụ nợ/GDP

15%

25%

35%

20%

30%

40%

Dịch vụ nợ/thu ngân
sách trừ các khoản
hỗ trợ
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2005)
-

Đánh giá nợ trong nước
Bảng 3: Ngưỡng nợ trong nước


Tỷ lệ nợ

Mức ngưỡng

Nợ/GDP

20% – 25%

Nợ/thu ngân sách

92% – 167%

NPV nợ /thu ngân sách

88% – 127%

Dịch vụ nợ / thu ngân

28% – 63%

sách
Lãi suất/thu ngân sách

4,6% – 6,8%
Nguồn: UNDP, Dự án VIE/01/010.
16


Nợ công trong nước có ý nghĩa kinh tế rất khác nhau. Điều này liên hệ đến cả những lợi
ích tiềm năng trong quá trình phát triển thị trường tài chính lẫn ảnh hưởng ngược đến lãi

suất và đầu tư hoặc hậu quả vỡ nợ. Theo mức ngưỡng mà Ngân hàng Thế giới đưa ra ở
Bảng 3, nợ trong nước của VN ở mức khá an toàn. Từ chỉ tiêu: nợ/GDP đến lãi suất/thu
ngân sách, chỉ số nợ trong nước của VN năm 2005 thấp khá xa so với mức ngưỡng của
Ngân hàng Thế giới. Trong trường hợp này, VN vẫn có khả năng gia tăng nợ công trong
nước mà không làm ảnh hưởng đến tính bền vững nợ.
-

Đánh giá tính công bằng liên thế hệ

Theo quan điểm của Lerner (1948), nợ trong nước không tạo gánh nặng nợ cho thế hệ
tương lai. Những thành viên của thế hệ tương lai đơn giản là nợ với nhau. Khi thanh toán
nợ, có sự chuyển giao thu nhập từ nhóm người không nắm giữ trái phiếu chính phủ sang
nhóm người nắm giữ trái phiếu chính phủ. Vì thế, xét về tổng thể thì thế hệ tương lai
không bị thiệt hơn trên quan điểm mức tiêu dùng vẫn giữ nguyên như là nó có thể có.
Trong khi đó, lý thuyết tân cổ điển cho rằng vay nợ gây chèn lấn đầu tư khu vực tư. Khi
Chính phủ thực hiện dự án, cho dù được tài trợ bằng thuế hay vay nợ, thì những nguồn
lực đều lấy từ khu vực tư. Như vậy, nợ có ảnh hưởng đến vốn đầu tư của khu vực tư và
tạo ra gánh nặng cho thế hệ tương lai. Để khắc phục chèn lấn, yêu cầu các dự án đầu tư
của Chính phủ phải có hiệu quả để thu hút lại sự đầu tư của khu vực tư.
HIPCs [1]: Các nước nghèo gánh nặng nợ cao

Phần II: Khủng hoảng nợ công ở một số nước châu Âu và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam
Khởi phát từ Hy Lạp vào đầu năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công nhanh chóng lan ra
các nước châu Âu trong đó có Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia, Bỉ... Mặc dù các gói cứu
trợ liên tiếp được thông qua để giúp các nước châu Âu vượt khỏi đáy cuộc khủng hoảng
tuy nhiên, “dư chấn” của chúng vẫn còn ảnh hưởng tới hôm nay và trở thành bài học lớn
cho các nước, trong đó có Việt Nam.
17



I.

Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công ở một số nước châu Âu.
Đến thời điểm năm 2010, nợ công của Mỹ là 90,4% GDP, nợ công của Nhật Bản soán vị
trị quán quân của thế giới là 197% GDP, của khối liên minh châu Âu (EU) là 80,3 %
GDP trong đó có những quốc gia mà nợ công lên đến 3 con số như Hy Lạp (123% GDP),
Italy (127%GDP) và Ireland (142% GDP). Nguyên nhân gây ra sự gia tăng nợ công ở 3
nước này và một số nước khác ở châu Âu là do cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu bắt
đầu từ nửa sau năm 2009.
Hy Lạp là quốc gia đầu tiên bước vào vòng xoáy này, với mức thâm hụt ngân sách đạt
tới 13,6% GDP. Nợ công Hy Lạp cũng lên tới 236 tỷ euro, bằng khoảng 115% GDP của
Hy Lạp vào năm 2009. Vào tháng 11-2010, Ai-len chính thức trở thành nạn nhân thứ hai
của cơn bão khủng hoảng nợ công khi phải cầu viện Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF). Bước sang năm 2011, Bồ Đào Nha tiếp tục là quốc gia thứ ba rơi
vào khủng hoảng khi tuyên bố mức thâm hụt ngân sách đã lên tới 8,5% GDP, cùng với
đó, nợ công cũng đã vượt quá 90% GDP. I-ta-li-a và Tây Ban Nha mặc dù chưa thực sự
rơi vào khủng hoảng, nhưng cũng ở trong vòng nguy hiểm. Thâm hụt ngân sách của I-tali-a vào năm 2011 mới chỉ ở mức 5% GDP, nhưng nợ công đã xấp xỉ 120% GDP. Tây
Ban Nha nợ công ở mức 72% GDP, trong khi thâm hụt ngân sách lại rất cao, gần 9%
GDP.
Nguyên nhân chính: Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra xuất phát từ khủng hoảng
tín dụng và nhà đất tại Mỹ đã tạo nên “cú sốc” lớn tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế các
nước thành viên Liên minh châu Âu (EU). Để cứu vãn nền kinh tế khỏi suy thoái, chính
phủ các nước ở châu Âu đã phải tăng chi tiêu công, tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ
nhằm kích thích nền kinh tế phát triển. Những gói hỗ trợ này đã làm tăng chi ngân sách
và nợ công của các nước một cách đáng kể. Một nguyên nhân nữa dẫn đến cuộc khủng
hoảng nợ công châu Âu là sự hạn chế trong cơ chế phối hợp điều hành trong khu vực sử
dụng đồng tiền chung (Eurozone), nhất là giữa tiền tệ và tài khóa. Các quốc gia trong khu
vực chủ yếu hợp tác trong các chính sách tiền tệ, nhằm bảo đảm duy trì giá trị đồng Euro,
trong khi các chính sách tài khóa lại chưa có được một sự đồng thuận và hài hòa tương

18


ứng. Rõ ràng, mặc dù đã có những quy định cụ thể về mức thâm hụt ngân sách cũng như
nợ công, nhưng lại không có một cơ chế giám sát và quản lý hiệu quả đối với từng quốc
gia thành viên. Chính vì vậy, sự kiện vỡ nợ tại một quốc gia là Hy Lạp đã kéo theo khủng
hoảng niềm tin lan sang các quốc gia có chính sách tài khóa lỏng lẻo khác.
Bên cạnh đó, nguyên nhân khác khiến cuộc khủng hoảng lan rộng và có nguy cơ trầm
trọng hơn chính là việc thiếu cơ chế phối hợp ứng phó giữa các quốc gia trong khu vực.
Hầu hết các quốc gia đều cố gắng thực hiện những chính sách của riêng mình và khi
không thể giải cứu được nền kinh tế mới nhờ đến sự viện trợ của EU và IMF, mà không
hề có những cảnh báo sớm với một chiến lược xử lý về dài hạn được đưa ra. Hệ quả là nợ
công của các nước thuộc EU tăng vọt. Cuộc khủng hoảng nợ công đã làm tổn thất hàng
nghìn tỉ USD thu nhập tài chính của các nước thành viên EU đồng thời chứng kiến giá trị
của đồng Euro sụt giảm chưa từng có.
II.

Giải pháp.
Vì Hy Lạp đang đứng trước tình trạng vỡ nợ nên ưu tiên đầu tiên sẽ là giải quyết khủng
hoảng nợ công ở Hy Lạp. Vào ngày 2/5/2010, liên minh châu Âu EU và quỹ tiền tệ quốc
tế IMF đã thông qua gói cứu trợ thứ nhất cho Hy Lạp trị giá 110 tỷ euro (tương đương
136 tỷ USD), lần giải ngân đầu tiên cho Hy Lạp là 14,5 tỷ euro diễn ra vào ngày
18/5/2011. Vào ngày 21/7/2011, 17 nước thuộc khu vực EUROZONE một lần nữa đã
đồng ý thông qua gói cứu trợ thứ hai cho Hy Lạp trị giá 158,6 triệu euro trong đó sự đóng
góp của khu vực tư nhân lên đến 49,6 tỷ euro.
Bên cạnh việc giải quyết nợ cho Hy Lạp, là việc tăng thêm tối thiểu 1000 tỷ USD cho
Quỹ hỗ trợ bình ổn tài chính của châu Âu (EFSF). Phương thức hoạt động mới của Quỹ
này là cho các quốc gia khác cũng đang lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ công như
Italy, Tây Ban Nha vay tiền bằng cách cung cấp cho quốc gia này một loại bảo hiểm để
duy trì tính an toàn, sinh lợi của trái phiếu quốc gia với các nhà đầu tư.

Để khắc phục tình trạng thâm hụt vốn hoạt động của các ngân hàng đang nắm giữ các
khoản nợ của Hy Lạp, EU cũng yêu cầu các ngân hàng tăng cường huy động vốn, mức cụ
19


thể là 150 tỉ USD. Bên cạnh đó, kế hoạch còn kêu gọi các chính phủ châu Âu hỗ trợ ngân
hàng trong việc tìm nguồn vốn hoạt động. Đồng thời để tránh nguy cơ phá sản như của
ngân hàng Dexia do các nhà đầu tư tư nhân và các quỹ đầu tư tài chính của Mỹ đồng loạt
rút vốn nên EU đã yêu cầu Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ngân hàng Đầu tư châu
Âu cùng các cơ quan liên quan nhanh chóng xây dựng một hệ thống cung cấp vốn mới
nhằm giúp các ngân hàng chấm dứt tình trạng huy động vốn ngắn hạn. Một trong những
biện pháp bảo đảm an toàn đó là đòi hỏi các ngân hàng dành ra 9% giá trị tài sản để làm
nguồn vốn dự phòng, tăng gần gấp đôi so với tỉ lệ 5% hiện hành. Thời hạn thực hiện là
vào ngày 30/6/2012.

Về thời hạn kéo dài các giải pháp cứu trợ, kích cầu, quan điểm của Hội đồng châu Âu
cho đến thời điểm này là:
+ Rút lui khỏi các gói kích thích ngay khi có sự hồi phục ở các doanh nghiệp, tuy nhiên
thời gian sẽ là khác nhau đối với các nước, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ ở tầm EU;
+ Hỗ trợ thất nghiệp ngắn hạn chỉ nên thực sự dừng lại khi mà sự đổi chiều trong tăng
trưởng GDP được sự xác lập vì việc làm thường có độ trễ so với tăng trưởng.
+ Các sơ đồ hỗ trợ các lĩnh vực của nền kinh tế thực nên kết thúc sớm hơn vì chúng đòi
hỏi chi phí ngân sách lớn và thường có thể có tác động làm biến dạng thị trường thống
nhất;
+ Hỗ trợ tiếp cận thị trường vốn nên được duy trì cho tới khi có tín hiệu rõ ràng là các
điều kiện tài chính của các doanh nghiệp đã thực sự quay về với trạng thái bình thường;
+ Rút lui sự hỗ trợ lĩnh vực tài chính, khở động sơ đồ bảo lãnh chính phủ sẽ tùy thuộc
vào tình hình của nền kinh tế nói chung và vào sự ổn định của hệ thống tài chính.
III.


Một số bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng nợ công của châu Âu
20


• Kiểm soát mức nợ phù hợp với nền kinh tế.
Bài học quý giá nhất rút ra từ sau cuộc khủng hoảng nợ công của châu Âu là trong bất kì
nền kinh tế nào (phát triển, đang phát triển hay kém phát triển) nếu không xem trọng việc
quản lý thì nguy cơ vỡ nợ là khó tránh khỏi. Đồng thời chính phủ phải làm tròn trách
nhiệm trong chi tiêu những đồng tiền thuế thu được từ nhân dân. Phải có sự hợp lý và
minh bạch trong chế độ quản lý nợ công.
• Chi tiêu công hiệu quả.
Bài toán chi tiêu vốn không dễ với các nước giàu, lại càng khó với các nước đang phát
triển có nền kinh tế hạn chế. Không thể vì mục tiêu phát triển trước mắt mà thiếu tính
toán về dài hạn. Sự sụp đổ của nền kinh tế Argentina- quốc gia từng được Quỹ Tiền tệ
quốc tế ngợi ca là một hình mẫu tăng trưởng- cảnh báo các nước đang phát triển về hiểm
họa do phát triển “quá nóng”, đầu tư tràn lan, thiếu tính toán.
Đối với Việt Nam, yêu cầu đầu tiên về cẩn trọng trong chi tiêu ngân sách: “Khủng hoảng
nợ công ở Châu Âu là bài học rất tốt cho Việt Nam, chú ý giám sát nghiêm hệ thống tài
chính tiền tệ trong chính sách tài khóa- tức là ngân sách. Chúng ta đã bội chi ngân sách
quá dài. Mặc dù vẫn dưới mức nguy hiểm nhưng cũng cảnh báo chúng ta phải cẩn thận,
nếu vượt qua ngưỡng đó thì gay go bởi kinh tế của chúng ta còn yếu. Vì vậy phải quản lý
nợ công rất chặt chẽ.” Vấn đề mấu chốt đối với các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam, là phải vay mượn, nhất là vay vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức, thì mới có
nguồn đầu tư cho tăng trưởng. Do đó, vấn đề sử dụng vốn vay sao cho hiệu quả luôn
được ưu tiên hàng đầu, bởi đó là những đồng tiền vay mượn, phải trả lãi và đến hạn sẽ
phải trả nợ.Vay vốn để phát triển là rất lợi ích. Vấn đề đặt ra là sử dụng nó như thế nào để
hiệu quả và có lợi nhất có thể.

Phần III: Thực trạng quản lý nợ công tại Việt Nam trong giai đoạn
vừa qua, các biện pháp quản lý nợ công, kết quả đạt được và những

vấn đề cần tiếp tục giải quyết.
21


I. Tình hình nợ công và quản lý nợ công của Việt Nam
1. Có xu hướng tăng lên nhanh.
Việt Nam đã mở cửa, hội nhập kinh tế được gần 30 năm và cũng đạt được những thành
tựu nhất định. Chỉ trong vòng 14 năm, GDP của Việt Nam đã tăng gấp 5,6 lần, từ 32,7 tỷ
USD vào năm 2001 lên 32,7 tỷ USD vào năm 2014. Với mức tăng trưởng kinh tế xấp xỉ
6%, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã chính thức vượt ngưỡng 2.000 USD
trong năm 2014. Tuy nhiên, Việt Nam hiện vẫn đang nằm trong nhóm các nước đang
phát triển, quy mô nền kinh tế thuộc vào mức trung bình so với mặt bằng chung các nước
ASEAN và thuộc vào mức nhỏ so với mặt bằng chung các nước trên thế giới. Cơ cấu
xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn còn tương đối lạc hậu: các mặt hàng nông sản và công
nghiệp nhẹ vẫn chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu hàng hóa. Do đó, việc vay nợ chính
phủ nói riêng và nợ công nói chung vẫn là nhu cầu tất yếu để phát triển đất nước vì Việt
Nam vẫn cần sự hỗ trợ rất lớn về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính
thức) từ nhóm các nước phát triển.
Theo tạp chí kinh tế The Economist, nợ công trên GDP của Việt Nam được The
Economist xếp vào nhóm nước có mức nợ trên trung bình. Tuy nhiên chúng ta có thể
thấy rằng từ năm 2001 tới nay, nợ công của Việt Nam liên tục tăng về giá trị tuyệt đối,
mức nợ bình quân đầu người và tỷ lệ nợ công trên GDP. Nợ công của Việt Nam bắt đầu
tham gia vào bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia từ năm 2005. Giai đoạn 2005 - 2007,
chúng ta đã thăng hạng, từ 2007 - 2011 đi xuống và năm 2011 - 2012 lại đi lên. Cách đây
13 năm, năm 2001, tỷ lệ nợ công của Việt Nam chỉ mới là 11,5% GDP thì đến năm 2010,
con số này đã tăng gần 5 lần, lên 51,7% GDP. Trong 3 năm kế tiếp, từ 2010-2013, nợ
công đi ngang, chỉ tăng tiếp lên 54,2% trong đó giai đoạn 2010-2011, nợ công có giảm
(từ 56,7% xuống còn 50%) . Giai đoạn từ 2006 - 2014, xu hướng vốn vay nợ công tăng:
năm 2006 là 91.757 tỷ đồng (22,7%) đến năm 2012 là 989.300 tỷ đồng (41,1%); riêng
năm 2008, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nên nợ công xuống thấp (23,7%). Và

theo đồng hồ đo nợ công của toàn thế giới do The Eonomist thiết lập, thì nợ công của
Việt Nam cập nhật sáng 31/10/2014 là hơn 85 tỷ USD (chiếm 60,3% GDP); đồng nghĩa
với việc mỗi người dân đang gánh số nợ 937 USD, vượt ngưỡng an toàn 60% (IMF). Tuy
22


nhiên, ngưỡng an toàn nợ công với mỗi quốc gia còn tùy thuộc vào mức chịu đựng của
nền kinh tế quốc gia đó.

Hình 1: Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam giai đoạn 2007-2014 (đơn vị: %)

So với các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tỷ lệ nợ công trên
GDP của Việt Nam khá cao, chỉ đứng sau Singapore, Malaysia và Lào, trong khi cao hơn
rất nhiều so với các nước còn lại. So với Malaysia và Lào tỷ lệ nợ công trên GDP qua
các năm của Việt Nam thấp hơn không đáng kể, thậm chí là tỷ lệ nợ công của Lào còn có
xu hướng giảm qua các năm (từ 61,04% năm 2010 xuống còn 50,34% năm 2014, thấp
hơn so với Việt Nam).
2. Vấn đề sử dụng nợ công chưa hiệu quả.
Điều mà giới chuyên gia lo lắng hơn cả không chỉ nằm ở tỷ lệ nợ công/GDP như thế nào
là ở giới hạn an toàn mà còn là cơ cấu nợ như thế nào, khả năng trả nợ đến đâu và đặc
biệt là hiệu quả, chất lượng đầu tư của các khoản vay. Nói cách khác, chất lượng đầu tư
công mới quyết định sự an toàn hay rủi ro của nợ công. Tuy nhiên, đầu tư công kém hiệu
quả vẫn đang còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi tại Việt Nam. Nhiều chuyên gia kinh tế
cho rằng: Nhìn từ nợ công của Việt Nam, thấy rằng hiệu quả của đầu tư công quá thấp,
23


đầu tư 1 đồng nhưng tài sản cố định chỉ tạo được 0,4 - 0,5 đồng... Mặt khác, tình trạng
lãng phí trong việc sử dụng đồng tiền vay nợ của đầu tư công càng ngày càng đáng báo
động. Nguồn vốn vay thường được đầu tư dàn trải cho nhiều ngành, nhiều địa phương

dẫn đến tình trạng phổ biến là đầu tư dở dang, kéo dài, dự án đầu tư chậm đưa vào hoạt
động, nhanh xuống cấp trong khi chi phí đầu tư ngày càng tăng.
Câu chuyện về Vinashin là một ví dụ điển hình. Hàng trăm triệu USD vốn trái phiếu quốc
tế được huy động và chuyển cho tập đoàn này vay lại. Tuy nhiên do việc sử dụng vốn
chưa thật hiệu quả đã khiến cho Vinashin vỡ nợ và sự vỡ nợ này đã khiến những nhà đầu
tư quốc tế bất an về tính an toàn trong môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam. Từ
trường hợp đơn lẻ của Vinashin, chúng ta tự đặt ra câu hỏi: “Làm thế nào để những đồng
vốn vay được sử dụng một cách hiệu quả nhất có thể?”
Với tình hình vay nợ và sử dụng nợ công như vậy, tại các cuộc họp Ủy Ban thường vụ
Quốc hội, không ít đại biểu tỏ ra lo ngại về vấn đề nợ công và tình hình tài chính của đất
nước.
3. Tình hình nợ công còn thiếu tính minh bạch
Các con số về khoản nợ công của Việt Nam được công bố không đồng nhất giữa Quốc
Hội, Bộ Tài chính đồng thời những con số này cũng không trùng hợp với con số tính toán
của thế giới. Điều này cho thấy hiện những thông tin về nợ công của Việt Nam chưa thực
sự minh bạch. Hiện nay, Bộ Tài chính bước đầu đã có những cải thiện về tính minh bạch
cảu nợ công qua việc công khai thông tin về nợ công trên website của mình tuy nhiên
mới chỉ dừng lại ở nợ nước ngoài chứ không phải toàn bộ nợ công.
4. Tính ứng dụng thành tựu của công nghệ tin học vào quản lý nợ công.
Việc ứng dụng thành tựu của công nghệ thông tin vào quản lý nợ công còn ở mức thấp.
Số liệu về nợ công chưa được cập nhật, báo cáo về tình hình nợ công hiện nay không đầy
đủ thông tin cần thiết. Báo chỉ bao gồm vài số liệu về tổng quy mô nợ công, trong đó nợ
chính phủ là bao nhiêu, nợ chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa phương là bao nhiêu.

24


Trong khi đó, theo yêu cầu quản lý, báo cáo về nợ công phải có thông tin về chủ nợ và
địa chỉ vay nợ, lãi suất cho vay, thời hạn vay, đồng tiền vay và kế hoạch trả nợ.


II. Những rủi ro tiềm ẩn của nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam.
1. Việc tăng nhanh nợ công của Việt Nam tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Trên lý thuyết nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng an toàn tuy nhiên nếu tính
đến những khoản nợ ngầm như các khoản nợ ngân hàng, tiền trợ cấp hưu trí, các khoản
bảo hiểm xã hội mà chính phủ chi trả khi đứng ra bảo lãnh cho các khoản vay của người
có thu nhập thấp mà trong tương lai họ không có khả năng thanh toán..... thì tổng số nợ
công tiềm ẩn nguy cơ cao đe dọa tài chính quốc gia và ổn định vĩ mô, chính trị.
+ Nếu mức nợ công của Việt Nam cứ tiếp tục leo thang thì buộc nước ta phải đẩy
mạnh xuất khẩu để thanh toán nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng trong
nước bị giảm sút đáng kể.
+ Một rủi ro khác, nếu nợ công trong nước ở mức cao thì chính phủ buộc phải gia
tăng các khoản thuế để trả lãi cho các khoản vay. Việc này gây ra thiệt hại lớn cho
xã hội, kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
+ Hơn nữa, mức độ nợ công lớn có thể tác động bất lợi lên mức tích lũy vốn, năng
lực sản xuất và giảm tăng trưởng kinh tế. Nếu tăng trưởng kinh tế bị tác động bất
lợi, thì sự bền vững của hệ thống tài chính cũng bị suy giảm. Điều này làm gia
tăng rủi ro của các nỗ lực điều hành chính sách tài khóa và ổn định kinh tế vĩ mô
của chính phủ.
2. Thâm hụt ngân sách tăng ảnh hưởng đến tính bền vững của nợ công
Thâm hụt ngân sách chính phủ ở Việt Nam đã vượt xa mức “báo động đỏ” 5% theo
thông lệ quốc tế khiến tính bền vững của nợ công ngày càng giảm sút. Cụ thể, bội chi
ngân sách thường xuyên tăng và có xu hướng tăng nhanh. Chẳng hạn, năm 2012, bội chi
ngân sách là 154.126 tỷ đồng (kế hoạch là 140.000 tỷ đồng), tăng 37,6% so với năm
25


×