Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

vai trò của kiểm toán nhà nước trong quản lý nợ công của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.69 KB, 34 trang )

ĐỀ TÀI
VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
TRONG VIỆC QUẢN LÝ NỢ CÔNG TẠI VIỆT
NAM HIỆN NAY
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Tổng quan
1. Nợ công và vai trò của nợ công đối với đất nước
Phân loại nợ công
Một số khái niệm và quan điểm về nợ công
Đặc trưng cơ bản của nợ công
Vai trò của nợ công
2. Vấn đề quản lý nợ công tại Việt Nam
Sự cần thiết của quản lý nợ công tại Việt Nam
Rủi ro trong quản lý nợ công.
Thực trạng nợ công tại Việt Nam
3. Kiểm toán nhà nước và vai trò của kiểm toán nhà nước trong việc quản lý nợ công
tại Việt Nam hiện nay
Sơ lược về kiểm toán nhà nước
Vai trò của kiểm toán nhà nước trong quản lý nợ công
Kết luận
Bảng biểu
Tài liệu tham khảo
2
LỜI MỞ ĐẦU
Nợ công là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính của mỗi quốc
gia. Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt
Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao như Mỹ,
Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của chính
phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ công cần phải được sử dụng hợp lý, hiệu quả và


quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại
bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng
Một lần nữa, dư luận đặt vấn đề về tính cấp thiết của hoạt động kiểm toán nhằm
đảm bảo tính minh bạch trong quản lý và sử dụng các khoản nợ công cũng như tính bền
vững của ngân sách nhà nước của Kiểm toán nhà nước - cơ quan chuyên môn về lĩnh vực
kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, thực hiện kiểm tra việc quản lý, sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước đối với mọi cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng
ngân sách. Khi đặt câu hỏi Kiểm toán nhà nước “đứng” ở đâu trong việc quản lý và sử
dụng các khoản nợ công, nhiều chuyên gia đều nhất trí cho rằng, kiểm toán nhà nước có
vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả quản lý và sử dụng
nợ công, nhất là khi thế giới đã diễn ra một số trường hợp khủng hoảng kinh tế do đổ vỡ
nợ công. Việc thực hiện tốt việc kiểm toán các khoản nợ công sẽ làm gia tăng giá trị và
lợi ích của kiểm toán nhà nước.
Đây là vấn đề có tính thời sự và tác động lớn đến tình hình kinh tế xã hội của nước
ta trong giai đoạn hiện nay nhất là vấn đề nợ công đang là vấn đề toàn cầu mà nếu ta
không có phương thức quản lý hiệu quả sẽ dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ công như
một số nước trên thế giới đang phải đối mặt. Nhận thấy được tầm quan trọng của kiểm
toán nhà nước trong vai trò quản lý nợ công tại Việt Nam, đề tài chỉ tập trung tìm hiểu vai
trò của kiểm toán nhà nước trong việc quản lý nợ công tại Việt Nam hiện nay.
3
TỔNG QUAN
I. Nợ công và vai trò của nợ công đối với đất nước
Trong quá trình quản lý xã hội và nền kinh tế, trong từng giai đoạn nhất định, Nhà
nước có lúc cần huy động nguồn lực nhiều hơn từ trong và ngoài nước. Nói cách khác,
khi các khoản thu truyền thống như thuế, phí, lệ phí không đáp ứng được các nhu cầu chi
tiêu, Nhà nước phải quyết định vay nợ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình và
chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó, thường được gọi là nợ công.
1. Một số khái niệm và quan điểm về nợ công
Trong quá khứ, khủng hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu thập kỷ 80
của Thế kỷ XX. Năm 1982, Mexico là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả được nợ vay

IMF. Đến tháng 10/1983, 27 quốc gia với tổng số nợ lên tới 240 tỷ USD đã tuyên bố hoặc
chuẩn bị tuyên bố hoãn trả nợ. Tuy nhiên, đến nay xung quanh khái niệm và nội hàm của
nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo Ngân hàng thế giới (WB) và
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thì nợ công theo nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công,
bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương,
ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách Nhà
nước (NSNN) quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, và trong trường hợp
vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay). Cách định nghĩa này cũng tương tự như quan niệm của
Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương
mại và phát triển (UNCTAD).
Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương, các
cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được chính phủ bảo lãnh thanh
toán. Tùy thuộc thể chế kinh tế và chính trị, quan niệm về nợ công ở mỗi quốc gia cũng
có sự khác biệt. Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ
công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Một số nước, nợ công còn
bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà
nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia…).
4
Ở Việt Nam, Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12 của quốc hội khoá XII, kỳ
họp thứ 5 ban hành ngày 17 tháng 06 năm 2009 quy định, nợ công bao gồm nợ chính phủ,
nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo đó, nợ chính phủ là
khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân
danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết,
phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm
khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức
tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền
địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết,
phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam được đánh

giá là hẹp hơn so với thông lệ quốc tế. Nhận định này cũng được nhiều chuyên gia uy tín
trong lĩnh vực chính sách công thừa nhận.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ; khi nhu cầu chi tiêu của chính
phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, Nhà nước phải đi vay (trong hoặc ngoài nước)
để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến
hạn, Nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, xét cho cùng nợ công chỉ là sự
lựa chọn thời gian đánh thuế. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần dần, được hầu hết
chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách. Nợ chính phủ thể
hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau (thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại
(thế hệ được giảm thuế). Theo khía cạnh này có hai quan điểm cơ bản về nợ công.
Theo quan điểm truyền thống về nợ công, đại diện là Keynes, cho rằng, việc vay nợ
của chính phủ làm giảm tiết kiệm của quốc gia và mức tích luỹ vốn, vì số thuế cắt giảm
được bù đắp bằng cách vay nợ nên khuyến khích thế hệ hiện tại tiêu dùng nhiều hơn, số
người thất nghiệp giảm đi mặc dù lạm phát có thể cao hơn. Tuy nhiên, vay nợ để lại gánh
nặng nợ cho thế hệ tương lai.
5
Trái ngược với quan điểm trên, những người theo quan điểm kinh tế học vĩ mô cổ
điển (hình thành từ thập niên 1970), đứng đầu là Ricardo-Barro cho rằng, biện pháp cắt
giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu trong ngắn hạn, vì
không làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá nhân mà chỉ làm dịch chuyển thuế từ
hiện tại sang tương lai. Việc cắt giảm thuế và vay nợ sẽ không gây ra những tác động thực
sự đối với nền kinh tế. Việc chấp nhận thâm hụt giảm thu trong thời kỳ suy thoái, tăng thu
trong giai đoạn hưng thịnh và vay nợ cũng là cách “lưu thông thuế” để giảm thiểu những
tác động tiêu cực của thuế đối với chu trình kinh doanh.
Một cách khái quát nhất, có thể hiểu nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia là
tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi
vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính phủ, nói cách khác,
là thâm hụt ngân sách luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của
nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với
tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

2. Phân loại nợ công
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau
trong việc quản lý và sử dụng nợ công. Cho đến nay người ta thường phân loại nợ công
theo:
- Theo chủ nợ: nợ công được phân loại thành nợ trong nước và nợ nước ngoài căn cứ vào
người cho vay ở trong nước hay ở nước ngoài, theo đó, người ta còn phân loại nợ công
theo đồng tiền cho vay, chẳng hạn nợ công bằng nội tệ hay ngoại tệ, loại ngoại tệ cụ thể.
Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam. Nợ nước
ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài
chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, nợ
nước ngoài không được hiểu là nợ mà bên cho vay là nước ngoài, mà là toàn bộ các
khoản nợ công không phải là nợ trong nước. Việc đi vay của chính phủ có thể được thực
hiện thông qua phát hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu
chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì chính phủ vì có
thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. So với trái
6
phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ, trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ
(thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể
không có đủ ngoại tệ để thanh toán, thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối
đoái.
Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có thể vay
tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế, chẳng hạn Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF)… Hình thức vay này thường được chính phủ của các nước có độ tín
cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu
chính phủ của họ không cao.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản
lý nợ. Việc phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán
cân thanh toán quốc tế. Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm
bảo an ninh tiền tệ của Nhà nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng
ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.

- Theo thời hạn vay: khoản nợ công là ngắn hạn (dưới 1 năm) hay trung hạn (dưới 10 năm)
hay dài hạn (trên 10 năm).
- Theo phương thức huy động vốn: nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và
nợ công từ công cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ
những thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức
cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm
quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa Nhà nước Việt Nam với bên nước ngoài. Nợ
công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài,
thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.
- Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công: nợ công có ba loại là nợ công
từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi hay từ các tổ chức quốc tế như WB, ADB,…
với lãi suất ưu đãi rất thấp và thời gian ân hạn (thời gian bắt đầu trả nợ gốc) dài và nợ
thương mại thông thườngtừ các định chế tài chính với lãi suất thị trường, từ phát hành trái
phiếu chính phủ hay trái phiếu chính quyền địa phương trên thị trường tài chính trong
7
nước hoặc quốc tế. Tuy nhiên, hình thức vay ưu đãi chỉ áp dụng cho những nước nghèo
có thu nhập thấp.
- Theo trách nhiệm đối với chủ nợ: nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và nợ
công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương
có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh
cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
- Theo cấp quản lý nợ: nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương và nợ công
của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ
do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa
phương là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách
nhà nước năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là
nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương
được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.
3. Đặc trưng cơ bản của nợ công

Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ
công có những đặc trưng sau đây:
- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước. Khác với các khoản nợ
thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của
Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu
trách nhiệm trả nợ khoản vay (ví dụ: Chính phủ Việt Nam hoặc chính quyền địa phương).
Gián tiếp là trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một
chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm
trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng
Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài).
- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích:
một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo
8
cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; hai là, để đạt được những mục
tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn
có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị và xã hội. Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
nguyên tắc quản lý nợ công là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc
huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản như
đã nêu trên.
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế – xã hội vì
lợi ích chung. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích
riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản
chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân,
do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi
ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi đó là
điều kiện quan trọng nhất.
4. Vai trò của nợ công

Nợ công có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát triển
cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Việt Nam đang trong giai
đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó
cơ sở hạ tầng là yếu tố có tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh
chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy động nợ công hợp
lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng
năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một bộ
phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay nợ mà
những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu
vực công lẫn khu vực tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Tài
trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại giao quan trọng của các nước
9
phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế
song phương. Nếu Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều
nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn,
đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những tác động
tiêu cực nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản
tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu
quả và tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc
sử dụng và quản lý nợ công.
II. Vấn đề quản lý nợ công tại Việt Nam
1. Sự cần thiết của quản lý nợ công tại Việt Nam
Hiện nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều đang duy trì một mức nợ nước
ngoài nhất định. Thế nhưng, trong năm 2010 vừa qua, thế giới đã phải chứng kiến khủng
hoảng nợ công tại Hy Lạp, Ailen và có nguy cơ lan rộng sang các nước châu Âu khác như

Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Italia theo hiệu ứng đôminô. Các quốc gia ngoài khối
“Eurozone” như Trung Quốc, Hoa Kỳ và các cường quốc khác cũng bị ảnh hưởng trực
tiếp bởi khủng hoảng nợ công châu Âu do có những mối liên hệ mật thiết về thị trường
xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái và quan hệ đầu tư tài chính vào các trái phiếu châu Âu.
Nếu không quản lý tốt vấn đề nợ công có thể gây ảnh hưởng rất lớn đối với một
quốc gia cũng như một khu vực kinh tế. Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được
coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên
ngoài. Khi đó việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách "thắt lưng buộc bụng" để giảm
thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ
chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình
phản đối của quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người
nghèo, những người yếu thế trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính
sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ. Chẳng hạn, để được nhận gói cứu
trợ nhằm giải quyết khủng hoảng nợ, Chính phủ Hy Lạp đã phải quyết định tăng nhiều
loại thuế, từ thuế giá trị gia tăng đến thuế thu nhập, thuế bất động sản; và đánh thuế vào
10
nhiều sản phẩm như rượu, thuốc lá…, đồng thời chấp nhận áp dụng các biện pháp cắt
giảm chi tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách này của chính phủ, các cuộc tổng đình
công đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham gia biểu tình trên khắp đất nước Hy Lạp,
nhất là tại thủ đô Athen.
Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các
tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người
dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các
thế lực đầu cơ quốc tế. Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng tín dụng Standard &
Poor’s hạ bậc tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ của Athen, các quỹ đầu tư lớn lập tức
bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối mua vào trong các đợt phát hành tiếp theo.
Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn
cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy: tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng
tín nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn thương của nền kinh tế có nguy cơ làm cho
cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng, có tác dụng như một "cú huých", đẩy nền kinh tế lún

sâu thêm vào khó khăn, bế tắc.
Trong những năm qua nợ công đã góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế-
xã hội của Việt Nam. Những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam luôn có tốc độ tăng
trưởng khá, ngay cả năm 2009 khi kinh tế thế giới đang ở đà suy thoái, nhiều nền kinh tế
lớn tăng trưởng âm thì tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn đạt 5,3%. Những năm tới, đối
với Việt Nam nợ công vẫn là nguồn tài chính quan trọng bù đắp thâm hụt ngân sách để
chi đầu tư cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Tuy nhiên, việc
gia tăng liên tục vay nợ công cũng tạo ra rủi ro tiềm ẩn đối với ngân sách nhà nước, nhất
là các rủi ro tài khoá, các mối lo ngại từ quy mô, đến tính an toàn và khả năng tài trợ nợ
công. Tính đến hết năm 2011, nợ công của Việt Nam tương đương 54,6 % GDP. Dự kiến
đến hết năm 2012 và 2015, con số này sẽ lần lượt đạt 58,4 % và 60-65 % GDP.
Vấn đề nợ công của Việt Nam rõ ràng đang gây ra hàng loạt các mối lo ngại từ quy
mô, đến tính an toàn và khả năng tài trợ nợ công. Khả năng tăng trưởng kinh tế có thể sẽ
bị giảm xuống nếu các biện pháp can thiệp quá nhanh và quá mạnh, có thể làm vô hiệu
những chính sách kinh tế vĩ mô. Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt
11
Nam năm 2001 mới là 11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh
số nợ công xấp xỉ 144 USD. Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ
USD, tương đương 54,3% GDP và hiện tại, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức
nợ công trên trung bình. Như vậy, trong vòng 10 năm từ 2001 đến 2010, quy mô nợ công
đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm (Biểu đồ 1). Nếu tiếp
tục với tốc độ này thì chỉ trong vòng 5 năm nữa, đến năm 2016, nợ công của Việt Nam sẽ
vượt quá 100% GDP như hai nước thành viên EU mới lâm vào khủng hoảng nợ công gần
đây là Hy Lạp (133,6%), Ailen (129,2%). Nợ công đạt trên 100% GDP là một con số
không nhỏ đối với một nền kinh tế đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào
xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam. Nợ công ở Việt
Nam đang tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh niên, đầu
tư không ngừng mở rộng kéo theo lạm phát và lãi suất tăng cao khiến cho việc tài trợ nợ
công ngày càng trở nên đắt đỏ và tạo áp lực tín dụng dài hạn.
Các khoản nợ công có xu hướng ngày càng tăng ở nhiều quốc gia đang phát triển

và được xem như là nguồn tài chính quan trọng để bù đắp các khoản thâm hụt ngân sách
và hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội. Chính vì vậy, việc quản lý các khoản nợ
công đã trở thành một trong những vấn đề ưu tiên quan tâm trong việc đảm bảo tính bền
vững của tài chính - ngân sách. Từ những vấn đề trên có thể thấy tầm quan trọng trong
việc quản lý và sử dụng nợ công sao cho hiệu quả để kích thích tăng trưởng kinh tế, đảm
bảo an sinh xã hội mà vẫn được nợ công ở mức an toàn và có khả năng trả nợ có ý nghĩa
rất quan trọng không chỉ đối với các nước nghèo và các nước đang phát triển như Việt
Nam mà đó là vấn đề của mỗi quốc gia trên thế giới.
2. Rủi ro trong quản lý nợ công.
Ở các nước đang phát triển, để đạt được tốc độ phát triển nhanh, chính phủ thường
sử dụng chính sách tài khoá mở rộng, tăng chi tiêu chính phủ, giảm thuế để kích thích
tổng cầu tăng, đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, thực hiện
chính sách này đồng nghĩa với việc gia tăng thâm hụt ngân sách, chính phủ phải vay nợ
12
để bù đắp thâm hụt. Tình trạng vay nợ kéo dài sẽ dẫn tới nguy cơ mất khả năng trả nợ của
chính phủ, nếu tổng số nghĩa vụ nợ phải trả vượt quá khả năng thu của ngân sách.
Nhìn chung, trang trải thâm hụt ngân sách bằng vay trong nước hay nước ngoài
đều gây những ảnh hưởng bất lợi tới nền kinh tế vĩ mô. Ở các nước đang phát triển, thâm
hụt ngân sách thường được tài trợ bằng một giải pháp hỗn hợp giữa vay trong nước và
vay nước ngoài. Khi thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng vốn vay trong nước, một phần
nguồn lực tài chính của nền kinh tế sẽ được chuyển dịch từ khu vực tư nhân sang khu vực
nhà nước thông qua kênh trái phiếu chính phủ. Việc huy động này sẽ tác động đến thị
trường vốn, làm tăng cầu tín dụng, đẩy lãi suất lên cao. Lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí
đầu tư, giảm nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, có thể dẫn đến “hiệu ứng kéo lùi đầu tư”
(crowding-out effect). Nếu vay nước ngoài để tài trợ thâm hụt ngân sách, tác động kéo lùi
đầu tư có thể được hạn chế và làm giảm bớt căng thẳng trên thị trường tín dụng trong
nước, qua đó giảm nhẹ các yếu tố bất ổn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, vay nước ngoài lại
có những tác động khác nguy hại đến nền kinh tế. Thời gian đầu, một dòng ngoại tệ lớn
chảy vào trong nước sẽ làm giảm sức ép cân đối ngoại tệ. Tuy nhiên, trong trung và dài
hạn, việc chính phủ phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và lãi sẽ đẩy nhu cầu ngoại tệ

tăng cao, làm giảm giá đồng nội tệ, tăng chi phí nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên
liệu, tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế, dẫn tới các nguy cơ lạm phát. Tỷ giá tăng cao
sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ nợ, nếu như
quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà nước. Xét về mặt này, vay trong
nước an toàn hơn vay nước ngoài, vì chính phủ vẫn còn một phương sách cuối cùng là
phát hành tiền để trang trải các khoản nợ và chấp nhận các rủi ro về tăng lạm phát, trong
khi không thể làm như vậy đối với các khoản nợ nước ngoài.
Bên cạnh những hậu quả về mặt kinh tế, quốc gia còn phải đối mặt với nguy cơ suy
giảm chủ quyền , khi phải chịu những áp lực to lớn từ phía các chủ nợ và các tổ chức tài
chính quốc tế. Thông thường, đó là những sức ép về việc thắt chặt chi tiêu, tăng thuế,
giảm trợ cấp xã hội, và xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộ máy
quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế theo hướng tự do hoá nhiều hơn. Ngoài ra, việc
13
lệ thuộc quá nhiều vào các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc
gia trong các mối quan hệ song phương cũng như đa phương với các đối tác là các nước
chủ nợ.
Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỷ lệ nợ công/GDP được coi là chỉ
số đánh giá phổ biến nhất. Để bảo đảm an toàn của nợ công, các nước thường sử dụng các
tiêu chí sau làm giới hạn vay và trả nợ:
(i) Giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim
ngạch xuất khẩu;
(ii) Dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và không vượt quá 10%
chi ngân sách. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ hợp lý với trường hợp các
nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP. Tuy nhiên, trên thực tế không có hạn
mức an toàn chung cho các nền kinh tế; không phải tỷ lệ nợ công trên GDP thấp là trong
ngưỡng an toàn và ngược lại. Chẳng hạn, Hoa Kỳ có tỉ lệ nợ bằng 96% GDP, nhưng vẫn
được xem ở ngưỡng an toàn bởi năng suất lao động cao nhất thế giới là cơ sở đảm bảo
cho việc trả nợ. Nhật Bản có số nợ tương đương với 200% GDP vẫn được coi là ở
ngưỡng an toàn. Trong khi đó, nhiều nước có tỷ lệ nợ trên GDP thấp hơn rất nhiều nhưng
đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ như Argentina năm 2001 là 45% GDP; Ukraina năm

2007 với 13 % GDP, và Rumani là 20% GDP. Mới đây là trường hợp của Hy Lạp với tỷ
lệ nợ lên đến 113,5 % GDP, Ireland ước khoảng 98,5 % GDP. Vì vậy, để đánh giá đúng
mức độ an toàn của nợ công, không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ nợ trên GDP, mà cần phải
xem xét một cách toàn diện trong mối liên hệ với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhất
là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử
dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu
tư toàn xã hội Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ
cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được phân tích kỹ lưỡng khi đánh giá tính bền
vững nợ công.
3. Thực trạng nợ công tại Việt Nam
14
Có thể khẳng định rằng, trong các động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn
2001 - 2010, đầu tư đã có vai trò rất quan trọng, trong đó có vai trò của đầu tư công thông
qua việc phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ an sinh xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy
nhiên, một số hạn chế rõ ràng nhất của đầu tư công ở Việt Nam là chưa phát huy được vai
trò “tạo môi trường” để thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế khác, chưa hình
thành được các tiêu chí trong việc xác định “tính ưu tiên” của các dự án đầu tư công, việc
phê duyệt, lựa chọn các dự án đầu tư còn chịu ảnh hưởng của “tư duy nhiệm kỳ” và lợi
ích nhóm, mức đầu tư cao song tính lan tỏa thấp…Trong 10 năm qua, tỷ lệ nợ công của
Việt Nam so với GDP ngày càng có xu hướng gia tăng. Tổng số dư nợ công tính đến năm
2011 bằng 54,6% GDP. Trong cơ cấu nợ công thì nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất,
tiếp đến là nợ được Chính phủ bảo lãnh. Quy mô nợ của chính quyền địa phương chiếm
tỷ trọng tương đối thấp, dưới 1% GDP. Thực trạng nợ công tại Việt Nam hiện nay có thể
khái quát qua các mặt sau đây:
- Về quy mô nợ
Theo công bố của Tạp chí Kinh tế The Economist, tỷ lệ nợ công năm 2011 của
Việt Nam là 50,9% GDP, dự kiến đến năm 2012 tỷ lệ này là 49,9%. Mặc dù tỷ lệ nợ này
vẫn nằm trong tầm kiểm soát (dưới 60%GDP theo cách tính chỉ tiêu tỷ lệ nợ công trên
GDP của Liên hiệp quốc) nhưng nó quá cao so với mức phổ biến được khuyến cáo ở các
nền kinh tế đang phát triển (từ 30-40%) và so với một số nền kinh tế mới nổi như Trung

Quốc (17,4%), Indonesia (25,6%).
Ngoài ra, cũng theo The Economist, mức nợ công tính trên đầu người của Việt
Nam năm 2011 là 638,55 USD, dự kiến 2012 tăng lên 698,71 USD. Nếu so sánh với
817,22 USD (Trung Quốc), 808,52 USD (Indonesia), 4.626,4 USD (Malaysia), 1.195,29
USD (Philippines), 2.261,78 USD (Thái Lan) thì đây là con số không cao.
15
Tuy nhiên, nếu so mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 2001
xấp xỉ 112 USD; thì trong vòng 10 năm, con số này đã tăng gấp 6 lần, cho thấy gánh nặng
nợ tương lai đổ lên đầu người dân ngày càng tăng.
Tính ra từ năm 2007 đến cuối năm 2011, nợ công của Việt Nam đã tăng khoảng
25% (trung bình 5%/năm). Với khoản nợ này, căn cứ vào thời điểm đáo hạn thì từ nay
đến 2015 mỗi năm Việt Nam phải trả nợ gốc và lãi cho nước ngoài gần 1,5 tỉ USD và
mức trả nợ cao nhất sẽ rơi vào năm 2020 với con số lên đến 2,4 tỉ USD.
Chúng ta đều biết, nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững đó là nợ công
ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Nhưng thực tế tại Việt
Nam, thâm hụt ngân sách đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt xa ngưỡng
“báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế (bảng 2), đe dọa đến tính bền vững của nợ công.
Mặt khác, trong khi vốn vay ngày càng lớn thì hiệu quả đầu tư của nền kinh tế Việt
Nam lại đang giảm thấp đến mức báo động với chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn
1991 - 2009. Nếu như trong giai đoạn 1991 - 1995, hệ số ICOR là 3,5 thì đến giai đoạn
năm 2007 - 2008, hệ số này là 6,15; năm 2009, hệ số ICOR tăng vọt lên 8; năm 2010 hệ
số này là 6,2; nhưng vẫn cao hơn nhiều so với khuyến cáo của WB đối với nước đang
phát triển, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền
vững. Và điều đáng nói ở đây nếu hệ số ICOR chung của nền kinh tế là 8, thì ICOR của
khu vực kinh tế Nhà nước lên tới 12. Khu vực công sử dụng vốn chủ yếu từ đi vay nhưng
việc sử dụng lại không có hiệu quả, đầu tư dàn trải, thất thoát lãng phí. Phải kể đến đó
chính là hàng loạt các dự án do khu vực công đầu tư với số vốn đầu tư khổng lồ, chi phí
bỏ ra quá lớn như dự án Đường cao tốc TP HCM - Long Thành - Dầu Giây và cảng nước
sâu Thị Vải - Cái Mép được coi là hai dự án điển hình của lĩnh vực giao thông, một lĩnh
vực nặng gánh nợ công và vẫn có nhu cầu rất lớn về đầu tư công.

Trong đó, dự án thứ nhất đóng vai trò đường giao thông cửa ngõ của TP HCM. Rất
nhiều yếu tố khiến dự án cao tốc có hiệu quả tài chính kinh tế cao như kết nối với sân bay
16
quốc tế Long Thành trong tương lai, kết nối với cảng biển nước sâu và kết nối với hệ
thống đường cao tốc bắc nam. Lưu lượng dự kiến của đường cao tốc này là 100.000 lượt
đơn vị xe con mỗi ngày, cao hơn tất cả các trục đường cao tốc khác trong cả nước, nhờ
vậy mà cơ hội thu phí cao.
Nhưng dự án này rất khó hút vốn tư nhân, 99,4% tổng mức đầu tư vẫn phải tài trợ
bằng nợ công, khả năng chi trả rất khó khăn khi mà suất đầu tư quá cao. Tổng vốn lên tới
hơn 930 triệu USD cho 55 km với 4 làn đường, suất đầu tư của dự án này là 18 triệu USD
mỗi km, cao hơn hẳn các nước khác. Nếu loại trừ các chi phí xây cầu dẫn, đền bù giải
phóng mặt bằng, suất đầu tư riêng cho việc xây đường đã là 12,7 triệu USD một km.
Trong khi đó, chi phí bình quân để xây một km đường cao tốc ở Mỹ chỉ là 1,4 triệu USD,
tức 5,6 triệu USD cho 4 làn. Còn ở Trung Quốc hay Nigeria chỉ là 1 triệu USD.
Chi phí đầu tư quá cao khiến một dự án dù có hiệu quả kinh tế nhưng vẫn nguy cơ
khó trả nợ và tạo thêm gánh nặng nợ nần.Trường hợp cảng nước sâu Thị Vải - Cái Mép,
hiệu quả kinh tế tài chính còn nhìn thấy rõ hơn. Đây là cảng lớn nhất và là cảng cửa ngõ
của TP HCM. Số vốn ODA và ngân sách (765 triệu USD) chỉ đóng vai trò vốn mồi. Sau
đó, với cam kết và quyết tâm của Chính phủ, dự án đã thu hút 1,2 tỷ USD vốn của tư nhân
trong và ngoài nước. Số tiền này đều đã được giải ngân, nhiều nhà đầu tư tư nhân đã hăm
hở tới đây khởi công hạng mục của mình.
Nhưng trục trặc phát sinh khi cảng đi vào hoạt động mà hạ tầng kết nối chưa hoàn
thiện, hàng hóa không đủ để vẫn chuyển trong khi các cảng cũ của thành phố vẫn tắc
nghẽn vì hoạt động quá công suất. Những cảng container đã hoàn thành tưởng sớm cho
thu hồi vốn nhưng cuối cùng lại chưa thể vận hành hết công suất.
Ngoài ra còn phải kể đến những doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trì trệ, làm ăn
thua lỗ, Nhà nước phải đứng ra trả nợ thay như Tập đoàn Vinashin là một ví dụ điển hình.
17
Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài sẽ là tiền đề gây nên lạm phát, khủng hoảng
và suy thoái kinh tế. Nguồn vốn sử dụng không hiệu quả thì khả năng trả nợ sẽ là khó

khăn.
Do vậy nguy cơ bất ổn về kinh tế rất có thể xảy ra nếu Việt Nam không tính toán
khéo để có đủ khả năng trả nợ trong tương lai, đồng thời có thể kéo theo những bất ổn về
mặt xã hội khi người dân mất lòng tin vào sự điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà
nước.
- Về cơ cấu nợ
Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước ngoài có vai trò quan trọng và chiếm tỷ
trọng cao nhất. Theo bản tin mới nhất của Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại, năm
2010 tính toán trong tổng nợ công so với GDP có 42,2% GDP là nợ nước ngoài, tăng so
với con số 39% của năm 2009 và cao nhất kể từ năm 2006, ước tính năm 2011 là 44,5%.
Con số 42,2% GDP cũng cao hơn nhiều so với mức 38,8% mà Chính phủ dự kiến hồi
cuối năm 2010.
Với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ quá lớn trong cơ cấu
vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị tổn thương một khi kinh tế thế giới ngưng
trệ, dòng vốn đầu tư nước ngoài bị suy giảm.
Nguồn cung cấp nợ nước ngoài chủ yếu của Việt Nam là các khoản vay ODA.Tuy
nhiên, cần hiểu rằng khi Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình thì các
điều kiện cho vay sẽ trở nên kém ưu đãi hơn và chi phí trả lãi vay hằng năm sẽ ngày càng
tăng. Theo danh mục nợ công năm 2009 của Bộ Tài chính, 60,3% nợ công là ODA và
29,8% được tài trợ từ trái phiếu trong nước. Nhiều khoản vay ODA có thời gian vay rất
dài với lãi suất ưu đãi, chẳng hạn vay WB thời hạn là 40 năm, ân hạn 10 năm và lãi suất
chỉ có 0,75% hay vay ADB thời hạn là 30 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất 1%, vay Nhật Bản
thời hạn vay 30 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất từ 1% - 2%, thông thường là 1% còn một số
khoản cao hơn chỉ 2%.
18
Các điều khoản ưu đãi của ODA đã giúp Việt Nam giảm bớt được áp lực nợ công;
tuy nhiên, các khoản vay ưu đãi lại thường đi kèm với các điều khoản có liên quan đến
những ràng buộc về chính trị và kinh tế khác. Nợ càng nhiều, ràng buộc về kinh tế, chính
trị cũng lớn hơn. Khủng hoảng nợ Argentina (2001) và sự bất ổn của Hy Lạp hiện nay là
minh chứng điển hình cho tác động tiêu cực của nguồn nợ công từ nước ngoài.

Việc duy trì chi đầu tư từ ngân sách nhà nước ở mức cao trong giai đoạn vừa qua
đã làm gia tăng bội chi ngân sách. Bội chi ngân sách ở Việt Nam tăng ở mức trung bình
4,0% GDP giai đoạn 1996 - 2000 lên 4,9% giai đoạn 2001 - 2005 và 5,5% giai đoạn 2006
- 2011. Năm 2011, bội chi đã giảm xuống mức thấp nhất trong 3 năm qua là nhờ kết quả
của việc thực hiện Nghị quyết 11 về những giải pháp chủ yếu ổn định kinh tế vĩ mô.
Bội chi ngân sách kéo theo hệ quả trực tiếp là dư nợ công tăng và làm tăng chi phí
vay nợ của Chính phủ. Thêm vào đó, nguồn trái phiếu chính phủ huy động để đầu tư cho
các công trình kết cấu hạ tầng và dự án phát triển cũng đã góp phần làm tăng nợ công. Do
nằm ngoài dự toán, nên số nợ chính phủ thực tế gia tăng trong thời gian qua luôn lớn hơn
số cần có để bù đắp cho thâm hụt ngân sách.
- Về tính thanh khoản của các khoản nợ
Các món vay nợ nước ngoài của Việt Nam phần lớn là vay nợ dài hạn và tính
thanh khoản nợ công hiện vẫn khá tốt vì các khoản vay dài hạn với lãi suất thấp chiếm tới
80% (nghĩa vụ trả nợ đến năm 2013 chiếm khoảng 10% dự trữ ngoại hối quốc gia và nợ
nước ngoài chiếm 20% dự trữ ngoại hối hiện nay). Mặc dù vậy, nợ công của Việt Nam
vẫn có thể xảy ra những rủi ro về tính thanh khoản, khi thời hạn trả nợ bị xáo trộn (khoản
nợ từ trung hạn và dài hạn có thể chuyển thành ngắn hạn – trong trường hợp các chủ nợ
gặp khó khăn hay khủng hoảng kinh tế trong nước). Đặc biệt, tính thanh khoản của những
khoản nợ nước ngoài trong ngắn hạn cũng tiềm ẩn những rủi ro khi tỷ lệ dự trữ ngoại hối
của Việt Nam/tổng dư nợ ngắn hạn đã và đang sụt giảm với tốc độ rất nhanh, từ mức 100
19
lần năm 2007 xuống còn 28 lần vào năm 2008, còn 3 lần vào năm 2009 và chỉ còn gấp
khoảng 2 lần trong năm 2010.
Bên cạnh đó, nghĩa vụ trả nợ nội địa trong ba năm tới được ước tính trên số lượng
trái phiếu Chính phủ đã phát hành và sẽ đáo hạn trong vòng 3 năm tới, ước khoảng
215.000 tỷ đồng, tương đương 20% dự toán thu ngân sách nhà nước của thời điểm đó
(2014). Con số này khá lớn và ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách tài khóa, lạm phát và
các chính sách liên quan của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Từ năm 2003, Việt Nam đã hết thời gian ân hạn 10 năm, bắt đầu phải trả cả gốc lẫn
lãi. Lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm

2006 lên 1,9% trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Bên cạnh đó, từ năm
2010, Việt Nam đã bước ra khỏi danh sách các nước nghèo kém phát triển và trở thành
nước có mức thu nhập trung bình thấp, điều đó cũng có nghĩa là các khoản vay mới của
Chính phủ sẽ tương đương với các khoản vay thương mại mà gần như không có thêm ưu
đãi. Do đó, bên cạnh việc trả nợ thì Việt Nam sẽ phải thận trọng và tính toán kỹ càng cho
các khoản vay mới và ngay khi vay đã phải chuẩn bị trả nợ đúng hạn.
Nợ, thâm hụt ngân sách, lạm phát và dự trữ ngoại tệ luôn có mối liên hệ mật thiết
với nhau. Các tỷ lệ nợ nước ngoài của nền kinh tế trên GDP và tỷ lệ nợ phải trả trên xuất
khẩu thường được dùng để phân tích khả năng trả nợ của một nền kinh tế. Khi phân tích
nợ và khả năng chi trả của Chính phủ ảnh hưởng thế nào tới chính sách vĩ mô (tài khóa và
tiền tệ) thì phải tính đến cả nợ nước ngoài lẫn nợ trong nước.
Theo ước tính, đến năm 2016, Chính phủ Việt Nam phải trả nợ trên 2 tỉ USD so với
mức 1 tỉ USD của năm 2010. Như vậy, khả năng trả nợ ngày càng gặp nhiều thách thức.
- Về chi phí vay nợ
Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó chủ
yếu là ở mức 1% - 2,99%. Tuy nhiên so với các năm trước, năm 2010, các khoản vay của
20
Việt Nam có lãi suất cao hơn và khoản vay với lãi suất thả nổi đang ngày càng tăng lên,
gây thêm áp lực nợ cho Chính phủ. Trong 25,097 tỷ USD tổng nợ nước ngoài của Chính
phủ, có 19,313 tỷ USD có lãi suất từ 1 - 2,99%; trên 1,678 tỷ USD chịu lãi suất từ 3 -
5,99% (tăng 176 triệu USD so với 2009) và có tới 1,888 tỷ USD ở mức lãi suất 6- 10%,
tăng hơn gấp đôi so với 2009. Ngoài ra, các khoản vay với lãi suất thả nổi cũng tăng 6,66
triệu USD so với 2009.
Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài
của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và
năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Hơn nữa cần lưu ý là các khoản vay ưu đãi lãi suất thấp cũng
sẽ giảm đi khi Việt Nam gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình, thay vào đó là
vay thương mại có lãi suất cao hơn nhiều. Với thực trạng này, rõ ràng chi phí trả lãi đang
trở thành gánh nặng ngày càng gia tăng của Chính phủ.
- Về tiền vay nợ

Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Trên lý thuyết, điều
này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước
ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những rủi ro khi có
biến động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản vay bằng USD
(22,16%) và JPY (38,83%)gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ giá
USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang lên giá so với USD (Năm 2006:
1USD=116,3 Yên, năm 2010: 1USD=84,11979 Yên). Như vậy khi đến kỳ trả nợ, Việt
Nam sẽ phải dành một lượng USD lớn hơn nhiều để mua đồng Yên trả nợ. Và chỉ riêng
biến động này này đã làm gia tăng tổng số nợ nước ngoài và nợ công của chúng ta.
Như vậy, mặc dù mức nợ công so với GDP của Việt Nam vẫn được đánh giá là an
toàn nhưng nợ công đang ẩn chứa nhiều rủi ro. Khi nợ công quá cao, bên cạnh những hậu
quả về mặt kinh tế, quốc gia còn phải đối mặt với nguy cơ suy giảm chủ quyền, khi phải
chịu những áp lực to lớn từ phía các chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế, nguy cơ bất
21
ổn về xã hội khi Nhà nước không đảm bảo được những vấn đề về an sinh xã hội cho
người dân. Thông thường, đó là những sức ép về việc thắt chặt chi tiêu, tăng thuế, giảm
trợ cấp xã hội, khó khăn trong giải quyết thất nghiệp và xa hơn nữa là những yêu cầu về
cải cách thể chế, thay đổi bộ máy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế theo hướng tự
do hoá nhiều hơn. Ngoài ra, việc lệ thuộc quá nhiều vào các khoản vay nợ nước ngoài
cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối quan hệ song phương cũng như đa
phương với các đối tác là các nước chủ nợ.
Mặt khác, mối quan ngại về sự già hóa dân số sẽ làm cho nợ công tăng vọt trong
những thập kỷ tới. Nguyên nhân là do lực lượng lao động bị thu hẹp sẽ làm cho nguồn thu
thuế của chính phủ bị sụt giảm, trong khi đó số người nghỉ hưu tăng lên sẽ gây áp lực cho
việc tăng chi tiêu chính phủ trong các khoản lương hưu và chăm sóc sức khỏe…do vậy,
quản lý nợ công thế nào cho hiệu quả là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu tại Việt Nam
hiện nay.
Như vậy, nhìn chung nợ công của Việt Nam đang tăng nhanh trong bối cảnh thâm
hụt ngân sách. Về nguyên tắc, nợ công của ngày hôm nay phải được trả bằng thặng dư
ngân sách của ngày mai. Do đó, dường như Việt Nam đang vi phạm nguyên tắc quản lý

nợ công bền vững bởi chúng ta không những không có kế hoạch tiết kiệm dài hạn từ ngân
sách cho các khoản nợ sắp đến hạn mà vẫn đang loay hoay với bài toán làm sao để giảm
thiểu thâm hụt ngân sách.
III. Kiểm toán nhà nước và vai trò của kiểm toán nhà nước trong việc quản lý nợ công
tại Việt Nam hiện nay
1. Sơ lược về kiểm toán nhà nước
Hoạt động kiểm toán ra đời đáp ứng với yêu cầu đổi mới theo hướng xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
22
Kiểm toán nhà nước được thành lập từ năm 1994 đến nay, trải qua 18 năm hình
thành và phát triển, hoạt động của Kiểm toán Nhà nước (kiểm toán nhà nước) đã có bước
phát triển lớn mạnh, nhất là từ khi Luật Kiểm toán Nhà nước có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2006. Đặc biệt nhờ có hành lang pháp lý đó mà phạm vi kiểm toán ngày càng mở
rộng. Kết quả kiểm toán được ghi nhận trong những năm qua không chỉ là con số tăng
thu, tiết kiệm chi hàng ngàn tỷ đồng cho ngân sách nhà nước, mà có ý nghĩa hơn là thông
qua hoạt động kiểm toán của kiểm toán nhà nước đã giúp cho các đơn vị được kiểm toán
ngăn ngừa những tiêu cực, lãng phí, thất thoát tiền, tài sản; hoàn thiện hơn công tác quản
lý, đảm bảo sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia một cách tiết kiệm và hiệu quả hơn.
Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước đã cung cấp những thông tin toàn diện, xác thực về tình
hình quản lý tài chính và điều hành ngân sách của các cấp, các bộ ngành, các doanh
nghiệp…cùng nhiều kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan chức năng góp
phần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý tài chính và tăng cường hiệu
lực quản lý Nhà nước hướng tới mục tiêu minh bạch hoá nền tài chính quốc gia.
Kiểm toán Nhà nước có chức năng thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm
toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản Nhà nước. Khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính đối với các doanh
nghiệp Nhà nước, Đoàn kiểm toán sẽ kiểm toán các chỉ tiêu như: Tài sản cố định và đầu
tư dài hạn; tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn; nợ phải trả; vốn chủ sở hữu; các khoản
doanh thu, chi phí kinh doanh, thu nhập khác và chi phí khác; thuế và các khoản nộp ngân

sách Nhà nước; kết quả và phân chia kết quả hoạt động kinh doanh, trong đó thuế và các
khoản phải nộp ngân sách Nhà nước là một trong những nội dung quan trọng trong quá
trình thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
2. Vai trò của kiểm toán nhà nước trong quản lý nợ công
Kiểm toán nhà nước với tư cách là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài
chính nhà nước do Quốc hội thành lập, thực hiện kiểm tra việc quản lý, sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước đối với mọi cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách. Vì
23
vậy, việc kiểm tra của kiểm toán nhà nước đối với việc quản lý và sử dụng các khoản nợ
công là cần thiết, đảm bảo tính minh bạch trong quản lý và sử dụng các khoản nợ công
cũng như tính bền vững của ngân sách nhà nước.
Tùy vào từng cuộc kiểm toán cụ thể mà mục tiêu kiểm toán có thể khác nhau, song
mục tiêu tổng quát chung của các cuộc kiểm toán nợ công do kiểm toán nhà nước thực
hiện thường là: đánh giá sự tuân thủ các quy định pháp luật về vay nợ có liên quan của cơ
quan quản lý nợ công được kiểm toán. Đánh giá tính trung thực, hợp lý của các báo cáo
vay nợ do các cơ quan quản lý nợ lập theo định kỳ và đột xuất; đánh giá tính kinh tế, hiệu
lực và hiệu quả trong hoạt động quản lý và sử dụng các khoản nợ nhằm mục tiêu đảm bảo
cho việc quản lý, sử dụng các khoản nợ công hiệu quả, huy động được một lượng vốn
theo yêu cầu, đảm bảo các nhu cầu tài chính và trách nhiệm thanh toán của Chính phủ
được đáp ứng ở chi phí thấp nhất có thể, đạt được các mục tiêu về rủi ro và chi phí
Vai trò của các cơ quan kiểm toán nhà nước là rất quan trọng đối với việc nâng cao
hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công (nhất là trong bối cảnh thế giới đã diễn ra những
trường hợp khủng hoảng kinh tế do đổ vỡ nợ công) nhưng có thẩm quyền khác nhau trong
việc kiểm toán nợ công ở mỗi quốc gia, do tính chất đặc biệt về mục đích vay nợ cũng
như thẩm quyền tiếp cận các thông tin, dữ liệu về nợ công, quản lý nợ công, nổi bật ở
những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, vai trò cơ bản của kiểm toán nhà nước trong kiểm toán nợ công là thực
hiện xác nhận tính trung thực của thông tin trên báo cáo vay nợ do các cơ quan quản lý nợ
lập theo định kỳ và đột xuất. Thực hiện vai trò này giúp cho việc cải thiện tính minh bạch
và công khai thông tin về nợ công và công tác quản lý công. Hàng năm, theo thông lệ,

Chính phủ có trách nhiệm báo cáo tình hình nợ công với cơ quan lập pháp và giám sát. Để
đảm bảo độ tin cậy của thông tin trên báo cáo, báo cáo cần được kiểm toán để xác nhận
thông tin được phản ánh trung thực và đầy đủ. Đồng thời khi có những dư luận trái chiều
về thông tin nợ công, hoặc thông tin về nợ công không đầy đủ (xét về cơ cấu, tính hiệu
quả) qua công bố của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan kiểm toán với vai trò độc lập sẽ
24
làm rõ về tính đúng đắn của thông tin và tạo sức ép để việc công khai phản ánh đúng theo
thực tế phát sinh.
Kiểm toán nợ công đảm bảo tính minh bạch và công khai thông tin về nợ và các
chính sách quản lý nợ, các vấn đề quan trọng trong hoạt động quản lý nợ. Các mục tiêu về
quản lý nợ cần phải được xác định rõ ràng và công bố công khai và việc áp dụng các biện
pháp về chi phí, rủi ro cần phải được giải thích. Công chúng, các nhà đầu tư, Quốc hội
cần phải có được các thông tin về mục tiêu vay nợ, trong đó có cả thông tin về nguồn tài
trợ và vị thế tài chính tổng thể của Chính phủ. Chính phủ cần thường xuyên công bố các
thông tin về mức nợ, kết cấu nợ, tỷ lệ nợ trên GDP bao gồm cả các thông tin về tiền tệ,
thời gian đáo hạn, cơ cấu lãi suất và cả hiệu quả sử dụng nguồn vốn. Mặc dù các cơ quan
kiểm toán tối cao có thể không có thẩm quyền kiểm tra các chính sách vay trong từng
trường hợp cụ thể, tuy vậy các cơ quan kiểm toán tối cao vẫn đóng một vai trò chủ yếu
trong việc đảm bảo các quyết định vay mượn phải dựa trên cơ sở công khai hoá các thông
tin đầy đủ và đáng tin cậy tới tất cả các đối tượng quan tâm. Vì vậy, kiểm toán nhà nước
phải đảm bảo xác nhận các thông tin đầy đủ và đáng tin cậy về các hoạt động của Chính
phủ trong việc quản lý nợ công đã công bố.
Công khai hoá một cách thường xuyên về nợ công của một quốc gia cho phép các
nhà lập pháp, các chủ nợ và các đối tượng quan tâm khác có các thông tin kịp thời để
đánh giá liệu mức độ nợ có thể kiểm soát được và có thể dự báo các vấn đề rủi ro. kiểm
toán nhà nước có thể xác nhận tổng mức vay nợ cũng như từng khoản nợ trong tổng số
vay để cung cấp thông tin xác thực, tin cậy về nợ công cho cơ quan lập pháp, cho công
chúng để có thể kiểm soát tình hình vay nợ một cách tốt nhất. Sự công khai hoá cũng có
thể tạo ra kênh thông tin giúp các chuyên gia phân tích, dự báo các vấn đề tiềm ẩn trong
mối liên hệ với các chính sách tiền tệ, tài khoá và tình hình thực tế của môi trường kinh tế

vĩ mô trước khi xảy ra khủng hoảng. Một trong các vấn đề khó khăn trong công khai hoá
nợ công là làm thế nào các thông tin về nợ công dễ hiểu, có thể hiểu được một cách hợp
lý. Khi xem xét đến sự phù hợp của công khai thông tin nợ công, các cơ quan kiểm toán
tối cao có thể sử dụng một số chỉ tiêu đánh giá tình trạng nợ công nói chung của một
25

×