Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận cao học Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở việt nam hiện nay, những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.7 KB, 36 trang )

A- Mở đầu
I. Tính cấp thiết của vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở
Việt Nam hiện nay.
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khảng định : Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Hiến pháp 1992 sửa đổi đã thể chế hoá nghị quyết Đại hội Đảng ghi
nhận tại điều 2 : “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân”. Như vậy lần đầu tiên trong một đạo luật cơ bản chính thức ghi nhận
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của toàn Đảng, toàn dân. Trong lĩnh vực
nghiên cứu khoa học pháp lý vấn đề đặt ra cho các nhà khoa học pháp lý là
nghiên cứu nhà nước pháp quyền với những vấn đề lý luận và thực tiễn. Thực
tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức (lý luận). Tuy nhiên lý luận xác định
mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực
tiễn làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Triết học Mác Lênin đã
khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
II. Tình hình nghiên cứu.
- Ở nước ngoài : tư tưởng nhà nước pháp quyền đã có bề dày lịch sử
hình thành và phát triển. Nhiều học giả hiện đại tiếp tục nghiên cứu vấn đề
này.
- Ở trong nước : khoảng 10 năm trở lại đây có nhiều học giả nghiên cứu
vấn đề này (PGS-TS Lê Minh Tâm, GSTS Đào Trí, TS Nguyễn Văn Động...)
- Vấn đề nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là vấn đề còn nhiều tranh
luận, nhiều quan điểm khác nhau.

1


III. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


Thực tế đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, song vấn đề này vẫn luôn mang tính
thời sự rất cao, nhất là trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn Việt Nam tiến
hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Do đó tôi làm tiểu luận hết môn với đề tài “ Vấn đề xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề lý luận và thực
tiễn”.Với mục đích:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền.
- Tìm hiểu đường lối chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Đồng thời
nghiên cứu cứu đóng góp một số ý kiến bứơc đầu cải cách bộ máy nhà nước,
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng ta về vấn đề Nhà nước pháp quyền. Từ đó nhìn nhận, đánh giá lại
thực trạng tình hình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện
nay trước những yêu cầu của sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước ta. Từ
đó nêu lên một số biện pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta.
IV. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của tiểu luận gồm 3
chương và 6 tiết
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN .
Chương 2: . THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chương 3: GIẢI PHÁP TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA TRONG
THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.
2



B - NỘI DUNG
CHƯƠNG I .
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1. SỰ HÌNH THÀNH - PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN VÀ MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN.
1.1. Sự hình thành tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử.
- Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng đã có quan điểm tư tưởng về
pháp luật, pháp chế, sự tồn tại của nhà nước trên cơ sở pháp chế, pháp luật.
Trong thực tiễn, những tư tưởng này vẫn còn có những nhân tố có giá trị với
việc xây dựng nền tảng chính trị pháp lý của nhà nước pháp quyền ngày nay.
+ Platon (428 - 347 TCN).
Platon sớm nhận thấy vai trò pháp luật đối với nhà nước, ông viết : “tôi
nhìn thấy sự sụp đổ mau chóng của nhà nước nơi mà pháp luật không có hiệu
lực và nằm dưới quyền một ai đó. Còn ở đâu luật đứng trên nhà cầm quyền,
còn họ là nô lệ thì ở đó tôi nhìn thấy sự cứu thoát nhà nước và lợi ích mà chỉ
có Nhà nước mới ban phát cho nhà nước”.
+ Aristote (384 - 322 TCN).
. Là người có tư tưởng sơ khai về pháp luật quốc gia và pháp luật quốc
tế.
. Trình bày các thiết chế đang thịnh hành với sự phân biệt cơ quan nghị
luận, cơ quan chấp hành và cơ quan xét xử. Ông là người đặt nền móng cho tư
tưởng phân chia quyền lực nhà nước sau này.
+ Marctulli Ciceron (106 - 43 TCN).
Nêu lên quan điểm về pháp luật tự nhiên. Pháp luật tồn tại một cách tự
nhiên ở pháp luật các nước và trong các thời đại xuất phát từ bản chất tự
nhiên của con người. Pháp quyền sinh ra từ lý trí, tức là ở trên quyền lực.
3



Không một nguyên lão nghị viện nào, không một dân tộc nào được miễn trừ
việc tuân theo nó. Tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật.
+ Locke (Những năm 1632 -1704 SCN) đã xây dựng học thuyết về toàn
bộ quyền lực nhà nước là của nhân. Ông luận giải: Nguồn gốc và bản chất của
nhà nước, quyền lực của nhà nước xuất phát từ quyền tự nhiên của con người,
quyền con người là quyền tối cao, bất khả xâm phạm. Quyền sống, quyền tự
do, quyền sở hữu là giá trị chủ đạo của quyền con người. Để bảo vệ các quyền
tự nhiên của con người, mọi người trong xã hội thảo luận lập ra chính quyền
có quyền lực chung để bảo vệ quyền tự nhiên của con người. Chính quyền
chính là sự uỷ quyền của mọi thành viên trong xã hội.
Locke đưa ra kết luận:
. Quyền lực nhà nước về bản chất là quyền lực của nhân dân, quyền lực
của nhân dân là cơ sở, nền tảng của quyền lực nhà nước. Trong quan hệ với
nhân dân nhà nước không có quyền mà chỉ thực hiện sử uỷ quyền của nhân
dân.
. Nhà nước -x ã hội chính trị hoặc xã hội công dân thì thực chất là một khế
ước xã hội trong đó công dân nhượng một phần quyền lực chung cho quyền
lực nhà nước.
. Bảo toàn quyền tự nhiên của con người là tiêu chí quan trọng để xác
định giới hạn và phạm vi hoạt động của nhà nước.
Ngoài ra còn nhiều nhà tư tưởng nhà nước pháp quyền khác như:
Roussou (1712 -1778), Kant (1724 -1804), Heeghen (1770-1831) và tiếp đó là
nhà tư tưởng nhà nước pháp quyền vĩ đại Mác, Awnghen.
- Những ý tưởng quan niệm của các nhà tư tưởng cổ đại tuy nêu ở những
góc độ khác nhau nhưng đều cổ vũ cho việc đề cao pháp luật, xây dựng nhà
nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Những ý tưởng này có ảnh hưởng
lớn đến việc hình thành phát triển lý thuyết tính tối cao của pháp luật, về phân
chia quyền lực nhà nước, về nhà nứơc và pháp luật nói chung.


4


1.2. MỘT SỐ NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1.2.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền và những đặc trưng cơ bản
của nhà nước pháp quyền.
1.2.1.1.Khái niệm nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền không phải là vấn đề hoàn toàn mới lạ, mà là
một phạm trù có nguồn gốc lịch sử tư tưởng từ xa xưa. Sự ra đời và phát triển
của tư tưởng: “Nhà nước pháp quyền” gắn liền với sự ra đời và phát triển của
dân chủ, của tư tưởng loại trừ sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô
pháp luật. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối
cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà
nước. Đó là hai yếu tố không thể thiếu được khi nói đến Nhà nước pháp
quyền nói chung.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Nhà nước tồn tại không thể thiếu pháp luật, ngược lại thiếu
Nhà nước, pháp luật trở nên vô nghĩa. Bởi vì, pháp luật do Nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện. Nhà nước cần đến pháp luật vì thông qua pháp
luật, dựa vào pháp luật, nhà nước mới quản lý được đời sống xã hội. Dựa trên
pháp luật và các công cụ khác, Nhà nước thiết lập một trật tự xã hội. Tuy vậy,
lịch sử cho thấy không phải khi nào có Nhà nước, có pháp luật là có ngay Nhà
nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền không phải là kiểu nhà nước xét theo
học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã hội. Nhà nước pháp quyền ra
đời ở một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội.
Nhà nước pháp quyền từ quan điểm, tư tưởng đã dần trở thành thực tế
lịch sử.
Trong khoa học pháp lý bàn về khái niệm Nhà nước pháp quyền vẫn còn

nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau. Có ý kiến cho rằng Nhà nước
pháp quyền là một hình thức nhà nước. Ý kiến khác lại cho rằng Nhà nước
5


pháp quyền là một phương thức quản lý xã hội và thực hiện quyền lực nhà
nước. Nhiều ý kiến cho rằng có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước
pháp quyền XHCN, nhưng nhà nước pháp quyền XHCN ở trình độ phát triển
cao hơn nhà nước pháp quyền tư sản.
Tuy vậy, Nhà nước pháp quyền được hiểu tập trung theo hai khía cạnh
chủ yếu sau:
Ở nghĩa chung nhất, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó pháp
luật (đạo luật) thống trị trong xã hội. Nhà nước phải điều chỉnh được các quan
hệ xã hội bằng pháp luật, một quốc gia nào đó chủ yếu điều chỉnh bằng văn
bản dưới luật thì quốc gia đó chưa đủ về chất của Nhà nước pháp quyền.
Mặt khác, Nhà nước pháp quyền còn được hiểu là một hình thức tổ
chức Nhà nước và hoạt động chính trị quyền lực công khai (công quyền), thể
hiện mối quan hệ bình đẳng giữa các cá nhân và Nhà nước dựa trên cở sở của
pháp luật.
Tại hội thảo về Nhà nước pháp quyền của các nước cùng sử dụng tiếng
Pháp, tổ chức tại Bê-nanh tháng 9 năm 1991, từ các giác độ khác nhau, luật
gia của trên 40 nước đã đưa ra các quan điểm như sau:
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà ở đó quyền và nghĩa vụ của tất cả
và của mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo hộ; Nhà nước pháp quyền
được định nghĩa chung là một chế độ mà ở đó Nhà nước và các cá nhân phải
tuân thủ pháp luật, tức là một thứ bậc các quy phạm pháp luật được bảo đảm
thực hiện bằng toà án độc lập; Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng
giá trị cao nhất của con người; Nhà nước phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm
cho công dân được chống lại chính sự tuỳ tiện của Nhà nước, Nhà nước đề ra
pháp luật đồng thời phải tuân thủ pháp luật, tự đặt cho mình và các thiết chế

của mình trong khuôn khổ pháp luật. Phải có các cơ chế khác nhau để kiểm
tra tính hợp pháp và hợp hiến của pháp luật cũng như các hành vi của bộ máy
hành chính...đặc điểm của Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phải tạo ra cho
công dân sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên
6


những điều được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp
quyền là một chế độ mà ở đó Hiến pháp thống trị, nhưng phải là một Hiến
pháp được xây dựng trên sự tự do và quyền công dân được bảo đảm thực
hiện.
Trong cuốn tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội IX của
Đảng có định nghĩa: Nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không
phải là một kiểu nhà nước, trong lịch sử chỉ có bốn kiểu nhà nước: chủ nô,
phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền nói một cách khái
quát là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước
pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật. Đương nhiên, bao giờ
pháp luật cũng mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm
quyền
Như vậy, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm, tư
tưởng rất phức tạp, phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau: Tiếp cận
nhà nước pháp quyền dưới giác độ tư tưởng, lý luận, bàn về các quan điểm,
quan niệm về nhà nước pháp quyền. Lý luận về Nhà nước pháp quyền và Nhà
nước pháp quyền XHCN đang còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong
chương trình khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX - 04.
Khái niệm Nhà nước pháp quyền có nhiều cách tiếp cận khác nhau,
nhưng chung quy lại Nhà nước pháp quyền là khái niệm bao hàm những nội
dung rất phong phú, chứa đựng những đặc trưng, những mặt cơ bản, ghi nhận
một trạng thái phát triển, một trình độ phát triển của Nhà nước và tiến bộ xã

hội. Tựu chung các ý kiến thường lấy các dấu hiệu đặc trưng để xác định nội
hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền, như: tính tối cao của Luật, sự phân
công quyền lực, dân chủ và bảo đảm quyền con người, trách nhiệm qua lại
giữa nhà nước và công dân; tính độc lập của nền tư pháp... Theo đó: Nhà
nước pháp quyền hiểu chung nhất là Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trên cơ sở pháp luật, trong đó mọi chủ thể kể cả nhà nước đều phải tuân thủ
7


nghiêm chỉnh pháp luật - một hệ thống pháp luật có tính phổ biến cao (đề cao
tính tối cao của Hiến pháp và luật), phù hợp với ý chí, thể hiện đầy đủ những
giá trị cao cả nhất của xã hội, của con người.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Nhà nước pháp
quyền.
Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống
lý luận của V.I.Lê-nin, bởi nó không thuần túy là những lý thuyết khoa học
mà gắn bó chặt chẽ với quan điểm chính trị; nó không đơn giản là những suy
tư tinh thần mà gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động của ông.
Chính vì vậy, tìm hiểu những tư tưởng của V.I.Lê-nin về nhà nước có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với chúng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Nhất quán với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin tiếp tục
khẳng định rằng, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong
của nó là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể; “nhà nước chỉ là một tổ chức
thống trị của một giai cấp” và “bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để
một giai cấp này trấn áp giai cấp khác”.
Tính chất đặc biệt của nhà nước chuyên chính vô sản với tư cách hình
thức chuyển tiếp trước khi đạt đến trạng thái tự tiêu vong của nhà nước được

V.I.Lê-nin làm rõ trong việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tính
chuyên chính và tính dân chủ của nhà nước.
V.I.Lê-nin cho rằng, nếu tính giai cấp là bản chất của mọi nhà nước, thì
dân chủ hay chuyên chính cũng chỉ là hai mặt của bản chất đó mà thôi. “Bất
cứ một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là dùng bạo lực; nhưng toàn bộ sự
khác nhau là ở chỗ dùng bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với
kẻ đi bóc lột, ở chỗ có dùng bạo lực đối với giai cấp những người lao động và
những người bị bóc lột không”. Đối với V.I.Lê-nin: “Chuyên chính cách
8


mạng của giai cấp vô sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được
và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản...”.
Chuyên chính vô sản không hề đối lập với dân chủ, mà là phần bổ
sung, là hình thức thể hiện của dân chủ. “Chuyên chính vô sản, nghĩa là việc
tổ chức đội tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để
trấn áp bọn áp bức, thì không thể giản đơn đóng khung trong việc mở rộng
chế độ dân chủ được. Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho
nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu - chuyên chính vô sản còn thực
hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột,
bọn tư bản”.
Như vậy, sự phát triển của V.I.Lê-nin đối với quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen về nhà nước, điểm quan trọng nhất chính là ở chỗ, đặc tính phổ
biến của mọi nhà nước đó là giai cấp. Như thế, biểu hiện về mặt lịch sử trong
suốt quá trình phát triển của xã hội loài người là mối quan hệ biện chứng của
hai mặt chuyên chính và dân chủ. Rõ ràng, trên phương diện này, nhà nước là
một cách thức tổ chức đời sống xã hội, một giai đoạn trong tiến trình phát
triển của xã hội, là một vòng khâu của sự phát triển. Đây chính là quan niệm
duy vật và biện chứng có tính nguyên tắc trong việc lý giải đời sống xã hội
nói chung, vấn đề nhà nước nói riêng và gắn liền với những cố gắng to lớn

của V.I.Lê-nin trong sự phát triển chủ nghĩa Mác.
2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về nhà nước pháp
quyền.
2.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh
Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, và vì dân vì mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội
công bằng văn minh thì tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền nói riêng đã có vị trí, vai trò vô cùng quan

9


trọng trong việc xây dựng nhà nước thật sự dân chủ, một nhà nước thật sự của
dân vì quyền và lợi ích của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ
chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước;
trong đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất quán, thể
hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền. Trong di sản lý luận của
mình, Hồ Chí Minh đã có lần chính thức sử dụng thuật ngữ "chế độ pháp trị".
Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, điều hành
đời sống xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân
chủ, tiến bộ và có tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong
sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là: Chúng
ta phải có một hiến pháp dân chủ. Cùng với chủ trương xây dựng Hiến pháp,
ngày 10-10-1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh SL/47 cho phép sử dụng một
số điều khoản của pháp luật cũ để điều chỉnh các quan hệ dân sự. Trong nhận
thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của các chế độ xã hội có những giá trị nhân
bản chung mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển. Ở đây, Hồ Chí Minh đã

nhìn nhận pháp luật trong chiều sâu văn hóa của nó.
Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến
pháp năm 1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và
ban hành Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh,
một khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật "gốc"
- Hiến pháp, cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các
quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình.
Ngoài hai bản Hiến pháp, từ năm 1945 đến 1969, Hồ Chí Minh còn chỉ
đạo soạn thảo, ký quyết định công bố 16 đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật.
Khối lượng văn bản luật đó luôn thể hiện rõ việc đề cao tính nhân đạo và nhân
10


văn, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà nước mà nhân dân là chủ và do
nhân dân làm chủ.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ; mọi
công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều bình đẳng trước pháp luật
cả về quyền lợi và nghĩa vụ; ai vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm khắc,
cho dù người đó ở vị trí nào trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà
nước. Theo Người, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người đều
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; pháp chế chỉ bảo đảm khi các quy phạm
pháp luật được thực thi trong các quan hệ xã hội; mọi hành vi vi phạm pháp
luật phải bị xử lý. Như vậy, trong thực thi luật pháp, việc thưởng phạt phải
nghiêm minh. Vì nếu thưởng phạt không nghiêm minh thì người cúc cung tận
tụy lâu ngày cũng thấy chán nản, còn người hư hỏng, vi phạm pháp luật, kỷ
luật sẽ ngày càng lún sâu vào tội lỗi, làm thiệt hại cho nhân dân. Trong một
nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến
mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công.
Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là

công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền của
Người không chỉ dừng lại ở các quyền con người được ghi trong các văn bản
pháp luật mà còn thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho
ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào
theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, pháp quyền
Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp quyền nhân nghĩa - một thứ nhân
nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.
Trên thế giới, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây tồn tại hai phương thức
trị nước chủ yếu: đức trị và pháp trị. Bản thân Hồ Chí Minh cũng đã có lần đề
cập đến chế độ pháp trị: ... Tư pháp cần góp phần của mình là thực hiện chế
độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ
nhân dân. Nhưng trong thực tế, Người đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều
hành xã hội bằng pháp luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách
11


mạng, nâng cao bản lĩnh công dân, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh nhận rõ cả pháp luật và đạo
đức đều dùng để điều chỉnh hành vi của con người, nâng con người lên,
hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Pháp luật góp phần hoàn thiện nhân
cách làm người, còn đạo đức làm cho người ta thực hiện luật pháp một cách
tự giác. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là cơ sở để xây dựng,
thực hiện pháp luật. Nền pháp quyền của ta là một nền pháp quyền hợp đạo
đức, có nhân tính. Hồ Chí Minh lý giải: nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng
như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và
làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp
bức. Phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước độc lập, dân được tự do,
hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ.
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh
được thể hiện ở quan niệm xử lý các hành vi phạm pháp, nguyên tắc "có

lý","có tình" chi phối mọi hành vi ứng xử của con người, tôn trọng cái lý, đề
cao cái tình, tùy từng trường hợp, tình huống cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn
mạnh mặt này hay mặt khác. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật phải kịp thời,
nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ một ai, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cái
xấu, cái ác, khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong
mỗi con người, chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Trong việc thực thi
pháp luật cũng phải bảo đảm tính hài hòa giữa các mặt tưởng chừng như đối
lập nhau. Phương châm của Hồ Chí Minh là: không xử phạt là không đúng;
song, cái gì cũng trừng phạt cả cũng là không đúng, nên phải tránh lạm dụng
pháp luật. Tính nghiêm minh và hiệu lực của luật pháp không chỉ phụ thuộc
vào sự đúng đắn của pháp luật mà trong quan hệ thực tế còn phụ thuộc vào cả
cái tâm của chính người đại diện cho pháp luật.
2.2.2. Quan niệm của Đảng ta
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu các giá trị tư tưởng hiện đại
của loài người, trước nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước, Đảng Cộng sản
12


Việt Nam chủ trương lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Quan điểm về nhà nước pháp quyền của Đảng là một bộ phận hợp thành tổng
thể lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền là một quá trình. Trước
những năm 90 của thế kỷ XX, trên bình diện lý luận, chúng ta chỉ dùng các
khái niệm "Nhà nước chuyên chính vô sản", "Nhà nước xã hội chủ nghĩa".
Đến năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa
VII, khái niệm "nhà nước pháp quyền" đã được nêu lên. Từ đó, Đảng ta nhận
thức rất rõ rằng, nhà nước pháp quyền là một thành tựu vĩ đại của tư tưởng
nhân loại; xét về bản chất, không chỉ có một loại nhà nước pháp quyền duy
nhất; mà dựa trên cơ sở kinh tế - xã hội, bản chất chế độ xã hội khác nhau,
vẫn tồn tại Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức này ngày càng thống nhất trong toàn Đảng và được khẳng
định rõ tại Đại hội IX của Đảng (4-2001): Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức,
cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp
luật. Quan điểm này đã được thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và cụ
thể hóa trong Điều 2: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
13


Trong Dự thảo Đề cương các Văn kiện trình Đại hội X của Đảng, xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định
thành một vấn đề có tính nguyên tắc với các nội dung: nghiên cứu, thể chế
hóa và xây dựng cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền
lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, đồng thời
định rõ cơ chế, cách thức bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước
3. Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và

Nhà nước pháp quyền tư sản
Trên cơ sở các tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền, chúng ta có thể
nhận thấy tương đối rõ ràng sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền tư sản.
1 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư
sản đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy
nhà nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về
tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm
khác nhau rất cơ bản. Rõ nhất là, sự khác nhau trong các quy phạm của hiến
pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của
bộ máy quyền lực như: Quốc hội và Nghị viện; Tổng thống và Chủ tịch nước,
Thủ tướng Chính phủ, Tòa án, Tòa án Hiến pháp, v.v.. Pháp luật trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính
phủ...) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là
chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính
phủ hoặc tổ chức ra Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ mới. Trong khi đó,
Hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng

14


thống hoặc cá nhân Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc
giải tán Chính phủ...
2 - Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công
dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ
nghĩa thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trong Nhà nước
pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của
pháp luật, nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không
thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí,

nguyện vọng của một bộ phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp
tư sản. Nói cách khác, luật pháp của Nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ
lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của người lao động những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản.
3 - Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học
thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
không thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là
thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó, có sự phân công, phối hợp, để
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền
lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất.
4 - Về hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và Nhà nước pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau. Bên cạnh sự
khác nhau về tính giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công
nhận các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình
tự và thủ tục nhất định; trong khi đó, Nhà nước pháp
quyền tư sản thường coi "án lệ" hoặc "tập quán" như một loại quy phạm
pháp luật "bất thành văn".

15


Chương 2.
THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. - Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài việc bảo đảm
các tiêu chí của nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa nói riêng, còn có một số đặc điểm sau:
1 - Về quá trình hình thành và phát triển, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở đánh đổ chế độ
phong kiến, thực dân, không kinh qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Đây là đặc điểm lịch sử rất quan trọng cho chúng ta thấy rõ điểm xuất
phát của quá trình xây dựng nhà nước cùng với những khó khăn, yếu kém của
hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc xã hội. Qua mấy chục năm phấn đấu,
xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động, đến Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), lần đầu tiên trong văn bản
chính thức của Đảng, chúng ta mới xác định việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
2 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà
nước pháp quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính
nhân dân của Nhà nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và
do nhân dân định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng
và vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi
ích của nhân dân và của toàn bộ dân tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ khác.

16


3 - Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức
năng của nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đây là phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ,
chúng ta phải lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta
không thừa nhận học thuyết "tam quyền phân lập" vì nó máy móc, khô cứng

theo kiểu các quyền hoàn toàn độc lập, không có sự phối hợp, thậm chí đi đến
đối lập, hạn chế sức mạnh của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy
nhiên, chúng ta cũng không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập
trung toàn bộ quyền lực cao nhất của nhà nước lập pháp, hành pháp và tư
pháp cho một cá nhân, hoặc một cơ quan tổ chức nhà nước. Bởi vì, làm như
vậy là đi ngược lại lịch sử tiến bộ của nhân loại.
Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân công, phân định
thẩm quyền cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng
cao ba quyền, tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền...
Theo Hiến pháp và pháp luật, Quốc hội là cơ quan duy nhất được giao
thực hiện thẩm quyền lập pháp, bên cạnh đó Quốc hội còn được giao thực
hiện 13 nhiệm vụ nữa (xem Điều 2 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001); Chính
phủ được phân công thực hiện thẩm quyền hành pháp; Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao được phân công thực hiện thẩm quyền tư
pháp. Như vậy, Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao không phải là cơ quan được giao nhiệm vụ lập pháp, nhưng hiện nay
Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân lại quy định các cơ quan đó trình các dự án luật, pháp
lệnh trước Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có ý kiến cho rằng,
không nên giao cho Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tối
cao chủ trì soạn thảo và trình Quốc hội các dự án luật, pháp lệnh, vì đây là
thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; hơn nữa, khái
17


niệm lập pháp phải bao hàm toàn bộ nội dung của quá trình soạn thảo dự án
luật, thông qua và ban hành luật, có như vậy mới bảo đảm tính khách quan
toàn diện và chất lượng văn bản pháp luật.
4 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt

động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong số những nội dung cơ bản
nhất của nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới
phục tùng cấp trên. Tập trung dân chủ được thể hiện trong quá trình tổ chức
và xây dựng bộ máy quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc
này cần cân nhắc, xem xét các điều kiện cần và đủ để phát huy tác dụng, hiệu
quả tích cực của nguyên tắc này; đặc biệt phải lưu ý đến quyền hạn và trách
nhiệm cá nhân trong việc thực hiện công vụ của bộ máy công quyền hiện nay.
5 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, công dân phải làm tròn
nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Mối quan hệ qua lại giữa Nhà
nước với công dân, giữa dân chủ với kỷ cương trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam phải do pháp luật quy định và điều chỉnh. Đây là một
đặc điểm quan trọng, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền hiện nay và phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
6 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội
chủ yếu bằng pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập
pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc
tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
7 - Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đây là đặc điểm nổi bật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ. Đảng lãnh
đạo Nhà nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng
pháp luật. Đảng không làm thay Nhà nước và phải hoạt động trong khuôn khổ
của Hiến pháp và pháp luật. Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh
18


đạo của mình nhằm tạo điều kiện cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu
quả, đặc biệt trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa. Mặt khác, Đảng không ngừng đổi mới công tác tổ chức và xây
dựng bộ máy để bảo đảm Đảng vẫn giữ được vai trò lãnh đạo Nhà nước,
nhưng không chồng chéo với các cơ quan chức năng tương ứng trong bộ máy
của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp.
2. Khái quát về thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1. Một số kết quả đạt được trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam trong thực tiễn.
2.1.1. Về xây dựng, củng cố, cải cách, hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của Nhà nước.
a. Đánh giá chung.
Thời gian qua trên cơ sở phân tích sâu sắc thực trạng của bộ máy nhà
nước ta và yêu cầu của tình hình mới Đảng và Nhà nước đã đưa ra những kết
luận quan trọng, vạch ra những quan điểm chỉ đạo và những giải pháp nhằm
xây dựng kiện toàn bộ máy nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Qua đó kết quả
đạt nổi bật được thể hiện như:
Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ của nhà nước, tạo điều kiện
cho nhân dân lao động thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của mình
thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, tham gia tích
cực vào xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước
Kiện toàn một bước bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, trong sạch,
vững mạnh hoạt động có hiệu lực và hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của cán
bộ, công chức nhà nước trước nhân dân. Các thể chế hành chính nhà nước và
tổ chức hành chính nhà nước đều được tăng cường, nền hành chính nhà nước

19



đang đổi mới theo xu hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại hoá.
Đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
b. Các kết quả lớn cụ thể.
Các kết quả lớn cụ thể đạt được của quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam trong thời gian qua gồm:
Đổi mới và nâng cao một bước chất lượng hoạt động của Quốc hội
(các kỳ họp Quốc hội, chất lượng và hoạt động của đại biểu Quốc hội, vị thế
của Quốc hội trong bộ máy nhà nước và trong đòi sống xã hội). Quốc hội
đang thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có khả năng thực hiện
tốt nhất quyền lập pháp, quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước và quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà
nước.
Củng cố, kiến toàn hội đồng nhân dân các cấp làm đúng chức năng, nhiệm
vụ theo luật định.
Cải cách một bước nền hành chính nhà nước, trước hết đã tập trung cải
cách thủ tục hành chính, từng bước cải cách thể chế hành chính trên các lĩnh
vực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong điều kiện hội nhập quốc tế; xây dựng một hệ thống hành chính
thông suốt, rõ về chức năng, nhiệm vụ, tinh giản gọn nhẹ (đổi mới chức năng,
nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, uỷ ban nhân dân các
cấp).
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Việc quản lý, sử dụng, được đổi mới một bước
theo các quy định của pháp luật về cán bộ công chức. Coi trọng gắn kết hợp
chế độ trách nhiệm, khen thưỏng và kỷ luật. Cải cách một bước chế độ tiền
lương để nâng cao đời sống. Quan tâm đầu tư cho cán bộ cấp cơ sở.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp đảm bảo dân chủ, khách

20



quan, minh bạch, chống và giảm bớt oan, sai. Củng cố đồng bộ hệ thống cơ
quan toà án, viện kiểm sát,điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp.
Tiến hành kiên quyết thường xuyên công tác đấu tranh chống tham
nhũng, quan liêu, xử lý nghiêm những người vi phạm đồng thời tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, củng cố kỷ luật trong nội bộ cơ
quan nhà nước.
2.1.2. Về xây dựng, đổi mới hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật.
Trong thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật được quan tâm hơn,
cơ chế xây dựng pháp luật được đổi mới, do đó hệ thống pháp luật đã có
những đổi mới quan trọng phù hợp với sự thay đổi cơ chế kinh tế, với tình
hình và nhiệm vụ mới của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế.
Hiến pháp được sửa đổi thích ứng với đòi hỏi của tình hình. Các văn
bản luật được quan tâm ban hành để điều chỉnh cho hầu hết các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật phát triển khá cân đối, điều chỉnh cho các
lĩnh vực: tổ chức, hoạt động của nhà nước (Luật Hiến pháp, Luật tổ chức
Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án, Viện kiểm sát...);
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; trong lĩnh vực kinh doanh (Luật
Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật kinh doanh bảo hiểm...); trong bảo vệ quyền
của công dân và các chủ thể...
Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật được tăng cường. Nhà
nước đã dần thực sự dựa vào pháp luật để quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
2.2. Những tồn tại cần khắc phục trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết
điểm, yếu kém: tổ chức còn cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc, chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ, thảm quyền; tiêu chuẩn cán bộ, công chức nhà nước


21


chưa được xác định rõ; hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
chưa cao.
Hoạt động lập pháp đang đứng trước yêu cầu to lớn về hoàn thiện hệ
thống pháp luật cũng như yêu cầu mới mẻ, phức tạp của việc điều chỉnh pháp
luật nên đã bộc lộ một số bất cập trong thiết kế hoàn thiện tổng thể hệ thống
pháp luật và trong xác định thứ tự ưu tiên cần thiết của từng văn bản pháp luật
cũng như nâng cao tính khả thi và tính hiệu lực của văn bản pháp luật.
Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước còn bộc lộ không ít những
nhược điểm, nhiều mặt còn chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới. Tổ chức hành chính chưa thông suốt, còn hạn chế trong việc xử lý
mối quan hệ ngang, thậm chí còn hiện tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp
trách nhiệm còn thiếu rành mạch. Thẩm quyền cá nhân chưa được quy định
rõ. Phong cách làm việc trước dân của cán bộ, công chức còn là vấn đề bức
xúc.
Về lĩnh vực tư pháp, tổ chức và hoạt động còn nhiều bất cập, sai sót.
Hệ thống pháp luật còn cần tiếp tục đổi mới mạnh và sâu sắc hơn nữa. Nhiệm
vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền đang đặt ra
là quyết tâm đổi mới hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và
thực thi pháp luật nghiêm minh.
3.Quan điểm cơ bản và nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân
3.1. Quan điểm chỉ đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN không phải là xây dựng một
Nhà nước mới khác về bản chất của Nhà nước XHCN mà Đảng và nhân dân
ta đã tiến hành hơn mấy chục năm qua. Xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ cốt lõi của cải cách tổ chức, hoạt
động của nhà nước, là cách cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
22


Việt nam chính là quá trình tiếp tục xây dựng Nhà nước XHCN trong điều
kiện hoàn cảnh mới. Dựa trên các văn kiện của Đảng, các quy định của Hiến
pháp, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải tuân
thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
3.1.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải được
thực hiện trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước và các văn
kiện của Đảng ta.
3.1.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam nhưng phải giữ vững
bản chất giai cấp, bản chất dân chủ thực sự rộng rãi của Nhà nước XHCN.
Nhà nước Cộng hoã xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
3.1.3. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
3.1.4. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải đảm bảo phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với đặc điểm truyền thống về lịch
sử, văn hoá Việt Nam, có bản sắc Việt Nam; đảm bảo kế thừa và phát huy
truyền thống, kinh nghiệm quản lý đất nước của dân tộc ta qua suốt chiều dài
lịch sử, tiếp thu có chọn lọc thành tựu của thế giới.
3.1.5. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải trở thành

yêu cầu cấp bách đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Nói cách khác bất cứ nội dung nào của cải cách tổ chức, hoạt động của nhà
nước đều phải thấm nhuần yêu cầu và định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN.
23


3.1.6. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình từ
thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện, phải tiến hành
từng bước vững chắc, phải dựa trên cơ sở thường xuyên tổng kết thực tiễn,
kịp thời điều chỉnh bổ sung. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN gắn liền
với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển
nền dân chủ xã hội XHCN và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Phải chuẩn
bị các điều kiện cần thiết và phải đảm bảo ổn định chính trị, ổn định kinh tếxã hội, ngăn chặn được âm mưu và hành động của các thế lực thù địch và bọn
cơ hội.
3.2. Nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
3.2.1. Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và
thực hiện nghiêm minh pháp luật, đáp ứng yêu cầu của với nhiệm vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hợp tác hội nhập quốc tế và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Hướng đến hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý
cho hoạt động của toàn xã hội, nhất là cho tổ chức, hoạt động của nhà nước và
cán bộ, công chức nhà nước, đồng thời có chuẩn mực rõ ràng để đánh giá
đúng sai, tăng cường pháp chế trong đời sống nhà nước và xã hội.
Một mặt coi trọng hoàn thiện Hiến pháp, các luật điều chỉnh tất cả các lĩnh
vực hoạt động của nhà nước và xã hội, mặt khác phải xác định được thứ tự ưu
tiên cần thiết và nâng cao tính khả thi, tính hiệu lực và hiệu quả của pháp luật
trong cuộc sống. Đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật.
Pháp luật về tổ chức hoạt động của nhà nước phải đi liền với pháp luật
về phát triển kinh tế, pháp luật về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, pháp

luật về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Pháp luật nội dung phải đi liền với pháp luật hình thức.
Pháp luật phải gắn liền với đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh.
Hoạt động lập pháp muốn vậy phải vừa đảm bảo chất lượng vừa phải
theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Mặt khác phải đẩy mạnh các hoạt động tổ
24


chức thực hiện pháp luật, mở rộng các hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp
luật, dịch vụ và tư vấn pháp lý trong xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc
theo Hiến pháp, pháp luật, xây dựng nền văn hoá pháp lý trong đời sống xã
hội.
3.2.2. Tiếp cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước.
Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương
trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành luật.
Quốc hội phải làm tốt chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối
cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách hành chính. Xây dựng nền hành chính nhà nước dân
chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Điều chỉnh chức năng và
cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý
vĩ mô việc thực hiện các nhiêm vụ trong cả nước bằng hệ thống pháp luật,
chính sách hoàn chỉnh. Định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ theo hướng
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công.
Phân công, phân cấp nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương,
kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành và theo lãnh thổ; thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ; tổ chức hợp lý hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ
quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp cơ sở.

Đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng một nền tư pháp trong sạch, công
tâm, khách quan, độc lập trong hoạt động nghiệp vụ đồng thời chịu sự kliểm
tra, giám sát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền. Cải cách tổ chức, nâng cao
chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Viện kiểm sát thực hiện tốt
chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống toà án
nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của tòa án các cấp. Tổ chức lại cơ
quan điều tra theo hướng gọn đầu mối. Thành lập cảnh sát tư pháp.
25


×