Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.58 MB, 53 trang )

LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG TÂY
Kiến trúc thời kì đồ đá
Kiến trúc Ai Cập cổ đại
Kiến trúc Lưỡng Hà
Kiến trúc Cổ điển
Kiến trúc Hy Lạp cổ đại
Kiến trúc La Mã cổ đại
Kiến trúc Trung cổ
Kiến trúc Byzantine
Kiến trúc Roman
Kiến trúc Gothic
Kiến trúc Phục Hưng
Kiến trúc Baroque
Kiến trúc Rococo
Kiến trúc Tân Cổ điển
Kiến trúc Hiện đại
Kiến trúc Hậu Hiện đại
Chủ nghĩa Phê bình bản địa

-- 1 –


KIếN TRÚC THờI KÌ Đồ ĐÁ

Mộ đá (dolmen) ở Ireland

Vòng tròn đá ở Anh

Thời kì đồ đá trong lịch sử kiến trúc bắt đầu từ khoảng 10.000 năm trước Công nguyên ở vùng Cận Đông,
Tây Nam Á, mở rộng ra hướng đông và hướng tây.
Thời kì văn minh Đồ đá mới ở Đông nam Anatolia, Syria và Iraq vào khoảng 8.000 năm trước Công


nguyên.
Hình thái xã hội hái lượm bắt đầu từ 7000 năm trước Công nguyên ở Đông Nam châu Âu, và ở Trung Âu
vào khoảng 5500 năm trước Công nguyên.
Ở châu Mỹ và châu Đại dương, người thổ dân bản địa vẫn còn ở thời kì đồ đá cho đến khi người châu Âu
khám phá ra họ.
Các cư dân thời Đồ đá ở Cận Đông, Anatolia, Syria, phía nam bình nguyên Lưỡng Hà và Trung Á là
những nhà xây dựng vĩ đại.
Họ đã biết sử dụng gạch-bùn để xây nhà ở và các ngôi làng.
Người ta đã biết trang trí nhà cửa với những tranh vẽ tạo hình người và thú vật.
Ở Trung Âu, các căn nhà dài bằng phên liếp đã được xây dựng.
Các khu mộ tỉ mỉ cũng được cũng xây dựng. Đặc biệt, ngày nay vẫn còn hàng ngàn ngôi mộ như vậy ở
Ireland.
Người thời Đồ đá mới ở quần đảo Anh cũng xây dựng những nấm mồ và phòng mộ cho mình và các trại
tường đất đắp (causewayed camps), các vòng tròn đá (henges flint mines) và các đài đá lớn hình tròn (cursus
monuments).

-- 2 –


Kiến trúc Ai Cập cổ đại

Trang trí trần trong sảnh chính của Medinet habu

Kim tự tháp Khephren
Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu vực sông Nil vùng đông bắc châu Phi. Nền văn minh
Ai Cập cổ đại là một trong những nền văn minh cổ xưa nhất và rực rỡ nhất của nhân loại.

Đặc điểm của k.trúc Ai Cập là công trình có quy mô lớn, kích thước đồ sộ, nặng nề và thần bí.
Trước khi nhắc đến sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc Ai Cập cổ đại, phải nói đến sự khéo tay trong nghề
làm đá của những người thợ giỏi trong xã hội Ai Cập cổ đại.

Vật liệu đá trong xã hội Ai Cập có nhiều loại: đá vôi, đá sa thạch, đá đen, đá thạch anh, đá hoa cương, đá
minh ngọc...
Kinh nghiệm xây dựng thủy lợi trên hai bờ sông Nil giúp cho người dân Ai Cập phát minh ra máy nâng và
vận chuyển, biết cách tổ chức lao động cho hàng vạn người một lúc. Mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt của công
trình kiến trúc được dùng với thước đo. Việc sử dụng dụng cụ như rìu, búa và thước thủy chuẩn cũng rất
chuyên nghiệp.
Kim tự tháp
Người Ai Cập cổ đại có tục lệ ướp xác, tạo thành các "momi" và chôn chúng trong những ngôi mộ đồ sộ là
Mastaba và Kim tự tháp.
Mastaba là lăng mộ của tầng lớp quý tộc, là một khối xây bằng đá, có mặt cắt hình thang, mặt bằng hình chữ
nhật. Trong Mastaba có ba phòng: sảnh, phòng tế lễ và phòng thờ (nơi đặt tượng người chết). Từ mặt trên
của Mastaba người ta đào một giếng hình tròn hoặc hình vuông, sâu đến khoảng 30 m. Đáy giếng thông
sang một hành lang rồi đến phòng mai táng (nơi để quan tài). Sau khi chôn người chết, giếng được lấp kín.
Ở Ai Cập còn tìm thấy nhiều nơi có dấu vết của các khu vực có Mastaba như khu lăng mộ vua chúa ở
Memphis, xây dựng ở vương triều thứ ba, khoảng thế kỷ 18 trước Công nguyên. Loại hình kiến trúc này là
nguồn gốc ban đầu của các Kim tự tháp.
Một trong những Kim tự tháp lớn xuất hiện đầu tiên là Kim tự tháp Djoser. Nó có đáy hình chữ nhật, hai
cạnh dài 126 m và 106 m, cao 60 m, có 6 bậc, các tầng thu nhỏ về phía trên. Công trình này do Imhotep chỉ
đạo xây dựng. Ông là một vị quan đầu triều của nhà vua vương triều thứ 3, năm 2770 trước Công nguyên.
Ngoài Kim tự tháp này còn có Kim tự tháp ở Meidum và ở Dashur là những loại có ba bậc cấp. Sau này,
chúng được nghiên cứu và phát triển thành Kim tự tháp trơn, tiêu biểu nhất là quần thể Kim tự tháp ở Giza.
Quần thể này bao gồm ba Kim tự tháp lớn, một con nhân sư Sphinx, 6 Kim tự tháp nhỏ, một số đền đài và
400 Mastaba. Ba Kim tự tháp trên là: Kim tự tháp Kheops (hay Kim tự tháp lớn tại Giza), Kim tự tháp
Khephren và Kim tự tháp Mykerinos. Các Kim tự tháp này mang tên các nhà vua của Vương triều thứ 4; các
kim tự tháp nhỏ hơn là của các hoàng hậu cùng thời. Vật liệu xây dựng tháp là đá vôi được khai thác tại chỗ,
bên ngoài được phủ lớp đá vôi trắng nhẵn bóng, lấy từ các mỏ đá ở Tourah, trên hữu ngạn sông Nil, lớp phủ
này ngày nay đã bị tróc mất.

-- 3 –



Đền thờ

Mặt bằng đền Luxor

Những đền thờ Hy Lạp cổ đại dùng để thờ thần Mặt Trời. Thờ thần Mặt Trời cũng chính là thờ vua. Đền thờ thường có một cái
cửa lớn, đường bệ và phù hợp với tính chất của các nghi lễ tôn giáo. Phần quan trọng thứ hai của đền là khu vực nội bộ của đại
điện. Đây là nơi vua tiếp nhận sự sùng bái của một số người nên không gian được tổ chức sao cho u uẩn, kín đáo, mang tính thần
bí. Đôi khi, đền còn được bao quanh bởi bức tường thành, ở đây có trổ một cửa gọi là tiền tháp môn (propylon), sau đó là một con
đường lát đá, rộng 34 m, dài khoảng 140 m, hai bên đặt những con Sphinx, tiếp đến là các tháp bia, tượng vua và tháp môn.

Nhân sư (tiếng Anh: Sphinx) là tượng đầu người, mình sư tử nằm canh ở kim tự tháp (mộ của các pharaon)
thời Ai Cập cổ đại. Sang thời Hy Lạp, Nhân sư đầu đàn bà thân sư tử, cánh chim. Thường đựoc dùng trong
trang trí gỗ ở thời Hi Lạp hóa và La Mã.
Tượng Sphinx (Xphanh) nằm ở sa mạc Ai Cập cách thủ đô Cairo khoảng 8 dặm, được người xưa dùng để canh gác ba kim tự tháp lớn ở Gizah. Đó là một quái vật
tạc bằng đá, đầu người mình sư tử với những chân có vuốt trải ra phía trước.
Hình tượng chạm trổ sơ sài nhưng đầu lại được tạc một cách rất công phu. Đôi mắt đầy vẻ bí hiểm và có cái nhìn không ai có thể giải thích nổi. Mắt con Sphinx
nhìn chằm chằm ra phía sa mạc với cái vẻ kênh kiệu khó hiểu.
Tượng cao hơn 18 mét và trải dài tới 57 mét, mặt có bề ngang 5 mét, tại 1,57 mét, mũi 1,7mét. Người ta cho rằng tượng Sphinx đã tồn tại ít nhất 5.000 năm nay!
Tại sao lại xây dựng tượng này? Một bằng chứng mà ta có được xuất phát từ việc tìm thấy một am thờ nằm giữa những cái chân của quái vật này. Am thờ nhỏ này
có bút tích của hai vị hoàng đế cổ Ai Cập. Hai vị giải thích rằng tượng Sphinx biểu thị một trong những hình dạng của thần Mặt trời Harmachis. Và hai vị còn nói
rằng mục đích làm tượng Sphinx là để xua đuổi tất cả những điều bạo ác, tội lỗi khỏi khu nghĩa địa quanh kim tự tháp.
Ở Ai Cập có nhiều tượng Sphinx, ngoài tượng Sphinx lớn ở Gizah. Đầu tượng biểu thị các vị hoàng đế. Trong các sách thánh của người Ai Cập, Sphinx có nghĩa là
“vua chúa”.
Đối với các tôn giáo nguyên thủy ở Ai Cập cũng như ở các nơi khác, nhà vua được coi là sức mạnh và sự khôn ngoan của nhiều con thú bằng cách khoác cái lốt
của chúng. Vì vậy người Ai Cập đã chạm các vị thần và các vị hoàng đế của họ nửa người, nửa thú.
Quan niệm về Sphinx đã từ Ai Cập truyền tới các nền văn minh khác, chẳng hạn như Assyria và Hy Lạp. Ở các vùng này, Sphinx thường có thêm cánh. Ở Assyria
Sphinx thường là đàn ông, nhưng ở Hy Lạp Sphinx lại có đầu đàn bà.
Người Hy Lạp có một câu chuyện truyền thuyết về Sphinx như sau: Sphinx sống trên một tảng đá và giết bất cứ người nào đi qua mà không trả lời được câu đố sau
đây: “Cái gì đã đi bằng bốn chân vào buổi sáng, đi bằng hai chân vào buổi trưa, đi bằng ba chân vào ban đêm?”. Oedipus trả lời rằng đó là con người, bò bằng cả

bốn chân tay khi là đứa trẻ, đi thẳng người trên hai chân khi là người lớn và đi với cây gậy khi đã già.
Đó là câu trả lời đúng, do đó con Sphinx điên tiết lên đã lao từ trên tảng đá xuống và chết

Nhà ở
Vào khoảng thế kỷ 17 TCN, nhiều loại hình nhà ở được thấy ở thành Telel Amarna. Có ba loại nhà chính
sau :
• Nhà ở ba gian, vật liệu xây dựng là lau sậy và đất sét, mái bằng.
• Nhà cho quan lại, tường gạch cao, mở ba cửa quay ra phố.
• Loại lâu đài, dinh thự có ao cá, vườn cây phía trước, vật liệu dùng cột gỗ, tường gạch, dầm gỗ, mái
bằng và trong nhà có trang trí tranh tường. Các cung điện của nhà vua có quy mô lớn, nhấn mạnh
trục dọc, bên trong các phòng có nhiều cột, ngoài trục dọc còn có thể có trục phụ. Gỗ làm cung điện,
Ai Cập không có mà được vận chuyển từ Syrie tới.

-- 4 –


Kiến trúc Lưỡng Hà
Lưỡng Hà (Mesopotamia) là một bình nguyên nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates thuộc Tây Á,
ngày nay là miền nam của Iraq.
Việc nghiên cứu kiến trúc Lưỡng Hà cổ đại dựa trên
những bằng chứng khảo cổ học, những bức tranh thể hiện
các công trình và những văn bản miêu tả lại việc xây
dựng. Những văn bản của các học giả thời trước thường
được lưu giữ trong các đền, trên những bức tường thành
phố, trên những cánh cổng và trên những công trình lăng
mộ, nhưng thỉnh thoảng chúng cũng xuất hiện trên các
công trình nhà cửa dân cư.[7] Việc nghiên cứu bề mặt kiến
trúc cũng cho phép có cái nhìn về hình thức thành thị tại
các thành phố ở buổi đầu lịch sử Lưỡng Hà. Những tàn
tích nổi tiếng nhất từ thời Lưỡng Hà là các tổ hợp đền tại

Uruk từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên, những
đền đài và cung điện từ các địa điểm thuộc Triều đại sớm
tại thung lũng Sông Diyala như Khafajah và Tell Asmar,
những tàn tích của Triều đại Ur thứ 3 tại Nippur (điện thờ
Enlil) và Ur (điện thờ Nanna), những tàn tích giữa Thời đồ
đồng tại các địa điểm ở Syria và Thổ Nhĩ Kỳ Ebla, Mari,
Alalakh, Aleppo và Kultepe, những cung điện giai đoạn
cuối thời đồ đồng ở Bogazkoy (Hattusha), Ugarit, Ashur
và Nuzi, các cung điện thời kỳ đồ sắt và các đền đài tại
Assyria (Kalhu/Nimrud, Khorsabad, Nineveh),
Babylonian (Babylon), Urartian (Tushpa/Van Kalesi,
Cavustepe, Ayanis, Armavir, Erebuni, Bastam) và các dịa
điểm Neo-Hittite (Karkamis, Tell Halaf, Karatepe). Các
ngôi nhà thường là tàn tích còn sót lại của Babylonia cổ
tại Nippur và Ur. Trong số những văn bản về việc xây
dựng công trình và mục đích của chúng, Gudea từ thiên
niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên là đáng chú ý nhất, cũng
như những văn bản ghi chép hoàng gia Assyria và
Babylonia từ Thời đồ sắt.

Kiến trúc của người Sumer
Các cư dân người Sumer đầu tiên đã định cư ở Lưỡng Hà và xây dựng nên nền văn minh ở đây vào khoảng
3500 năm trước Công nguyên cho đến thời đại Babylon. Kiến trúc của vùng Lưỡng Hà thường được xem
như bắt đầu với sự hình thành các thành phố của người Sumer và sự sáng tạo nên chữ viết và khoảng 3100
năm trước Công nguyên.

Nhà cửa
Những vật liệu sử dụng xây dựng nhà cửa tại Lưỡng Hà tương tư như vật liệu ta dùng ngày nay: gạch bùn,
vữa bùn và cửa gỗ, tất cả chúng đều có sẵn ở xung quanh thành phố[8], dù gỗ có hiếm hơn. Đa số nhà đều có
phòng trung tâm hình vuông và các phòng khác bao xung quanh, nhưng nhà nói chung khác biệt nhau nhiều

về kích thước và vật liệu sử dụng tùy theo gia đình [1]. Những phòng nhỏ không đồng nghĩa với việc chủ
nhà nghèo khó; trên thực tế những người nghèo nhất xây nhà bằng các vật liệu nhanh hỏng như lau sậy lấy
từ bên ngoài thành phố, nhưng có rất ít bằng chứng trực tiếp về điều này[9].

Cung điện
Các cung điện của tầng lớp trên tại Lưỡng Hà ở thời kỳ đầu là những phức hợp công trình lớn, và thường
được trang hoàng rực rỡ. Những công trình như vậy còn có thể thấy tại các di chỉ châu thổ Sông Diyala
River như Khafajah và Tell Asmar. Các cung điện có từ thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên đó được
dùng cho những định chế kinh tế xã hội bậc cao, vì thế, ngoài chức năng ở và nhà riêng, chúng còn là xưởng
chế tạo đồ thủ công, kho thực phẩm, sân tổ chức nghi lễ, và thường có cả các điện thờ. Ví dụ, cái gọi là
"giparu" (hay Gig-Par-Ku trong tiếng Sumer) tại Ur nơi những vị nữ tu của thần Mặt trăng Nanna trú ngụ là
một phức hợp lớn với nhiều sân, một số điện thờ, những phòng chôn cất của các nữ tu, một phòng nghi lễ
lớn, vân vân. Một phức hợp tương tự là một cung điện Lưỡng Hà đã được khai quật tại Mari ở Syria, có niên
đại từ giai đoạn Babylonia Cũ.
Các cung điện Assyria từ Thời đồ sắt, đặc biệt tại Kalhu/Nimrud, Dur Sharrukin/Khorsabad và
Ninuwa/Nineveh, đã trở nên nổi tiếng nhờ những hình ảnh và những đoạn văn miêu tả trên các bức tường
của chúng, tất cả đều được khắc trên những phiến đá. Những hình ảnh đó hoặc thể hiện cảnh thờ cúng hoặc
miêu tả về quân đội của nhà vua hay các thành tựu dân sự. Những cánh cổng và những lối vào quan trọng

-- 5 –


được trang trí bằng nhiều hình khắc các vị thần trong thần thoại để tránh điều không may. Bố cục kiến trúc
các cung điện thời đồ sắt cũng được tổ chức xung quanh một sân nhỏ. Thường phòng thiết triều của vua có
cửa trông ra một sân nghi lễ lớn, nơi những vị triều thần gặp gỡ và tổ chức các lễ nghi triều đình.

Đền thờ
Các công trình kiến trúc được xây dựng trong thời kì Protoliterate là chủ yếu là các đền đài tôn giáo.
Người Sumer sử dụng vật liệu chủ yếu xây dựng bằng gạch-bùn, với thể loại công trình nổi tiếng là các Đài
chiêm tinh Ziggurat, còn được gọi là bệ núi, ra đời trên cơ sở sùng bái đồi núi, sùng bái thiên thể và tục lệ

xem sao, các vì tinh tú trên trời. Ziggurat là loại hình kiến trúc kiểu tầng bậc, bệ cao nọ đặt trên bệ cao kia,
càng lên cao thì thu dần lại, có đường dốc trượt hoặc bậc thang thẳng góc hoặc men theo khối xây để đi lên
đỉnh, trên đỉnh có một đền thờ nhỏ. Bậc thang có khi đi lên từ bên phải và bên trái khối xây, cũng có kiểu
bậc thang xoáy trôn ốc.
Mỗi thành phố đều có một hoặc một số Ziggurat. Dấu vết còn lại đã chứng minh đó là những công trình kiến
trúc bằng đất nện, bên ngoài có xây một lớp gạch. Ziggurat còn lại ở thành phố Ur là chứng tích nổi tiếng
nhất của loại hình kiến trúc này, có niên đại khoảng năm 2125 TCN, có kích thước đáy 65 x 43 m, tầng một
cao 9,75 m, tầng hai có kích thước 347 x 23 m, cao 2,5 m, chiều cao tầng trên cùng khoảng 21 m. Ngoài
Ziggurat ở Ur, người ta còn tìm thấy dấu vết các Ziggurat khác ở Uruk, Eridou, Ninive và tạo dựng lại cả
hình ảnh Ziggurat ở Babilon. Nhìn chung, các Ziggurat có từ ba đến bảy bậc, mỗi tầng được trang trí một
màu khác nhau, tượng trưng cho một ngôi sao thờ.

Mô phỏng một Ziggurat

Ziggurat tại Ur

Ziggurats là những ngôi đền to lớn được xây dựng để cúng tế các vị thần. Chúng được xây bằng đất sét và bùn và có ba hay bốn
phần. Chúng được xây rất cao để luôn được giữ khô ráo bởi ở thời ấy thường xuyên xảy ra những trận lũ lụt. Cần nhiều nhân công
để xây dựng một ziggurat. Ít nhất phải có đủ người để đào đất sét, làm gạch, và xếp những viên gạch đó lại với nhau. Những viên
gạch được làm bằng bùn và sậy ép.

Chỉ ziggurat tại Ur còn tồn tại tới ngày nay bởi những người xây dựng chúng sau này đã nhân ra rằng việc
nung đất sét sẽ khiến những viên gạch có tuổi thọ lâu hơn. Những Ziggurat được xây dựng theo hình kim tự
tháp, với những bậc thang dẫn lên mặt phẳng trên đỉnh - rất giống những vườn treo. Chúng được xây trông
giống như những ngọn núi, vì người dân muốn có được số cây gỗ và các khoáng chất phong phú như ngọn
núi Zargos, nằm giữa Lưỡng hà và nước Iran hiện nay, cũng như bởi núi là nơi trú ngụ của các vị thần, và
việc xây dựng một hòn núi giả khiến con người gần gũi hơn với các vị thánh thần cũng như sẽ thường xuyên
được thừa huệ hơn khi luôn có các vị thần bên cạnh.
Vườn treo Babylon
cũng được gọi là vườn treo Semiramis, là một công trình do vua Nebuchaduezzar xây dựng trong đó cây

được trồng trên các tầng nhà chồng lên nhau.

tranh khắc màu thế kỷ 16

-- 6 –


của Martin Heemskerck

Trong vườn treo có một hệ thống đài phun nước gồm hai bánh xe lớn liên kết với nhau bằng dây xích có gắn
thùng gỗ. Khi bánh xe quay, dây xích và thùng nước cũng chuyển động đưa nước ở một cái bể phía dưới lên
trên cao tưới nước cho cây. Để tưới nước cho hoa và cây của khu vườn, các nô lệ phải luân phiên nhau đưa
nước từ con sông Eupharates lên khu vườn.
Kiến trúc Assyri- Nghệ thuật trang trí
Đến 3000 năm trước Công nguyên trở đi, các hình thức trang trí công trình đã rất phát triển. Gạch ốp lát lưu
ly là đỉnh cao của nghệ thuật trang trí mặt tường kiến trúc Lưỡng Hà cổ đại. Gạch có màu men óng ánh khác
nhau, có độ bền vững tốt. Nền của những diện tích lớn trang trí bằng gạch lưu ly có màu lam đậm, phù điêu
màu trắng hoặc màu vàng kim nhũ, toàn bộ tạo thành những "tấm thảm" rất ấn tượng. Lịch sử phát triển loại
gạch lưu ly gắn bó với việc xây dựng lớn của Babilon thời đại Tân Babilon thế kỷ 6 TCN.
Triều đại Nabucodonosor 2 còn để lại cho nhân loại hai chứng tích lớn về kiến trúc có sử dụng gạch lưu ly
từ thế kỷ 6. Chứng tích thứ nhất là cửa thành Ishtar, có bố cục trang trí các mảng tường lớn, phân bố đều các
hình động vật, lặp di lặp lại một cách đơn giản nhưng ấn tượng về nhịp điệu rất mạnh. Chứng tích thứ hai là
bức tường phía sau ngự điện trong cung điện của nhà vua Nabucodonosor. Toàn bộ mặt tường là bức tranh
lớn, có một loạt con sư tử ở chân tường, băng giữa của tường có bốn cây, mỗi cây lại đỡ những bó hoa hai
tầng, băng trên cùng là dải hoa cỏ

-- 7 –


Kiến trúc Hy Lạp cổ đại

Kiến trúc Hy Lạp cổ đại ra đời và hình thành trên một vùng đất đai rộng lớn, bao gồm miền Nam bán đảo
Balkans, các đảo nhỏ ở vùng biển Aegaeum (Αιγαίον, Aigaion), khu vực Tiểu Á, vùng ven Hắc Hải, Ý,
Sicilia, Pháp, Tây Ban Nha và Ai Cập.

Các quần thể kiến trúc thánh địa và kiến trúc dân dụng Hy Lạp cổ đại

Ở nơi đây, người ta thường tổ chức các lễ hội, tiến hành thi đấu thể dục thể thao, bình luận
văn chương, diễn thuyết, ngâm thơ và biểu diễn kịch, ngoài ra còn có thể trao đổi, mua bán.
Do đó, về sau người ta đã xây thêm xung quanh các quần thể này những sân bãi thi đấu,
quán trọ, hội trường, các hành lang cột và các loại đền đài.
Hai quần thể kiến trúc công cộng phổi biến trong đô thị cổ đại lúc bấy giờ là
AGORA (quảng trường công cộng, mang tính dân dụng) và
ACROPOL (là những quần thể kiến trúc với nhiều đền đài, được xây dựng trên
những khu đồi cao).
Diện tích các agora khoảng 5% diện tích đất thành phố. Những agora tiền kỳ có hình dạng
bất quy tắc nhưng từ cuối thế kỷ 4 TCN trở đi, nó có dạng hình học nhất định và được bao
vây bởi các hàng cột thức hai tầng. Ở giữa agora có đặt bàn thờ và tượng thần. Các agora
quan trọng có thể kể ra là agora ở Miletos (Μίλητος), Megalopolis (Μεγαλοπολη), ở Asoss
và Knid.
Vào thời kỳ cổ điển thịnh kỳ, các acropol được xây dựng thêm các nhà hát ngoài trời có
thềm dốc bậc ở các khu vực chân núi. Các acropol nổi tiếng nhất là acropol ở Athena
(Acropolis), ở Bergama (hay Πέργαμος, Pergamos) và ở Paestum.

-- 8 –


Quá trình phát triển đền đài Hy Lạp cổ đại
Đền thờ Hy Lạp cổ đại có đặc điểm là nhiều cột chạy vòng phía bên ngoài. Các loại hình đền đài được phân
theo mức độ phức tạp của cách thiết kế những cột đó như sau:


Mặt bằng đền thờ
Mặt bằng đền thờ dạng Distyle cột ở hai
dạng Distyle
phía
Loại đền cổ nhất có
dạng hình chữ nhật, Loại đền cổ thứ hai có dạng như trên,
lối vào chính ở cạnh nhưng có thêm hai cột ở cạnh ngắn phía
ngắn và có hai cột ở sau nữa, gọi là dạng Distyle ở hai cạnh;
chính cạnh ngắn này, ví dụ đền thờ Artemis ở Eleusina
gọi là dạng Distyle; ví (Ελεύσινα).
dụ như ngôi đền thờ
thần Themis ở
Rhamnus

Mặt bằng đền thờ
dạng Peripteral
Loại đền hình chữ
nhật có một hàng cột
chạy ở vành ngoài chu
vi công trình, có tên là
Peripteral; ví dụ đền
Hephaestos (hay
Theseio - Θησείο) và Loại đền hình chữ nhật, có hai hàng cột
chạy bao xung quanh công trình, có tên
đền Parthenon
gọi là đền Dipteral; ví dụ đền Olympeion
(Παρθενώνας) ở
ở Athena, đền thờ Apollo ở Miletos
Athena (Αθήνα,
Athína), đền

Paestum...

Mặt bằng đền thờ
Mặt bằng đền thờ dạng Amphi-prostyle
Loại đền giống loại
dạng Prostyle
Loại đền giống loại đền thứ hai, nhưng có
đền thứ nhất, nhưng bốn cột ở cạnh ngắn
thay vì hai cột mà là phía trước và bốn cột
bốn cột ở phía trước, ở cạnh ngắn phía sau,
gọi là dạng Prostyle;gọi là loại AmphiProstyle (tiền tố
ví dụ ngôi đền ở
"amphi" có nghĩa là
Selinus
"cả hai phía")

Loại đền hình tròn,
vành ngoài có hàng
cột vòng quanh gọi
là Tholos; ví dụ
Tholos ở Epidaurus

Loại đền hình chữ
nhật có tường chịu
lực là chính, nhưng
mặt ngoài tường ghép
thêm các cột, gọi là
loại đền có các cột
giả, hay là đền
Pseudo-Peripteral;

ví dụ đền thờ thần
Zeus ở Olympia

Mặt bằng đền thờ Hy Lạp cổ đại được tạo thành bởi ba thành phần chính:
pronaos
(tiền sảnh),
naos
(gian thờ) và
pathenon (phòng để châu báu).
Ngoài ra, trong một số đền còn có thêm opisthodomos (hậu sảnh).
Vẻ đẹp của đền đài Hy Lạp cổ đại gắn liền với sự ra đời và phát triển của các loại thức cột.

-- 9 –


Sự hình thành và phát triển của các loại thức cột
Thức cột là hệ thống tỷ lệ và hình thức trang trí cột, là cách người Hy Lạp cổ đại tìm kiếm đến cái đẹp lý
tưởng. Có 3 loại thức cột cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth. Những thức
cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian,
biểu trưng cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Thức cột Hy Lạp được xem
như biểu tượng của kiến trúc cổ điển.

Thức cột Doric:
Thức cột Doric, có hậu thân là thức cột
Toscan, là thức cột cổ nhất và đơn giản
nhất trong hệ thống các thức cột cổ điển.
Thức này được hình thành từ một trụ thẳng
đứng phình to ở đáy. Nói chung, thức cột
này không có phần đế cột (base) lẫn không
có phần đầu cột (capital). cột Doric có 20

gờ. Vẻ đẹp thức cột này thường được so
sánh với vẻ đẹp khỏe mạnh của người đàn
ông cường tráng, do nó được sử dụng ở
tầng dưới cùng của đấu trường Coliseum
và đền Pathenon và có khả năng chịu lực
cao nhất. Tỷ lệ đường kính cột trên chiều
cao cột khoảng 1:4

• Thức cột Ionic:
Thức cột Ionic mang dáng dấp nữ tính,
mảnh dẻ và giàu tính trang trí hơn cột
Doric. Nguồn gốc cột Ionic là Ionia, thuộc
địa của Hy Lạp. Cột Ionic có 24 gờ sống
đứng, tỷ lệ đường kính cột trên chiều cao
cột là 1:9. Ngoài ra, cột này có thêm đế cột
(base) ở phía dưới và đầu cột có hình đệm
nhỏ, phía trên có hình xoắn ốc loe ra rồi
cuộn vào trong (volute). Các dầm ngang
của cột Ionic được phân vị theo chiều
ngang thành ba dải. Các ngôi đền có cột
này là đền Artemis ở Ephesus (Έφεσος),
đền thờ Apollo Epikourios ở Bassae
(Βασσές, Bassaes), đền Erecteyon ở
Athena

• Thức cột Corinth:
Thức cột Corinth ra đời sau hai cột
trên, vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước
Công nguyên, có đường nét mảnh mai,
giàu trang trí, đầu cột có nhiều chi tiết

hoa lệ, giống như một lẵng hoa kết hợp
cùng với mấy tầng là phiên thảo diệp
(acanthe). Thức cột này do kiến trúc sư
Callimachus sáng tạo ra. Cột này có ưu
điểm hơn hai cột trên là đối xứng nhiều
chiều và có thể cảm nhận được trong
không gian. Có thể thấy công trình sử
dụng loại cột này tại đền Olympeion ở
Athena và đền Apollo ở Bassae

Đền thờ Apollo ở đảo Delos, bản vẽ phục
chế của thế kỉ 19

114 Winsor Ave- NY

-- 10 –


Mặt hướng tây đền thờ Hephaestus ở
Athena

Albert F Laub mausoleum

Đền Parthenon ở Anthena

Forman- Cabana house

William Butter house- Oak

NY Public library

Các loại cột trên sau này được người La Mã cổ đại kế thừa và phát triển, đồng thời sáng tạo thêm hai loại thức cột mới là Toscan và
Composite.
• Thức cột Composite:
• Thức cột Toscan :

Các công trình tiêu biểu cho kiến trúc thời kỳ này
• Acropolis (Ακρόπολη) ở Athena.
• Propylaia (Προπυλαια) - Sơn môn
• Đền Athena Nike (Đền thờ thần Athena Chiến thắng)
• Đền Parthenon
• Đền Erecteyon

-- 11 –


Những loại hình kiến trúc khác trong thế giới Hy Lạp cổ đại
• Hội trường và kịch trường ở Megalopolis (Μεγαλοπολη, Megalopoli) và ở Epidaurus.
• Điện thờ ở Bergama (hay Πέργαμος, Pergamos).
• Lăng mộ ở Halicarnassus (Ἁλικαρνασσός).
• Agora ở Assos và ở Miletos (Μίλητος).
• Các phố và nhà ở Olynthus (Ολυνθος).

-- 12 –


Kiến trúc La mã cổ đại
Bán đảo Italia (Ý), nơi hình thành nhà nước La Mã
cổ đại nằm ở Nam Châu Âu như một chiếc chân
người chìa ra Địa Trung Hải. Bán đảo Italia có nhiều
đồng bằng, tương đối thuận lợi cho việc phát triển

nông nghiệp, trong lòng đất lại chứa nhiều khoáng
sản, thuận lợi cho nghề luyện kim. Địa hình ở đây lại
không bị chia cắt, tạo điều kiện cho sự thống nhất.
Bờ biển ở phía nam bán đảo có nhiều vịnh, cảng
thuận tiện cho tàu bè trú ẩn khi thời tiết xấu.
Do điều kiện địa lí như vậy nên bán đảo Italia có điều
kiện tiếp xúc với những nền văn minh phát triển sớm
ở phương Đông.

Người dân có mặt sớm nhất ở trên bán đảo Italia (Ý) được gọi là Italiot,
trong đó bộ phận sống trên đồng bằng latium là người gốc Latinh (Latin),
ngoài ra còn có một số nhỏ người gốc Gôloa và gốc Hy Lạp

-- 13 –


Các mốc lịch sử

753 TCN Theo truyền thuyết, người dân ở đồng bằng Latium đã dựng nên một toà
thành bên bờ sông Tibơrơ (sôngTiber), họ đã lấy tên người cầm đầu là Romulus để đặt cho
toà thành đó, vì vậy có tên là Roma.

753 - 510 TCN, thời kì Vương chính, đứng đầu nhà nước là vua, dưới vua có Viện nguyên
lão và Đại hội nhân dân.

I TCN, Thời kì Cộng hoà La Mã. Giai đoạn này quyền lực tối cao nằm trong tay Viện
nguyên lão do dân bầu, đứng đầu Viện nguyên lão là hai quan chấp chính có quyền lực
ngang nhau. Từ đó, việc chính quyền trở thành việc chung của dân (res publica). Đây cũng là
giai đoạn La Mã sử dụng sức mạnh quân sự của mình để mở rộng lãnh thổ.


VIII TCN, La Mã chỉ là một thành bang nhỏ bé năm ở miền trung bán đảo Ý thì đến thế kỉ
I TCN, La Mã đã trở thành một đế quốc rộng lớn bao trùm toàn bộ những vùng đất quanh
bờ Địa Trung Hải.
Đó là thời kỳ phát triển rực rỡ của La Mã bằng việc bành
trướng lãnh thổ, Đế quốc La Mã có lãnh thổ hầu như toàn bộ
khu vực Địa Trung Hải. Lần lượt các vùng lãnh thổ như, Hy
Lạp (146 TCN), cùng với lãnh thổ Tiểu Á, Syria, Phoenecie,
Palestine và Ai Cập bị sát nhập vào Đế quốc La Mã. Trong
thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 2, Đế quốc La Mã phát triển cực
thịnh, lãnh thổ rộng lớn, các đô thị của La Mã được xây dựng
và để lại cho đến ngày nay, như Londinium, (London ngày
nay), Lucdium, (Lion ngày nay), Cologne, Strasburg,
Vienna...

Nhưng từ thế kỷ thứ 2, Đế quốc La Mã có nhiều tranh dành quyền lực và suy yếu.
Đến thế kỷ thứ 4, nhiều cư dân bên ngoài xâm nhập và Đế quốc La Mã bị chia hai: Tây La Mã và Đông La
Mã (gọi là Đế chế Byzantine). Tây La Mã bị sụp đổ vào năm 476 do người Germanie tiêu diệt; và Đế chế
Byzantine bị sụp đổ vào năm 1453do Thổ Nhĩ Kì thôn tính.

-- 14 –


Kiến trúc và điêu khắc
Người La Mã không chỉ kế thừa nền văn minh của người Hy Lạp thời cổ đại mà còn có những đóng góp
đáng kể, tạo thành nền văn minh Hy-La, cơ sở của văn minh Tây Âu sau này.
Cuộc sống của các cư dân La Mã cổ đại được xác định quanh các thành phố như thành phố Roma. Thành
phố có một số lượng khổng lồ các công trình xây dựng như là Colosseum, diễn đàn của hoàng đế Trajan và
đền thờ các vị thần (Pantheon). Trên thành phố Roma cổ có các vòi nước ưống tươi mát được cung cấp
thường xuyên bởi những hệ thống dẫn nước dài hàng trăm dặm, các rạp hát, khu thể thao lớn, tổ hợp
các phòng tắm phức hợp với thư viện và khu mua sắm, khu chợ lớn, cùng với các khu vực sản xuất

hàng hóa. Trên lãnh thổ của La Mã, các kiến trúc về nhà ở rất đa dạng, từ những căn nhà đơn giản cho đến
các biệt thự quý tộc. Bên trong thủ đô Roma của La Mã cổ đại, là nơi ở của hoàng đế nằm ở trên ngọn đồi
thoáng mát, Palatene, có lẽ từ palace bắt nguồn từ đây. Các tầng lớp cư dân từ trung xuống thấp, sống trong
thành phố thì sống trong những căn hộ nhiều người, trông giống như nhiều khu dân cư thời hiện nay.
La Mã có niềm tự hào về các công trình kiến trúc của họ, khi mà có sự kết hợp các kiến thức truyền thống
của nền văn minh Hy Lạp kinh điển. Tuy nhiên, do sự bành trướng của cộng hòa La Mã, mà các công trình
xây dựng của Roma gần như cùng kiểu của Hy Lạp đương thời. Mặc dù vậy, vẫn có sự khác nhau giữa hai
trường phái La Mã và Hy Lạp về kiểu cách trong xây dựng:
- hai kiểu cột mới là kiến trúc hỗn hợp Composite và kiểu Tuscan,
- và kiểu mái vòm với phong cách từ Etruscan.

-- 15 –


Điểm đặc biệt ở thời gian thế kỷ 1 TCN, La Mã đã bắt đầu biết dùng bê tông, mà nguồn xi măng đã thay thế cho đá cẩm thạch
giống như các thủ phủ Roma được xây dựng bằng vật liệu này và công nhận cho nhiều các xây dựng kiến trúc khác. Đông thời ở
thế kỷ 1 TCN, Vitruvius lần đầu tiên cho ghi chép các kiến thức kiến trúc xây dựng vào sử học. Về sau thế kỷ thứ 1 CN, La Mã
cũng bắt đầu cho sản xuất thủy tinh ngay sau khi Syria phát hiện ra chúng. Đồ chạm khảm cũng theo đoàn quân viễn chinh ở Hy
Lạp quay về La Mã.

Một trong những giá trị kiến trúc của người La Mã cổ đại thể hiện qua
-

các cầu vòm bằng đá. Nhờ những chiếc cầu này mà hệ thống giao thông nối liền các
vùng của đế chế La Mã trở nên thuận lợi.

-

đền Parthenon,


-

đấu trường Colessium

-

Khải hoàn môn.

-

Basilica Saint Peter

Kiến trúc sư La Mã nổi tiếng thời đó là Vitruvius.

Điêu khắc La Mã có cùng phong cách với điêu khắc Hy Lạp. Những bức tượng còn lại ở thành Roma và
những phù điêu trên Khải hoàn môn là hiện vật tiêu biểu cho điêu khắc La Mã.

-- 16 –


KIẾN TRÚC TRUNG CỔ
KIEN TRUC BYZANTINE

5th through 11th centuries, Byzantium (Constantinople, or modern-day Istanbul).

The style is characterized by round arches, vaults and domes, brick and stucco surfaces, symbolic
ornamentation, and the use of decorative mosaics. It was developed primarily in Imperial Russia and
Eastern Europe, where it evolved a long way from Sophia Cathedral of 1782 to Alexander Nevsky Cathedral
in Sofia of 1882. It was popularized in Russia by Konstantin Ton, who combined it with Neoclassical and
Russian Revival stylistic elements at will.

Neo-Byzantine architecture is an architectural revival style, of the mid- to late 19th and early 20th centuries, most frequently seen in religious, institutional and
public buildings. Neo-Byzantine architecture incorporates elements of the Byzantine style associated with Eastern and Orthodox Christian architecture dating from
the 5th through 11th centuries, notably that of Byzantium (Constantinople, or modern-day Istanbul).

-- 17 –


Kiến trúc Roman là phong cách kiến trúc của các vùng Trung và Tây Âu vào khoảng thế kỷ 1112
Một thời gian sau khi chế độ Đế quốc tan rã, các nhà nước Đông và Tây Âu lâm vào một thời kì đen tối, các nhà nước phong kiến được thành lập trong đó có sự ra
đời của triều đại Carolingian. Năm 800 sau CN, khi Charlemagne đăng quang hoàng đế, đế quốc này tồn tại được một thời gian ngắn cho đến khi bị người
Normandes xâm lược (từ năm 843 đến năm 911).

Nền kiến trúc Trung và Tây Âu thế kỷ 11 và thế kỷ 12 có tên gọi là kiến trúc Roman
hay phong cách Roman. Kiến trúc Roman trải dài trên một bình diện rộng, phát triển
chủ yếu ở các nước Tây Âu và Trung Âu, gồm Pháp, Anh, Ý, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban
Nha... khi các thành phố đã bắt đầu gượng dậy nhưng bộ mặt kiến trúc nhiều công
trình còn thô sơ.
Nến văn hóa đô thị lúc bấy giờ không khác xa với văn hóa lãnh địa nông thôn trước đó ít lâu, vì các tầng lớp dân đô thị cũng vừa mới ở nông thôn ra, họ đã là các
thế hệ thị dân đầu tiên. Tuy vậy, từ thế kỷ 10, nông nghiệp và thủ công nghiệp đã phục hồi và phát triển, người dân đã xây nhà không chỉ bằng gỗ, mà còn bằng
gạch, đá, để “xây nhà như người La Mã cổ đại”.

Hơn mười quốc gia dân tộc ở Trung Âu và Tây Âu đã chính thức tiến vào xã hội phong kiến, với nền kinh tế
tự nhiên và trật tự xã hội tương đối ổn định.
Đặc điểm và loại hình kiến trúc
Vào giai đoạn Roman tiền kỳ, mái nhà được làm bằng gỗ và rất dễ cháy nên thời kỳ này không còn để lại
nhiều vết tích cho đời sau. Thời gian tiếp theo, kiến trúc Roman dần dần tiến thêm một số bước mới, để nhận
biết được kiến trúc Roman ta có thể căn cứ những đặc điểm sau:
• Chịu ảnh hưởng của kiến trúc La Mã cổ đại và kiến trúc Byzantyne, do một số khu vực của
kiến trúc Roman nằm trong biên giới đế chế La Mã trước đây.
• Kiến trúc có số lượng không nhiều, nằm rải rác ở các địa phương.

• Loại hình kiến trúc không đa dạng, phần lớn là kiến trúc tôn giáo như nhà thờ, tu viện và các
nhà ở và công trình kiến trúc có tính phòng thủ của giai cấp phong kiến.
• Kiến trúc không có quy mô lớn và cầu kỳ như kiến trúc La Mã cổ đại. Phần nhiều công trình
có mặt ngoài thô ráp, ít yếu tố trang trí, kiến trúc nặng nề, sử dụng cửa đi và cửa sổ kích thước
nhỏ.
• Về kết cấu, sử dụng nhiều cuốn cửa trụ, vòm nôi và vòm bán cầu, các loại mái vòm được làm
bằng đá và kĩ thuật còn hạn chế nên mặt bằng kiến trúc các bộ phận thường chỉ là vuông, tròn
hoặc hình chữ thập La tinh.
• Phía Tây nhà thờ Roman thường nổi bật lên hai hay nhiều tháp cao, những tháp này có hình
trụ tròn hoặc có dáng hình học, trong khi đó ở phía Đông thân nhà thờ được cắt bằng một
cánh ngang.
• Bàn thờ được đặt ở phía Đông của nhà thờ để hướng về phía Jerusalem và tầng hầm mộ đặt dưới
thành phần này của kiến trúc.

StSerninToulouse, 1080 – 1120 elevation of the east end

-- 18 –


Kỹ thuật xây dựng
Cái tên kiến trúc Roman nói nên phong cách kiến trúc của người đương thời hơi giống và muốn tìm đến chút
ít cách thức của kiến trúc La Mã cổ đại.
Tuy vậy về quy mô cũng như hình thức, kiến trúc Roman còn xa mới đạt trình độ của người La Mã cổ đại,
thiết kế thi công còn thô sơ, vật liệu có lúc lấy từ những công trình đã hoang phế của kiến trúc La Mã.
Về mặt dùng kết cấu cuốn cửa trụ, kiến trúc Roman học tập cách làm của người La Mã.
Tuy vậy kiến trúc Roman không phải là không có những bước tiến nhất định về mặt loại hình và kết cấu,
góp phần đáng kể vào việc hình thành kiến trúc Gôtích sau này.
Kỹ thuật xây tường, xây cuốn có sống và xây cột trụ dần dần làm cho kiến trúc trở nên tốt hơn.
Tường đá dày, các lớp vữa còn dày, cửa sổ mở nhỏ và ít ánh sáng, một mặt thể hiện trình độ xây dựng
chưa chín muồi nhưng mặt khác lại phù hợp với tư tưởng cấm dục của tôn giáo. Sự phát triển của kỹ

thuật kết cấu của kiến trúc Romanlà dựa trên tay nghề của những người thợ dân gian. Do kỹ thuật
xây dựng còn hạn chế nên đặc điểm của các nhà thờ Roman là khá thấp, chiều cao tối đa thường
không quá 20m.

Việc sử dụng đại trà tường và vách ngăn đã đưa đến một kết quả là phải tìm tòi một sức biểu hiện mới cho những bức tường và
vách ngăn đó, do vậy, đã dẫn đến việc trang trí gắn với công việc nề.

Những bức tờng đấu tiên xây dựng bằng đá mảnh và đá cuội trộn lẫn với vữa, sau đó dùng tường gạch, giai
đoạn sau cùng dùng đá tấm với vẻ đẹp mộc mạc được bộc lộ trung thực ra phía ngoài. Hậu quả là tường rất
dày, nhằm mục đích chịu lực hơn là mục đích bảo vệ. Tường dày như vậy dùng để chống đỡ các cuốn. Mỗi
một tầng có cuốn tương ứng, tầng dưới cuốn to tầng trên hẹp dần, làm thành những cửa sổ ghép đôi hoặc
ghép ba, có nghĩa là lỗ mở của cuốn được chia làm hai hay ba phần, đỡ bởi những cột hình tròn hoặc hình
nhiều cạnh.

-- 19 –


Cùng với việc dùng nhiều các loại hình kết cấu thường, cuốn có sống và cột, kiến trúc Roman lại
không nhất quán trong việc dùng thức cột.
Chân cột, thân cột của kiến trúc Roman rất khác nhau, các đầu cột thường có hình cái đấu ngược, được trang
trí bằng hoa lá hoặc bằng những trang trí hình học cuộn vào nhau, cũng có lúc đầu cột trang trí bằng cảnh
người hay thú.

-- 20 –


Mặt cắt điển hình của một nhà thờ Roman gồm một nhịp giữa cao hơn và hai nhịp biên thấp
hơn, nhịp biên có hai tầng để tầng sàn góp phần gia cường kết cấu. Do ánh sáng phải xuyên
qua cửa sổ của hai tầng ở hai nhịp biên mới vào nhịp giữa nên nội thất nhà thờ không được
sáng sủa.


Nhà thờ ở Knechtsteden (1038-1165) cho thấy quy cách điển hình của hệ thống kết cấu vòm Roman, vì dùng
vòm cuốn cửa trụ, nên các là chiếu của mặt bằng đều có dạng hình vuông.

Cho đến giữa thế kỷ XII, tuy có những tiến bộ nhất định, kiến trúc Roman trông vẫn thiếu vẻ
nhẹ nhàng và kết cấu chưa thuần thục, ví dụ bài toán xây vòm có hình chiếu mặt bằng hình
chữ nhật, phải kiến trúc Gôtích mới giải quyết được.
-- 21 –


Nhà thờ và tu viện trong kiến trúc Roman
Basilica kiểu chữ thập La Tinh
Basilica là sản phẩm của thời kì Cơ đốc giáo ra công khai, sau này vào giai đoạn tiền Roman, Giáo hội vẫn
lấy kiểu hình dáng Basilica làm nhà thờ, về sau có thêm hai cánh ngang, hình thành mặt bằng kiểu chữ thập,
nên có tên gọi chung là mặt bằng kiểu chữ thập La Tinh.

Đàn thánh phía Đông hình bán nguyệt, lợp bằng mái nửa bán cầu
The Basilica di Santa Maria Maggiore is the largest
church in Rome
cửa vào nhà thờ ở phía Tây

Các thành phần của Basilica cũng có ý nghĩa tượng trưng rất lớn,
nội thất của Basilica là biểu hiện của những yếu tố trong thế giới thường nhật (civitas mundi)
mà con người thấy trong thành phố của mình.
Sảnh chính tương ứng với đại lộ, sảnh phụ tương ứng với các hàng cột thức,

-- 22 –


khán đài tương ứng với nơi ở của các thầy tu,

ban thờ tương ứng với những nơi chốn thiêng liêng, hầm mộ tương ứng với nghĩa địa…

Basilica vốn có mặt bằng hình chữ nhật, mảnh vải dài, chạy dọc theo chiều dọc có mấy hàng cột, chia chiều
ngang ra làm nhịp giữa và nhịp biên; nhịp giữa thường rộng và cao hơn.
Nhà thờ của các tu viện
Bên cạnh các tuyến đường hành hương, Giáo hội xây dựng các tu viện để khách hành hương có thê tru ngụ,
ăn uống và làm lễ. Nhà thờ được xây dựng bên trong tu viện, cùng với tu viện trở thành quần thể kiến trúc
lớn, nhiều khi vượt quá phạm vi cần thiết của một địa phương.
Nước Pháp là cái nôi của các kiến trúc nhà thờ xây dựng kèm với các tu viện. Loại nhà thờ này thường được
xây dựng cùng với nhà ở của các thầy tu, tu viện, nhà nghỉ… đôi khi gây ấn tượng như một thành phố.
Các nhà thờ bên trong tu viện tiêu biểu ở Pháp lúc đó gồm có:
• Nhà thờ ở Cluny.
• Nhà thờ Saint-Sernin ở Toulouse.
• Nhà thờ Sainte Gétrusde ở Nivelles.
• Nhà thờ Saint Foy ở Conques.
• Nhà thờ Saint Étienne ở Caen.

Nhà thờ Saint Sernin ở Toulouse (1060 – 1150), có chiều dài
112m

mặt trước và mặt bên nhà thờ có tường bổ trụ, đều là những hình thức kết cấu sơ khởi của kiến trúc Gôtích
sau này.
Vào thời kỳ Roman, thường hay có các cuộc hành hương, đa số là các khách hành hương đi đến Jerusallem,
nhiều người khác đi đến Roma hoặc Santiago de Compestela ở Tây Ban Nha.

-- 23 –


Có năm ở nước Pháp có tới 50 vạn người đi hành hương. Áp lực đó đã đè nặng lên các nơi thờ cúng ở rất
nhiều thành phố, do đó xuất hiện các nhà thờ dành cho khách hành hương. Đặc điểm của các nhà thờ này là

đầu phía Đông ở hậu cung có một lối đi vòng tròn bao quanh ban thờ.

-- 24 –


Nhà thờ của thành phố

Một trong những tính chất nổi bật của hình thức nhà thờ thành phố của kiến trúc Roman là
sự dính kết chặt chẽ giữa các khối và tạo được cho tổng thể kiến trúc một vẻ uy nghiêm.
Cũng thuộc loại hình này, ở Italia, có quần thể tôn giáo Pisa, được coi là sự tổng hợp nhuần
nhuyễn của ánh sáng và đá cẩm thạch.
Quần thể tôn giáo Pisa (thế kỷ XI- thế kỷ XIII) là tác phẩm xuất sắc của kiến trúc Roman
Italia thể hiện sự kết nối truyền thống kiến trúc La Mã. Quần thể này bao gồm ba đơn thể
thành phần xây dựng trong 3 thời gian khác nhau tổ hợp thành:
• Nhà thờ Pisa (1063-1118, 1261-1272).
• Nhà rửa tội The Baptistery (1153-1265).
• Tháp chuông The Campanile (1174-1271).

Tháp chuông – ngày nay gọi là tháp nghiêng Pisa đặt
phía Đông Nam của nhà thờ.

-- 25 –


×