Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu từ tàu biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.77 KB, 18 trang )

Pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu từ tàu
biển
Đoàn Thị Vân
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Hồng Thao
Năm bảo vệ: 2009
Abstract: Trình bày một số vấn đề lý luận chung về ô nhiễm dầu từ tàu biển và các
công ước quốc tế về phòng chống ô nhiễm môi trường biển. Phân tích thực trạng ô
nhiễm dầu từ tàu biển tại Việt Nam và trên thế giới. Nghiên cứu hệ thống pháp luật
Việt Nam và pháp luật quốc tế về phòng ngừa, xử lý và khắc phục ô nhiễm do dầu từ
tài biển, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề
bảo vệ môi trường biển nói chung và vấn đề ô nhiễm dầu từ tàu biển nói riêng.
Keywords: Luật Quốc tế; Ô nhiễm môi trường; Dầu; Luật môi trường; Tàu biển
Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành hàng hải Việt Nam hiện đang là một trong những ngành mũi nhọn được Nhà
nước chú trọng mở rộng và phát triển. Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, cùng với
sự phát triển này khối lượng hàng hóa vận tải bằng đường biển cũng sẽ tăng lên, mật độ tàu bè
hoạt động trên biển sẽ dày hơn và rủi ro tai nạn trên biển cũng sẽ ngày càng tăng gây hại tới
sinh mạng con người, thiệt hại tài sản quốc gia, đặc biệt là tới môi trường sinh thái biển và
ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân sống dựa vào biển.
Theo thống kê của Cục Môi trường kể từ năm 1989 đến nay đã xảy ra khoảng hơn 100
sự cố tràn dầu, gây hậu quả nghiêm trọng cho các vùng biển địa phương.
Các nỗ lực nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm từ tàu ở Việt Nam từ trước đến nay còn
hạn chế, thiếu hiệu quả do những bất cập về thể chế và thiếu chính sách mang tính phối hợp
liên hoàn về phòng ngừa, xử lý và bồi thường ô nhiễm của tất cả các bộ ngành liên quan.
Hiện nay cộng đồng Quốc tế đã thiết lập một hệ thống pháp luật về phòng chống ô
nhiễm do các sự cố tràn dầu từ tàu dầu gây ra với sự ra đời của các công ước.
Việc tham gia các công ước này góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng
chống ô nhiễm dầu từ tàu biển và hoàn thiện những hạn chế của cơ chế bồi thường thiệt hại ô




nhiễm biển tại Việt Nam.
Tuy nhiên, một thực tế hiện nay, các quy định pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu
và bồi thường thiệt hại ô nhiễm biển do dầu từ tàu ở Việt Nam chưa đủ đáp ứng yêu cầu mà
quy định của Công ước đề ra.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam về vấn đề ô nhiễm dầu từ tàu biển. Qua đó, nêu lên những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật về vấn đề bảo vệ môi trường biển nói chung và vấn đề ô nhiễm dầu từ tàu
biển nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc phân tích các quy định của một
số các công ước quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng về vấn đề ô nhiễm dầu từ
tàu biển từ đó cho thấy sự cần thiết gia nhập các công ước quốc tế tại Việt Nam và việc thực
thi chúng.
4. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều nghiên cứu dưới dạng tạp chí, chuyên đề, đề tài, luận văn thạc sĩ nghiên
cứu về vấn đề ô nhiễm môi trường biển . Tuy nhiên, các tác giả chỉ đề cập đến hệ thống pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam nói chung về vấn đề phòng chống khắc phục ô nhiễm môi
trường biển ở một khía cạnh cụ thể của vấn đề ô nhiễm dầu từ tàu biển. Vì vậy, có thể nói đây
là một vấn đề rất mới, còn ít tài liệu nên gây nhiều khó khăn trong quá trình tác giả sưu tầm
tài liệu và viết.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp thống kê, so
sánh, tổng hợp và phân tích.
6. Những điểm mới của Luận văn
Đây là công trình khoa học nghiên cứu tương đối đầy đủ và hệ thống các quy định của
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về vấn đề ô nhiễm dầu từ tàu biển.Về mặt lý luận và
thực tiễn, luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối đầy đủ, toàn diện về hệ thống

các quy định pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu từ tàu biển với mục đích đưa ra các giải
pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về vấn đề này.

2


Do vậy với kết quả đạt được, luận văn sẽ góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt lý
luận và thực tiễn của pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu từ tàu biển, góp phần hoàn thiện
những nội dung cơ bản nhất của pháp luật Việt Nam về vấn đề phòng chống ô nhiễm dầu từ
tàu biển trong quá trình thực thi các Công ước quốc tế về vấn đề này.
7. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Nội dung chính của các chương cụ thể như sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về ô nhiễm dầu từ tàu biển và các công ước
quốc tế về phòng chống ô nhiễm môi trường biển.
Chương II: Thực trạng ô nhiễm dầu từ tàu biển trên thế giới và tại Việt Nam.
Chương III: Hệ thống pháp luật Việt Nam về phòng ngừa, xử lý và khắc phục ô nhiễm
biển do dầu từ tàu biển.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ Ô NHIỄM DẦU TỪ TÀU BIỂN VÀ CÁC
CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ PHÒNG CHỐNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN

1.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường biển
1.1.1. Định nghĩa ô nhiễm môi trường biển
Hội nghị của Liên hợp quốc về các vấn đề môi trường tại Stockholm, Thụy Điển (năm
1972) thống nhất định nghĩa về ô nhiễm môi trường biển: “Tất cả các chất hoặc năng lượng
do con người trực tiếp hay gián tiếp đưa vào môi trường biển kéo theo những hậu quả tai hại,
như gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, nguy hiểm với sức khỏe con người, khó khăn cho hoạt
động trên biển, làm suy thoái chất lượng và giảm các tính chất hữu ích của nước biển”.

Công ước của Liên hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 82) đã định nghĩa ô
nhiễm môi trường biển là “việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc

3


năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông, khi việc đó gây ra hoặc có thể
gây ra những tác hại như gây tổn hại đến nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật và thực vật
biển, gây nguy hại cho sức khoẻ con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc
đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng
biển về phương diện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển”.
Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu năm 1973 được bổ sung bởi Nghị định
thư 1978 (MARPOL 73/78) đã định nghĩa ô nhiễm môi trường biển gồm việc “thải từ tàu các
chất có hại hoặc nước chứa các chất đó mà khi rơi xuống biển có khả năng tạo ra nguy hiểm
cho sức khoẻ con người, gây thiệt hại cho các tài nguyên hữu sinh, cho thực vật và động vật
biển, làm xấu đi những điều kiện nghỉ ngơi hoặc cản trở các hình thức sử dụng chính đáng về
biển một cách có chủ tâm hoặc ngẫu nhiên không kể nguyên nhân và bao gồm cả sự dò, đổ,
tràn, thấm, bơm, thoát”.
1.1.2. Nguồn ô nhiễm môi trường biển
Theo quy định của Công ước Luật biển 1982, nguồn ô nhiễm bao gồm: ô nhiễm từ đất
liền; ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia gây ra; ô
nhiễm do các hoạt động tiến hành trong Vùng gây ra; ô nhiễm do sự nhận chìm; ô nhiễm do
tàu thuyền gây ra; ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyền.
Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) nêu ra năm nguồn ô nhiễm môi trường biển chủ yếu:
Ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền; ô nhiễm do đổ các chất thải công nghiệp và các chất thải từ
thành phố được vận chuyển bằng tàu; ô nhiễm gây ra do việc thăm dò khai thác khoáng vật từ
đáy biển; ô nhiễm từ và thông qua khí quyển; ô nhiễm do tàu gây ra, tức là ô nhiễm gây ra bởi
các hoạt động thải từ tàu (do làm sạch két hoặc thay nước ballast) hoặc gây ra bởi tai nạn hàng
hải (sau khi xảy ra va chạm hoặc tàu bị mắc cạn).
Tại Việt Nam có thể quan sát nhận biết được bốn nguồn ô nhiễm môi trường biển chủ

yếu: ô nhiễm từ đất liền, ô nhiễm từ các hoạt động thăm dò dầu khí, ô nhiễm từ nhận chìm và
từ ô nhiễm hoạt động của tàu thuyền.
Trong số các nguồn ô nhiễm nói trên, thì ô nhiễm do dầu từ tàu là nguồn ô nhiễm
chính.
1.2. Ô nhiễm dầu từ tàu biển
1.2.1 Khái quát chung về dầu
- Theo quy định của MARPOl 73/78;
- Theo quy địnhTại Điều I.5 Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại ô

4


nhiễm dầu;
- Theo quy định tại Điều 2 Quy chế hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu ban hành kèm
theo Quyết định số 103/2005/QĐ-TTg ngày 12.5.2005 của Thủ tướng Chính phủ;
1.2.2. Khái quát về ô nhiễm dầu từ tàu biển.
Ô nhiễm biển và đại dương do dầu luôn được xem là nguồn ô nhiễm nguy hiểm của
môi trường biển, trong đó nguồn ô nhiễm do dầu từ tai nạn tàu (tàu chở dầu bị đắm, đâm va…
trên biển và đại dương) là đáng quan tâm nhất, bởi hơn 60% tổng sản lượng dầu mỏ khai thác
trên thế giới được vận chuyển bằng đường biển. Mặt khác, hậu quả của ô nhiễm biển do dầu
từ tàu trong các vụ tai nạn nặng nề, thảm khốc đến nỗi mà mỗi khi sự cố tràn dầu xảy ra,
người ta thường ví nó như một thảm họa lớn của môi trường biển.
Ô nhiễm biển do dầu là một trong những dấu hiệu có sự kiểm soát quốc tế. Việc kiểm
soát ô nhiễm biển do dầu hiện nay vẫn đang là một vấn đề nhức nhối đối với nhiều quốc gia vì
rất nhiều lý do.
1.2.3. Nguồn ô nhiễm dầu từ tàu biển
Thứ nhất, do hoạt động của bản thân con tàu thải ra những chất gây ô nhiễm cho môi
trường biển khi làm sạch các hầm hàng có chứa cặn dầu hay hoá chất độc hại hoặc tháo nước
dằn bẩn (ballast) có chứa cặn dầu;
Thứ hai, do tai nạn đâm va, chìm đắm tàu làm cho toàn bộ lượng hàng hoá (dầu hay

hoá chất độc hại) bị chìm trong nước biển gây sự cố tràn dầu trên biển, ô nhiễm toàn bộ khu
vực lân cận; do khâu giao nhận dầu nhiên liệu thiếu cẩn thận trong các khâu kỹ thuật, không
tuân thủ những quy tắc kỹ thuật trong bốc dỡ hàng là dầu hoặc hoá chất độc hại.
Ngoài ra, bản thân con tàu khi hoạt động bình thường cũng thải ra một lượng dầu đáng
kể.
Qua tổng kết cho thấy ô nhiễm do dầu đổ ra từ các vụ tai nạn tàu chiếm khoảng 15%
nguồn ô nhiễm biển từ tàu; ô nhiễm do dầu thải ra biển từ hoạt động của tàu chiếm khoảng
85% nguồn ô nhiễm biển từ tàu.
1.3. Các Công ước quốc tế về phòng chống ô nhiễm môi trường biển.
1.3.1. Công ước quốc tế về Luật biển 1982 (UNLOCS 82)
Công ước này được thông qua năm 1982 tại Montego Bay – Giamaica và có hiệu lực

5


ngày 16/11/1994. Công ước đã đặt ra một thể chế pháp lý toàn diện trong lĩnh vực biển và đại
dương. Công ước không đề cập sâu đối với vấn đề vận tải trên biển nhưng lại có những quy
định cơ bản về nghĩa vụ của quốc gia ven biển, quốc gia có cảng và quốc gia mà tàu mang cờ.
1.3.2. Công ước quốc tế về phòng ngừa ô nhiễm biển từ tàu 1973 được bổ sung bởi Nghị định
thư 1978 (MARPOL 73/78).
MARPOL 73/78 được Tổ chức Hàng hải thế giới thông qua năm 1973, được sửa đổi,
bổ sung vào năm 1978 và có hiệu lực vào ngày 02/01/1983. MARPOL 73/78 đề ra những
quy định nhằm ngăn chặn những vụ ô nhiễm môi trường biển gây ra bởi tai nạn tàu biển
hoặc trong quá trình vận chuyển hàng hoá là hàng dầu, hàng nguy hiểm, độc hại bằng tàu;
do nước thải, rác và khí thải từ tàu. Công ước cũng đưa ra những yêu cầu từ lưu giữ tàu, xử
lý và thải những vật liệu đó ra biển cũng như yêu cầu về quy trình báo cáo những vụ tràn
dầu, chất độc hại, quy định những khu vực đặc biệt khi tàu hoạt động trong đó bắt buộc phải
tuân thủ theo những tiêu chuẩn thải nhất định. Công ước MARPOL 73/78 là công ước quan
trọng góp phần bảo vệ môi trường từ tàu, nhất là những hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm
cao như các vụ ô nhiễm môi trường biển do dầu.

1.3.3. Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với các thiệt hại do ô nhiễm dầu 1992
(CLC 1992).
Công ước quốc tế về giới hạn trách nhiệm dân sự đối với các thiệt hại do ô nhiễm dầu
năm 1969 đã được sửa đổi bởi các Nghị định thư năm 1976, Nghị định thư năm 1984 và Nghị
định thư năm 1992, CLC 92 có hiệu lực kể từ ngày 30 tháng 5 năm 1996.
CLC 92 quy định trách nhiệm của chủ tàu đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu, thiết lập
quy tắc trách nhiệm nghiêm ngặt của chủ tàu và hệ thống bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc.Chủ
tàu được quyền giới hạn trách nhiệm của mình trong phạm vi quy định của CLC 92 tính theo
trọng tải của tàu đối với bất cứ thiệt hại do ô nhiễm nào gây ra bởi dầu dưới dạng đã được
thoát ra hoặc được xả ra từ tàu do sự cố.
1.3.4. Công ước quốc tế về sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với ô nhiễm dầu (OPRC –
London, ngày 30/11/1990)
Công ước được thông qua ngày 30/11/1990 và có hiệu lực ngày 13/5/1995. Công ước
cung cấp một khuôn khổ toàn cầu về hợp tác quốc tế trong việc đối phó với những tai nạn
nghiêm trọng hay đe dọa gây ô nhiễm môi trường biển.
1.3.5. Công ước quốc tế về Trách nhiệm dân sự và Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu

6


BUNKER gây ra, 2001 (BUNKER, 2001)
Công ước BUNKER, 2001 được mở để các quốc gia phê chuẩn, chấp nhận, tham gia
từ 1/1/2001 đến 30/9/2002. Công ước quy định tàu có tổng dung tích từ 1000 GT trở lên phải
có giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc bảo đảm tài chính khác do quốc gia thành viên cấp. Công
ước là một sự bổ sung bên cạnh các hệ thống CLC và FC đối với các ô nhiễm biển do các loại
dầu khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của CLC và FC gây ra.
1.3.6. Công ước quốc tế về thiết lập Quỹ quốc tế để bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu 1992
(FUND 1992).
Theo công ước này, Quỹ bồi thường sẽ được thành lập với sự đóng góp của những
người nhập khẩu dầu và được dùng để thanh toán cho người bị thiệt hại đối với phần thiệt hại

vượt quá giới hạn trách nhiệm của chủ tàu.Theo quy định của Công ước, quỹ sẽ chỉ bồi
thường cho bất kỳ người nào bị thiệt hại do ô nhiễm nếu người đó chưa nhận được bồi thường
đầy đủ và thỏa đáng đối với thiệt hại theo các điều khoản của Công ước trách nhiệm 1992.
1.3.7. Công ước quốc tế năm 2001 về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu
trong kho nhiên liệu của tàu (London ngày 23/3/2001).
Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu trong kho
nhiên liệu tàu được thông qua ngày 23/3/2001.Theo quy định của Công ước, vào một thời
điểm mà một sự cố phát sinh từ bất kỳ nguồn dầu nào trong kho nhiên liệu của tàu hoặc bắt
nguồn từ tàu có khả năng gây ô nhiễm, với điều kiện là, nếu một sự cố gồm hàng loạt các biến
cố có chung nguồn gốc thì trách nhiệm sẽ được gán cho chủ tàu tại thời điểm các biến cố đó
đầu tiên xảy ra.
Ngoài ra còn có các Công ước khác liên quan đến vấn đề ô nhiễm môi trường biển do
dàu tàu gây ra như Công ước quốc tế liên quan đến can thiệp trên biển cả trong trường hợp tai
nạn biển cả trong trường hợp tai nạn gây ra ô nhiễm dầu (INTERVENTION 69).Công ước
quy định quốc gia ven biển có thể thực hiện những biện pháp cần thiết trên biển cả để ngăn
ngừa, hạn chế hoặc loại trừ nguy hiểm cho vùng bờ biển của họ khỏi bị ô nhiễm do dầu hay bị
đe dọa ô nhiễm dầu sau khi xảy ra tai nạn hàng hải. Tuy nhiên, quốc gia ven biển chỉ có quyền
thực hiện những hành động này khi cần thiết và sau khi đã bàn bạc với những tổ chức thích
hợp, đặc biệt là quốc gia mà tàu mang cờ, chủ tàu hoặc chủ hàng khi yêu cầu và trong hoàn
cảnh cho phép.

7


Chương 2
THỰC TRẠNG Ô NHIỄM DẦU TỪ TÀU BIỂN TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng một số vụ ô nhiễm dầu từ tàu biển trên thế giới
Trên thế giới đã từng chứng kiến những vụ tràn dầu lớn nhất trong lịch sử để lại những
hậu quả nặng nề cho môi trường biển. Trong đó, phải kể đến các vụ tràn dầu GUIMARAS
2006 tại Philipine; vụ tai nạn dầu TORREY CANYON 1967 tại Anh; vụ tràn dầu từ tàu

PRESTIGE tại Tây Ban Nha...
2.2. Thực trạng ô nhiễm dầu từ tàu biển tại Việt Nam
2.2.1. Thực trạng ô nhiễm dầu tại Việt Nam
Theo thống kê từ 1992-2006, có 35 sự cố tràn dầu xảy ra tại Việt Nam gây ra tổn thất lớn
về sinh thái và kinh tế xã hội. Từ năm 1995 đến 2002, các cơ quan chức năng đã đòi bồi thường
14 vụ tàu gây sự cố tràn dầu, buộc chủ phương tiện bồi thường số tiền 5.501 USD và 886.500.000
đồng.
Một số vụ tràn dầu đã xảy ra trên tuyến sông Thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu
được liệt kê chi tiết dưới đây:
Năm 1994 Tàu NepTune đâm vào cầu Cảng Cát Lái Thành Phố Hồ Chí Minh làm tràn
1.864 tấn dầu DO.
Ngày 15/02/1995, thùng chứa dầu của tàu dịch vụ bị vỡ đã làm tràn 10.000 lít dầu DO
ra sông Cái Bè, thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 20/01/1996, tại cảng Sài Gòn, tàu Gemini (Singapore) đã đâm vào cầu tàu làm
tràn 70 tấn dầu DO và gây thiệt hại nghiêm trọng về môi trường và kinh tế của người dân địa
phương quanh vùng.
Ngày 27/01/1996, đã xảy ra vụ tràn dầu tại cầu cảng Sài Gòn Petro, Cát Lái - sông
Nhà Bè, do tàu Gemini, Singapore đã đâm vào cầu cảng trên và làm tràn 72 tấn dầu diesel.
Cuối năm 1996, hơn 1.889 tấn dầu các loại đã tràn vào hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai,
gây ô nhiễm môi trường cho hơn 10.000 ha ao, đầm nuôi trồng thuỷ sản.
Ngày 14/08/1998, tàu Sokimex (Việt Nam) đụng xáng cạp tại Bình Khánh (Cần Giờ)
làm tràn 41 tấn dầu DO đã tràn ra sông Soài Rạp, tại xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, thành phố
Hồ Chí Minh.
Ngày 16/4/1999, vụ va chạm tàu chở dầu đã xảy ra trên sông Nhà Bè thành phố Hồ

8


Chí Minh, làm 114 m3 dầu DO chảy tràn ra sông và làm ảnh hưởng xấu cho các hoạt động
nuôi trồng thuỷ sản.

Ngày 14/09/2000, 1.000 lít dầu đã chảy tràn ra sông Đồng Nai, do tàu Hàm Rồng 14
thuộc công ty Vận tải Sông Biển Thanh Hoá bị chìm.
Ngày 11/02001, tại vịnh Gành Rái thuộc thành phố Vũng Tàu đã xảy ra một vụ tràn
dầu do tàu Formosa One quốc tịch Liberia đâm vào tàu dầu Petrolimex 01 quốc tịch Việt
Nam, khối lượng dầu bị tràn khoảng 1.000 m3.Ngày 12/1/2003 tại khu cảng Container quốc tế
trên sông Sài Gòn xảy ra vụ tai nạn làm chìm sà lan chở 500 tấn dầu của Tỉnh đội An Giang
(lấy tại kho A Tổng kho xăng dầu Nhà Bè trên đường vận chuyển cho Công ty Thành Lễ ở
Bình Dương).
Ngày 20/03/2003, tàu dầu Hồng Anh thuộc công ty Trọng Nghĩa đã bị chìm tại vịnh
Gành Rái với 637 tấn dầu FO chảy tràn ra các vùng biển ven bờ thuộc huyện Cần Giờ, Sao
Mai – Bến Đình, thành phố Vũng Tàu và huyện Tân Thành thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ngày 26/8/2003 tại khu vực ngã ba Thiềng Liềng trên sông Sài Gòn và vịnh Gành Rái
đã xảy ra một vụ tai nạn hàng hải làm hư hỏng một tàu chở dầu và gây ra sự cố tràn dầu tại
khu vực này làm tràn khoảng 100 tấn dầu DO trong tổng số 320 tấn dầu tàu Hà Lộc đang vận
chuyển.
Ngày 21/01/2005 tàu dầu mang tên Kasco chở khoảng 30.000 tấn dầu DO do va chạm
vào cầu cảng tại Xí nghiệp lọc dầu SaiGon Petro khiến tàu bị thủng và gây ra sự cố tràn dầu.
Ngày 06/04/2005 sự cố va chạm giữa tàu Hồ Tây và Hàm Luông 05 tại sông Lòng Tàu
thuộc khu vực Thiềng – huyện Cần Giờ.
Ngày 15/05/2007 sự cố đâm va và chìm tàu Hoàng Đạt tại cảng Lotus khu vực Quận 7
với lượng dầu thu gom khoảng 2 tấn.
Ngày 19/06/2008 tại khu vực Nam Nhà Bè – giáp ranh Đồng Nai, sự cố va đâm giữa
tàu Quang Đức chứa 1778 tấn dầu FO và tàu Vinasin Southern, kết quả tàu Quang Đức chảy
lượng dầu FO ra sông.
Ngày 08/03/2008 sự cố chìm tàu Đức Trí tại vùng biển Bình Thuận – Vũng Tàu đã
làm tràn một lượng tàu khá lớn và dầu đã tràn đến bờ biển Cần Giờ Thành Phố Hồ Chí Minh.
Ngày 09/04/2008 tại khu vực cảng Sài Gòn Shipmarin Quận 7, xảy ra sự cố va đâm
giữa tàu QC Vision và tàu Vietranstimex 05, khiến 1 phần dầu FO trong buồng máy tàu
Vietranstimex 05 chảy ra sông.


9


Theo số liệu thống kê, trong số khoảng 3,6 triệu tấn dầu hàng năm đổ ra biển, thì lượng
dầu thải từ hoạt động của tàu thuyền đã chiếm tới 33%.
Tại Việt Nam, giai đoạn 1995-2002 đã có 40 Sự cố tràn dầu với trên 100 nghìn tấn,
nhưng chỉ có 14 vụ được bồi thường với tổng số tiền 5,501 triệu USD và 886,5 triệu đồng. Cụ
thể:
Ngày 16/4/1998, tàu dầu Nhật Thuần 01 đụng vào sà lan chở dầu Hiệp Hòa 2 làm tràn
97 tấn dầu DO trên sông Nhà Bè. Chủ tàu đã phải bồi thường thiệt hại do dầu tràn gây ra với
số tiền 200 triệu đồng.
Ngày 07/9/2001, tàu Formasa One, quốc tịch Liberia, chở 66.000 m3 dầu, trong khi
tiến vào vị trí neo đậu tại Gành Rái, Vũng Tàu đâm vào tàu Petrolimex 01 của Vitaco chứa
25.000 m3 dầu DO, làm tràn 1.000 tấn dầu. Chủ tàu đã phải bồi thường 1,7 triệu USD.
Ngày 12/01/2003, tại cảng VICT trên sông Sài Gòn, tàu Fortune (Vosco) đâm vào sà lan An
Giang AG 6139 chở 500 tấn dầu DO, làm tràn 200 tấn dầu.
Ngày 20/12/2004, tàu Mỹ Đình, trọng tải 7.260 tấn của Công ty Vận tải biển
VINASHIN va vào đá ngầm phía Đông Nam đảo Cát Bà và bị chìm, làm tràn 150 tấn dầu DO
và 50 tấn dầu FO.
Ngày 23/05/2008, tàu Việt Trung quốc tịch Mông Cổ của Công ty cổ phần dầu khí An
Pha – Sài Gòn trên đường hành trình từ Trung Quốc về cảng Cửa Lò (Nghệ An) đã bị nạn
chìm tàu trên biển. Trên tàu có 602 tấn gas hóa lỏng, 30 tấn dầu FP, 10 tấn dầu DO và 2.000
lít dầu LO.
Ngày 16/10/2008 xảy ra sự cố tràn dầu tại kho và cảng xăng Liên Chiểu. Một lượng
lớn dầu và xăng tràn ra đê bao ngăn cháy của kho và lan ra vùng biển Liên Chiểu gây hậu quả
nghiêm trọng. Trong đó, bồn chứa dầu ZX 1 hiện có hơn 2000m3 bồn xăng A92 có hơn
3100m3.
Ngày 22/9/2009 xảy ra sự cố chìm tàu biển Lady Belinda ở phao TT08 cảng Hiệp
Phước trên sông Soài Rạp (Huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh).
2.2.2. Nguyên nhân của sự cố tràn dầu từ tàu biển tại Việt Nam

Nguyên nhân của sự cố tràn dầu từ tàu thuyền là do sự cố đắm chìm tàu chở xăng dầu
và các va chạm dẫn đến chìm tàu.
2.2.3. Sự cố tràn dầu và những biện pháp ứng cứu tại các cảng biển Việt Nam

10


Ngăn ngừa và khắc phục sự cố tràn dầu là công việc hết sức cần thiết nhưng phức tạp
và khó khăn, đòi hỏi sự tổ chức, phối hợp đồng bộ, nhanh chóng và áp dụng các kỹ thuật phù
hợp. Để hạn chế tác hại và hậu quả của các vụ tràn dầu, người ta đã đưa ra nhiều biện pháp
ứng cứu:
- Biện pháp cơ học;
- Biện pháp sinh học;
- Biện pháp hóa học;
2.2.4. Mô hình ứng phó Sự cố tràn dầu tại các cảng biển Việt Nam
Căn cứ vào mức độ Sự cố tràn dầu, việc tổ chức, thực hiện ứng phó được tiến hành ở 3
cấp:
- Cấp cơ sở (mức I, tràn dầu dưới 100 tấn);
- Cấp khu vực (mức II, tràn dầu từ 100 đến 2.000 tấn);
- Cấp quốc gia (mức III, tràn dầu trên 2.000 tấn).
Tương ứng với 3 mức độ tràn dầu là sự phân cấp quản lý và tổ chức triển khai nguồn lực
ứng phó, đó là cấp cơ sở, cấp khu vực và cấp quốc gia.
2.2.5. Những khó khăn, bất cập trong công tác ứng phó sự cố tràn dầu trên các vùng biển Việt
Nam
Việc khắc phục sự cố tràn dầu ở Việt Nam hiện còn gặp rất nhiều khó khăn trong công
tác điều hành cũng như các giải pháp công nghệ, yếu kém về chuyên môn và thiếu kinh phí
hoạt động. Cả nước hiện có 5 cơ sở được trang bị các thiết bị, phương tiện để ứng phó sự cố
tràn dầu, trong đó chỉ có một trung tâm có đủ năng lực ứng cứu sự cố tràn dầu ở mức II, hai
trung tâm có khả năng tham gia ứng cứu sự cố tràn dầu ngoài khơi, số còn lại chỉ có thể triển
khai ứng phó sự cố tràn dầu tại các khu vực ven bờ. Với một quốc gia có 3.260km bờ biển

như Việt Nam, lực lượng tham gia ứng phó Sự cố tràn dầu như thế là thiếu về số lượng và
yếu về năng lực.

Chương 3
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG NGỪA, XỬ LÝ VÀ KHẮC PHỤC Ô
NHIỄM BIỂN DO DẦU TỪ TÀU BIỂN

11


3.1 Hệ thống pháp luật Việt Nam về phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm dầu từ tàu biển
Hệ thống pháp luật Việt Nam về phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm dầu từ tàu biển
bao gồm:
Hiến pháp CHXHCN Việt Nam 1992;
Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam được thông qua ngày 27/12/1993.
Các văn bản hướng dẫn như Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 hướng dẫn thi hành
Luật Bảo vệ Môi trường, Nghị định 121/2004/NĐ-CP ngày 12/5/2004 về xử phạt hành chính
trong lĩnh vực Luật Bảo vệ Môi trường;
Bộ luật Hàng Hải 2005 (BLHH 2005), Luật Dầu khí 1993;
Bộ Luật Dân sự năm 2005;
Bộ luật Hình sự 1999;
Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam năm 2008;
Quyết định số 35/2002/QĐ-BKHCNMT của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường
công bố danh mục tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường;
Quy chế về bảo vệ môi trường trong việc tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ, khai thác,
tàng trữ vận chuyển chế biến dầu khí và các dịch vụ liên quan ban hành kèm theo Quyết định
số 395/1998/QĐ-BKHCNMT ngày 10/4/1998 của Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường;
Nghị định số 36/1999/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong vùng
lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước CHXHCN

Việt Nam;
Chỉ thị số 17/2003/CT-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về việc tăng cường công tác
quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo đảm an toàn hàng hải;
Nghị định số 03/NĐ-CP của Chính phủ quy định về bảo vệ an ninh, an toàn dầu khí;
Nghị định số 139/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/11/2005 ban hành hợp đồng mẫu của hợp
đồng chia sản phẩm dầu khí quy định trong hợp đồng mẫu về trách nhiệm của nhà thầu đối
với trách nhiệm về thiệt hại hoặc tổn thất bao gồm cả ô nhiễm môi trường phát sinh từ hoạt
động dầu khí;
Quyết định số 1581/1999/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ban hành Khung

12


định biên an toàn tối thiểu cho tàu biển quy định tiêu chuẩn cho loại tàu thuyền chuyên dụng
vận chuyển dầu khí;
Quyết định số 49/2005/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ban hành quy tắc
phòng ngừa, đâm va tàu trên biển;
Quyết định số 59/2005/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ban hành Quy định về
trang thiết bị an toàn hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển lắp đặt trên tàu biển
Việt Nam hoạt động tuyến nội địa;
Nghị định số 91/1997/NĐ-CP của Chính phủ ban hành Tiêu chuẩn Việt Nam –
TCVN6267 về quy phạm các hệ thống ngăn ngừa ô nhiễm tàu; TCVN 6278 về trang bị an
toàn tầu biển;
Nghị đinh số 175/1994/NĐ-CP của Chính phủ quy định khả năng lập một quỹ dự
phòng quốc gia nhằm chủ động đối phó với các trường hợp đột xuất về sự cố môi trường, ô
nhiễm môi trường và suy thoái môi trường.
Bên cạnh hệ thống pháp luật chung về phòng chống ô nhiễm môi trường biển, Việt
Nam còn có hệ thống pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu chuyên biệt khác.
3.2. Những bất cập của pháp luật Việt Nam về phòng chống và khắc phục ô nhiễm dầu từ tàu
biển

Pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu từ tàu biển mới chỉ dừng lại ở một số văn bản
mang tính đơn lẻ, không thống nhất và tính quy phạm chưa cao. Việc phòng chống, ứng cố sự
cố tràn dầu chỉ được quy định rải rác trong một số điều luật về phòng chống ô nhiễm môi
trường.
Về kỹ thuật pháp lý, pháp luật về ứng cứu sự cố môi trường hầu như chỉ hướng dẫn
chung chung, mang tính ứng phó trước mắt nên không có cái nhìn tổng quát.
Hệ thống pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu trên biển hiện nay ngoài 03 Nghị
Quyết số 103, 395, 129 là những văn bản chuyên biệt, không có một văn bản hay dự luật nào
về phòng chống ô nhiễm dầu. Ngay trong Luật bảo vệ môi trường cũng chỉ có một điều định
nghĩa về sự cố ô nhiễm trên biển mà cũng không có nghị định hướng dẫn thi hành nào về vấn
đề này. Luật Dầu khí cũng không đề cập đến vấn đề môi trường một cách cụ thể. Tình trạng ít
văn bản hướng dẫn, quy định không cụ thể, không rõ ràng về trách nhiệm của các ban ngành
dẫn đến sự chồng chéo trong quản lý.
Đồng thời với hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường còn tản mạn, các khía cạnh pháp

13


lý về vấn đề ô nhiễm do dầu ở Việt Nam còn nhiều thiếu sót, bất cập.Việt Nam chưa có cơ
chế riêng về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu và cũng chưa có quỹ bồi thường thiệt hại do
ô nhiễm dầu (theo Công ước CLC 1992). Vì vậy, khi các vụ gây ô nhiễm dầu xảy ra, việc giải
quyết đòi bồi thường thiệt hại đều làm cho cơ quan chức năng lẫn nạn nhân đều lúng túng.
3.3. Việt Nam tham gia một số Công ước quốc tế về vấn đề phòng chống và khắc phục thiệt
hại ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu thuyền gây ra
- Việc tham gia và thực thi Công ước Marpol 73/78 tại Việt Nam.
- Việc tham gia và thực thi Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại
do ô nhiễm dầu 1992 tại Việt Nam.
+ Thuận lợi của Việt Nam khi tham gia CLC 92.
+ Việc tham gia CLC 92 đã góp phần hoàn thiện cơ chế đền bù thiệt hại do ô nhiễm
dầu tại Việt Nam.

3.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về phòng chống ô nhiễm dầu từ tàu biển
3.4.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về phòng chống ô nhiễm dầu
từ tàu biển
Nhìn chung, các Công ước quốc tế về phòng chống ô nhiễm do dầu mà Việt Nam đã
tham gia về cơ bản đều được thực hiện một cách nghiêm túc, bảo đảm nguyên tắc, nếu những
quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia khác với Luật trong nước thì áp dụng
theo Điều ước quốc tế. Việc thể chế hóa các công ước quốc tế một cách gián tiếp hay việc áp
dụng một cách trực tiếp các công ước quốc tế của Việt Nam tuy đã được thực hiện, tuy nhiên
việc áp dụng đó mới chỉ trên một vài khía cạnh. Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật
về phòng chống ô nhiễm dầu cho phù hợp với tất cả các khía cạnh, nội dung của các công ước
quốc tế.
3.4.2. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về môi trường
3.4.2.1. Đối với Luật Bảo vệ Môi trường
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường theo hướng xác định bảo vệ môi trường biển
là một phần riêng và vấn đề phòng chống ô nhiễm biển do dầu được quy định trong một
chương với những nội dung cơ bản khác nhau.
3.4.2.2. Đối với luật chuyên ngành
a. Trong lĩnh vực hàng hải

14


Tiếp tục ban hành các văn bản bổ sung quy định về phòng ngừa, xử lý và khắc phục ô
nhiễm dầu mà Bộ Luật Hàng hải 2005 còn thiếu, nhất là những quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm dầu không thuộc phạm vi điều chỉnh của CLC 1992.
Cần sửa đổi Luật dầu khí theo hướng bảo vệ môi trường biển là một chương.
b. Trong lĩnh vực đánh bắt thuỷ sản, vận tải đường sông
Cần bổ sung các quy định cụ thể về phòng chống ô nhiễm biển do dầu từ các hoạt
động của tàu cá mà cụ thể là kiểm soát hoạt động thải dầu cặn, nước lẫn dầu cũng như sự rò rỉ
trong quá trình hoạt động của tàu.

3.4.2.3. Đối với các luật có liên quan
Bộ luật Hình sự: Cần phải nghiên cứu bổ sung các tội về gây ô nhiễm môi trường biển,
trong đó có tội trừng trị hành vi xả thải dầu làm ô nhiễm biển gây hậu quả nghiêm trọng.
Bộ luật Dân sự: Trước hết cần bổ sung một số điều khoản về bồi thường thiệt hại do ô
nhiễm dầu tại Mục 3, Chương XVII, Bộ luật Dân sự. Mặt khác, cần nghiên cứu các quy định
về tổ chức, hoạt động của Toà án quốc tế, Trọng tài quốc tế về luật biển để sẵn sàng đưa các
vụ kiện liên quan đến tổ chức, cá nhân Việt Nạm ra giải quyết theo trình tự tố tụng thay vì giải
quyết theo trình tự thương lượng, ngoại giao như hiện nay.
Từ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành về phòng,
chống ô nhiễm do dầu, vấn đề cần kíp trước mắt là xây dựng một văn bản pháp luật chuyên
biệt và thống nhất về phòng, chống ô nhiễm dầu như Nghị định phòng chống ô nhiễm do dầu.
Các văn bản pháp lý có liên quan cần được soạn thảo phù hợp với các nguyên tắc và
tiêu chuẩn chung về ô nhiễm môi trường theo thông lệ quốc tế và có tính đến hoàn cảnh đặc
thù của Việt Nam.

15


KẾT LUẬN
Có thể nói, trong thời gian qua, mặc dù đã tham gia một số công ước quốc tế và các cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
phòng, chống ô nhiễm dầu từ tàu biển nói chung và trong các hoạt động giao thông vận tải nói
riêng, pháp luật Việt Nam vẫn còn thiếu các quy định cụ thể về trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ
môi trường của tổ chức Việt Nam tham gia hoạt động hàng hải, chưa có một quy định riêng
cho công tác tiếp nhận và xử lý chất thải tại các cảng biển Việt Nam, còn có sự chồng chéo và
chưa rõ trách nhiệm giữa các cơ quan như môi trường, hàng hải và chính quyền địa phương
khi xảy ra sự cố ô nhiễm môi trường biển từ tàu.
Hệ thống điều ước quốc tế đã có những quy định khá cụ thể và chi tiết liên quan đến
quản lý vận chuyển, xếp dỡ hàng hóa nguy hiểm bằng đường biển.Tuy nhiên, chúng ta chưa
tham gia đầy đủ những điều ước quốc tế nói trên nên trong quá trình thực hiện, áp dụng còn

thiếu hiệu quả và chưa đồng bộ.
Hiện nay, đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường
biển, nhưng cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung và phổ biến cùng những chính sách thích hợp để
thực hiện nhằm giảm thiểu tới mức thấp nhất nguy cơ ô nhiễm vùng nước Việt Nam.
References
Tiếng Việt

1.

Bộ luật hàng hải (2005), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2.

Bộ luật Hình sự (1999), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3.

Bộ Luật Dân sự năm (2005), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4.

Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam các năm 1997;
1999; 2001 và 2002.

5.

Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển (1999), Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.

6.


Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu năm 1973 được bổ sung bởi Nghị định
thư 1978 (MARPOL 73/78).

7.

Công ước quốc tế về thiết lập Qũy quốc tế để bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu
(Brussels 18/12/1971) (IOPC FUND 1971).

8.

Công ước quốc tế về sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với ô nhiễm dầu (OPRC –
London, ngày 30/11/1990).

9.

Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với các thiệt hại do ô nhiễm dầu 1992

16


(CLC).

10. Công ước quốc tế năm 2001 về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu
trong kho nhiên liệu của tàu (London ngày 23/3/2001).

11. Công ước quốc tế về Trách nhiệm dân sự và Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu
BUNKER gây ra, 2001 (BUNKER, 2001).

12. Cục Hàng hải Việt Nam, Báo cáo thống kê tai nạn hàng hải các năm từ 1999 đến Quý

I/2009.

13. Đặng Thanh Hà (2005), Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại ô
nhiễm dầu 1992 và việc tổ chức thực hiện tại Việt Nam, tr.13, Luận văn Thạc sỹ Luật
học, Đại học quốc gia Hà Nội.

14. Nguyễn Thu Hà (2004), Pháp luật về phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm môi trường biển từ
tàu biển ở Việt Nam (5), tr.33-41, Nhà nước và pháp luật.

15. Vũ Phi Hoàng (1990), Biển Việt Nam, tr.93, Nhà xuất bản Giáo dục.
16. Ngô Phú Kha, Cục cảnh sát biển, Những khó khăn bất cập trong công tác ứng phó sự cố
tràn dầu trên vùng biển Việt Nam.

17. Luật Bảo vệ môi trường (2005), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Luật Dầu khí (1993) và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí (2000),
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Nghị định số 03/NĐ-CP của Chính phủ quy định về bảo vệ an ninh, an toàn dầu khí.
20. Nghị định 25/2008/NĐ-CP ngày 4/3/2008 quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bộ TN&MT.

21. Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam năm 2008.
22. Quyết định số 35/2002/QĐ-BKHCNMT của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường.
23. Quyết định số 103/2005/QĐ-TTg ngày 12/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quy chế hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu.

24. Quyết định số 1581/1999/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ban hành Khung định
biên an toàn tối thiểu cho tàu biển quy định tiêu chuẩn cho loại tàu thuyền chuyên dụng
vận chuyển dầu khí.


25. Quyết định số 59/2005/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ban hành Quy định về
trang thiết bị an toàn hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường biển lắp đặt trên tàu
biển Việt Nam hoạt động tuyến nội địa.

17


26. Quyết định số 129/2001/QĐ-TTg ngày 29/8/2001 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt
Kế hoạch Quốc gia ứng phó sự cố tràn dầu giai đoạn 2001-2020

27. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Vĩnh Phúc, những khái niệm cơ bản về môi trường và
phát triển bền vững; một số vấn đề về môi trường thế giới.

28. T.S Nguyễn Hồng Thao (2008), Công ước biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam,
tr.310-311, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

29. T.S Nguyễn Hồng Thao – Ban Biên giới Chính phủ (2003), Ô nhiễm môi trường biển
Việt Nam, Luật pháp và thực tiễn, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

30. Hứa Chiến Thắng, Nguyễn Ngọc Sinh và Phạm Văn Ninh (1998), Dầu tràn và ô nhiễm
dầu ở Việt Nam. Môi trường biển Việt Nam, SIDA - Cục Môi trường Việt Nam.

31. Thông tư 2262/TT-MTG ngày 29/12/1995 của Bộ KHCN và MT về việc khắc phục sự
cố tràn dầu.

32. Nguyễn Huy Tưởng (1999), Tiếng kêu cứu của Trái đất, Nhà xuất bản Giáo dục.
33. Nông Khắc Ý (2004), Báo điện tử Vietnamnet, 24/8.
Tiếng Anh

34. The state of the Marine Environment, Report and studies (39), pp.88.


18



×