Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Công tác quản lý Nhà nước về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam Trung Quốc của Uỷ ban Biên giới quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.88 KB, 39 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thực tập cuối khóa là giai đoạn quan trọng đối với sinh viên nói chung và
sinh viên Học viện Hành chính nói riêng. Thông qua quá trình này giúp sinh viên
hiểu được tổ chức và hoạt động của Bộ máy và thể chế hành chính Nhà nước; nắm
vững chức năng và nhiệm vụ của một số vị trí công việc của cán bộ công chức
trong bộ máy hành chính nhà nước; tiếp cận và làm quen với công việc thực tiễn,
có cơ hội vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn để rèn luyện kĩ năng và
nghiệp vụ quản lý hành chính, tích lũy thêm kinh nghiệm cho bản thân.Từ đó tiến
tới rút ngắn và xóa bỏ khoảng cách giữa lý thuyết được đào tạo và hoạt động thực
tiễn.
Với vai trò quan trọng của đợt thực tập cuối khóa. Học viện Hành chính đã
tổ chức cho các sinh viên thực tập tại các cơ quan hành chính các đơn vị sự nghiệp
trên địa bàn Hà Nội và ở các địa phương.Vừa qua em đã vinh dự được Học viện bố
trí về thực tập tại Uỷ ban Biên giới quốc gia. Trong thời gian 2 tháng ( 26/03 –
18/05/2012), em đã được tiếp cận, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.Qua đó
nhận được sự chỉ đạo tận tình, sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ để tìm hiểu,
nghiên cứu của các cô chú, anh chị trong trong cơ quan, sự hướng dẫn chu đáo của
các thầy cô trong đoàn thực tập số 37, em đã chọn đề tài: “Công tác quản lý Nhà
nước về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam - Trung Quốc của Uỷ ban Biên
giới quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao’’ làm thực tập cuối khóa của mình. Tronh bài
báo cáo này em sẽ làm rõ về công tác quản lý Nhà nước về biên giới trên đất liền
giữa Việt Nam- Trung Quốc của Uỷ ban Biên giới quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao.
Qua đây em muốn gửi lời cảm ơn tới Lãnh đạo các phòng ban, các vụ và các
cô chú, anh chị công tác tại Uỷ ban Biên giới quốc gia, chị Lê Minh Trang là nguời
phụ trách trực tiếp. Đặc biệt là thầy Nguyễn Minh Đức, thầy Nguyễn Huy Hoàng,
cô Nguyễn Hải Vân- Khoa Lý luận cở sở, Ban đào tạo Học viện Hành chính đã
giúp em hoàn thành chương trình thực tập tốt nghiệp và có được thời gian thực tập
thật ý nghĩa.
Do thời gian thực tập có hạn nên báo cáo thực tập cũng không thể tránh khỏi
những thiếu sót và khiếm khuyết, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp nhận
xét đánh giá của quý thầy cô và các bạn để báo cáo được hoàn thiện hơn.


Hà Nội, ngày…..tháng… năm.
Sinh viên
ĐỊNH HỮU ÍCH
1


LỊCH THỰC TẬP TẠI UỶ BAN BIÊN GIỚI QUỐC GIA –
BỘ NGOẠI GIAO
(Từ ngày 26/03/2012 đến 18/05/2012)
Tuần

Nội dung công việc
- Gặp gỡ đoàn thực tập;

Tuần 1
(26/03 – 01/04)

- Gặp gỡ cán bộ Uỷ ban Biên giới quốc gia;
- Nghe quy chế và tìm hiểu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Biên giới quốc gia.

- Tìm đọc tài liệu về Uỷ ban Biên giới quốc gia – Bộ Ngoại
giao;
Tuần 2
(02/04 – 08/04)

- Được phân công về Vụ Tuyên truyền, Thông tin và Tư liệu;
- Tìm hiểu tài liệu và lựa chọn đề tài báo cáo.

- Nghiên cứu tài liệu tại thư viện của Vụ Tuyên truyền, Thông

tin và Tư liệu;
Tuần 3
(09/04 – 15/04)

- Thu thập tài liệu;
- Nộp đề cương chi tiết.

- Sửa đề cương;
Tuần 4
(16/04 – 22/04)

Tuần 5
(23/04 – 29/04)

- Nộp bản hoàn thiện để cán bộ Vụ Tuyên truyền, Thông tin và
Tư liệu sửa.

- Tiếp tục nghiên cứu, thu thập tài liệu về công tác quản lý nhà
nước về biên giới biển của Uỷ ban Biên giới quốc gia.

2


Tuần 6

- Xem lại bài báo cáo.

(02/05 – 06/05)
Tuần 7


- Chỉnh sửa báo cáo.

(07/05 – 13/05)
Tuần 8

- Hoàn thiện và nộp báo cáo.

(14/05 – 18/05)

3


CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ ỦY BAN BIÊN GIỚI QUỐC GIA – BỘ
NGOẠI GIAO
I. Lịch sử hình thành, vị trí chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ
chức.
1.1. Lịch sử hình thành
Đất nước Việt Nam đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước, dân tộc ta đã hi sinh và nỗ lực hết mình đổ mồ hôi và cả máu để làm hoàn
thành nhiệm vụ bảo vệ và mở mang bờ cõi của tổ quốc mình. Bất kì một chế độ
nào, chính sách nào từ thời kì Hùng Vương dựng nước đến gần 2000 năm phong
kiến cho tới thời đại chủ nghĩa xã hội nào thì vấn đề biên giới lãnh thổ luôn luôn là
một vấn đề hệ trọng và vô cùng thiêng liêng nhất. Qua bao nhiêu biến cố của lịch
sử, hàng trăm cuộc kháng chiến chống quân xâm lược thời kì phong kiến khẳng
định chủ quyền, đến thế kỉ XX đã đánh dấu một thời kì vĩ đại nhất của dân tộc
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc và tạo
dựng một đường biên giới hoàn chỉnh nhất cho đến ngày hôm nay. Chính vì vậy,
vấn đề biên giới luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm một cách đúng đắn và
kịp thời.

Tháng 2 năm 1959, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (Đảng
cộng sản Việt Nam hiện nay) đã ra Nghị quyết thành lập Ban Biên giới Trung
ương để “giúp Trung ương Đảng và Chính phủ theo dõi chỉ đạo công tác biên
giới,nghiên cứu và đề nghị với Trung ương và Chính phủ những chính sách và biện
pháp cụ thể nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến công tác biên giới, tổ
chức việc phối hợp giữa các ngành có liên quan trong phạm vi hoạt động ở biên
giới.
Tháng 10/1975 Chính phủ đã ban hành Nghị định 188/CP- NĐ thành lập
Ban Biên giới của Hội đồng Bộ trưởng. Ban này đã trở thành cơ quan chuyên trách
giúp Hội đồng Bộ trưởng “Tăng cường chỉ đạo việc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ,
biên giới trên đất liền và trên biển, các hải đảo, thềm lục địa, tài nguyên biển…
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và ngày 06/10/1978 đã trở thành ngày
truyền thống của Ban Biên giới.

4


Trước sự phát triển và tầm quan trọng của công tác quản lý biên giới lãnh
thổ, ngày 08/05/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị quyết 21/CP quy đinh
“Ban Biên giới là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng quản lý và chỉ đạo công
tác biên giới, lãnh thổ Việt Nam”. Ban Biên giới đã trở thành một cơ quan độc lập
trực thuộc Chính phủ.
Từ năm 2011 đến nay, Ban Biên giới trực thuộc Bộ Ngoại giao.Thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về biên giới lãnh thổ quốc gia, ban này thực hiện các
nhiệm vụ nắm bắt tình hình diễn biết các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ rồi
nghiên cứu chính sách quy định để giúp Chính phủ về vấn đề biên giới lãnh thổ.
Ngày 01/06/2007 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 126/QĐ – TTg
về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Biên
giới quốc gia trực thuộc Bộ Ngoại giao, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước về biên giới lãnh thổ quốc gia”, nhằm

quản lý và giải quyết các vấn đề tranh chấp và giúp Chính phủ quản lý thống nhất
các vấn đề biên giới quốc gia.
Ngày 08/08/2008 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 108/2008/QĐ-TTg
về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Biên
giới quốc gia trực thuộc Bộ Ngoại giao.
Đã trải qua hơn 40 năm là một cơ quan độc lập, Uỷ Ban Biên giới quốc gia
đã hoàn thành nhiệm vụ của mình giúp Chính phủ quản lý hiệu quả các vấn đề biên
giới,lãnh thổ quốc gia tạo nên một tiền đề vững mạnh cho các bước theo sự nghiệp
của mình.
1.2. Vị trí và chức năng
Từ năm 1959 đến nay Uỷ ban Biên giới quốc gia đã trải qua 5 thời kỳ hình
thành và phát triển với 5 vị trí khác nhau.
Từ 1959- 1975 được gọi là Ban biên giới Trung ương, đây là cơ quan tham
mưu của Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về công tác chỉ đạo và
theo dõi biên giới,lãnh thổ quốc gia.
Từ năm 1975- 1993 được gọi là Ban Biên giới của Hội đồng Bộ trưởng đây
là cơ quan chuyên trách giúp Chính phủ tăng cường chỉ đạo về việc bảo vệ chủ
quyền quốc gia về lãnh thổ biên giới.
Từ năm 1993- 2001 được gọi là Ban Biên giới Chính phủ là cơ quan chuyên
môn đặc trách vấn đề biên giới của Chính phủ.
5


Từ 2001 đến 2007 Ban Biên giới được chuyển và chịu sự lãnh đạo quản lý
của Bộ Ngoại giao là một ban đặc trách các vấn đề quản lý biên giới, lãnh thổ.
Từ 2007 đến nay được gọi là Uỷ ban Biên giới quốc gia trực thuộc Bộ Ngoại
giao có trách nhiệm giúp Bộ Ngoại giao thực hiện chức năng quản lý về biên giới
lãnh thổ quốc gia.
Mặc dù trải qua 5 thời kỳ thay đổi khác nhau nhưng Uỷ Ban biên giới vốn
vẫn là cơ quan tham mưu cho Chính phủ về vấn đề biên giới lãnh thổ.

Uỷ ban Biên giới quốc gia có tư cách pháp nhân, có con dấu hình Quốc huy,
được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy địh của pháp luật,trụ sở đặt tại
thành phố Hà Nội.
1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn
Uỷ ban Biên giới quốc gia đã trải qua 5 thời kì đều có chung một hệ thống
nhiệm vụ cơ bản sau:
Uỷ ban Biên giới có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ ngoại giao thực hiện
nhiệm vụ quyền hạn sau đây:
Trình giúp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đồng thời giao chỉ đạo,hướng dẫn,
kiểm tra đôn đốc và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các dự án luật, pháp lệnh,
dự thảo, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định,chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ, chiến lược kế hoạch, chương trình dài hạn, ngắn hạn, năm năm, hàng
năm các văn bản quy phạm pháp luật và các dự án quan trọng khác về biên giới,
lãnh thổ quốc gia để Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trình cấp có thẩm quyền quyết định.
Nghiên cứu, đề xuất để Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ xác định và tổng hợp, đánh giá, kiểm tra tình hình quản lý biên
giới, lãnh thổ quốc gia, vùng trời, các vùng biển, các hải đảo và thềm lục địa Việt
Nam; dự báo và đề xuất các chủ trương, chính sách, và các biên pháp quản lý thích
hợp và tham gia tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến biên giới
lãnh thổ
Chủ trì, đàm phán giải quyết các vấn đề biên giới, soạn thảo các phương án
hoạch định biên giới quốc gia, xác định ranh giới vùng trời, các vùng biển và thềm
lục địa của Việt Nam
Chủ trì, phối hợp hoặc yêu cầu với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương liên
6


quan thực hiện tham mưu cho Chính phủ, kiểm tra, theo dõi, tổng hợp tình hình và
xử lý tranh chấp ở các khu biên giới trên đất liền, vùng trời, các vùng biển, các hải

đảo và thềm lục địa của Việt Nam.
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng,
lãng phí và xử lý các vi phạm về công tác biên giới, lãnh thổ quốc gia theo quy
định của pháp luật.
Xử lý hoặc hướng dẫn xử lý theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đối
với các vấn đề phát sinh trong các hoạt động của các Bộ, ngành, địa phương liên
quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia trên đất liền, vùng trời,
các vùng biển, các hải đảo, thềm lục địa và đáy đại dương. Thực hiện hợp tác quốc
tế liên quan đến biên giới, lãnh thổ quốc gia theo quy định của pháp luật.
Thẩm định các bản đồ và ấn phẩm có liên quan đến đường biên giới quốc
gia, các vùng biển, các hải đảo và thềm lục địa của Việt Nam trước khi xuất bản,
phát hành tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật về quản lý biên giới, lãnh thổ
quốc gia, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công tác biên giới
tại các Bộ, ngành, địa phương.
Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế tài chính và tài sản được giao theo quy
định của pháp luật và phân cấp của Bộ Ngoại giao.
1.4. Cơ cấu tổ chức
Uỷ ban Biên giới quốc gia có Chủ nhiệm và các phó chủ nhiệm. Chủ nhiệm
Uỷ ban biên giới quốc gia là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao do Thủ tướng Chính phủ
bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và chịu trách
nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Ngoại giao về toàn bộ hoạt động của Uỷ ban. Phó Chủ
nhiệm Uỷ ban do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị
của Chủ nhiệm Uỷ ban và chịu trách nhiệm trước Chủ nhiệm Uỷ ban về lĩnh vực
công tác được phân công.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và biên chế của đơn vị nêu tại khoản 2
Điểu này thực theo quy định của Chính phủ và phân cấp quản lý của Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao.
Biên chế cán bộ công chức, viên chức của Uỷ ban Biên giới quốc gia
do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao quyết định trong tổng số biên chế của Bộ Ngoại giao.
Uỷ ban Biên giới quốc gia có các đơn vị chức năng sau:


7


Vụ Biên giới Việt- Trung;
Vụ Biên giới phía Tây;
Vụ Biển;
Vụ Tuyên truyền, Thông tin và Tư liệu;
Văn phòng;
Ban Nghiên cứu chính sách biển
Cơ cấu nhân sự của Uỷ ban Biên giới quốc gia:
 Lãnh đạo Uỷ ban:… người
• Chủ nhiệm Uỷ ban:… người
• Phó chủ nhiệm:… người
 Văn phòng Uỷ ban:… người
• Chánh văn phòng:… người
• Phó Chánh văn phòng:… người
• Trưởng phòng và Phó trưởng phòng:
• Chuyên viên:… người
∗ Các đơn vị khác.
Có thể sơ đồ hóa cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Biên giới như sau:

Bộ Ngoại giao

Uỷ ban Biên giới quốc gia

Vụ Biên
giới Việt
– Trung


Vụ Biên
giới phía
Tây

Vụ Biển

Vụ
Tuyên
truyền,
Thông
tin và Tư
liệu

8

Văn
phòng
Uỷ ban

Ban
nghiên
cứu
chính
sách
Biển


II. Nội dung công tác quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên đất liền
2.1. Những Khái Niệm Cơ Bản
2.1.1. Biên giới quốc gia

Biên giới quốc gia là đề cập tổng hợp các bộ phận để xác định phạm vi lãnh
thổ một quốc gia, bao gồm: Biên giới trên đất liền, biên giới trên không, trên biển
và trong lòng đất. Theo Luật Biên giới quốc gia của nước ta năm 2003 trong Điều
1 có quy định: “Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền,
các vùng biển, các hải đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
2.1.2. Quản lý nhà nước về biên giới quốc gia
Quản lý nhà nước về biên giới quốc gia có thể hiểu là sự tác động có tổ chức
và được điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình kinh tế xã hội
và các hành vi hoạt động để duy trì đường biên giới, duy trì và phát triển các mối
quan hệ kinh tế xã hội và trật tự pháp luật,nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm
vụ của nhà nước trong công cuộc bảo vệ và phát triển kinh tế ở khu vực biên giới,
các vùng biển, bảo vệ và thực thi chủ quyền, các quyền chủ quyền, quyền tài phán
và các lợi ích quốc gia trên các tuyến biên giới và vùng biển.
Đây là một dạng quản lý mang tính đặc thù trong hoạt động quản lý nhà
nước. Bởi đối tượng quản lý là biên giới quốc gia ranh giới xác định phạm vi lãnh
thổ quốc gia, phạm vi thực hiện chủ quyền quốc gia và liên quan đến lãnh thổ của
quốc gia khác, chủ quyền quốc gia khác do các nước có liên quan cùng xác lập.
Hơn nữa, quản lý nhà nước về biên giới quốc gia là do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện trên cơ sở pháp luật quốc gia đó và điều ước quốc tế do các
quốc gia hữu quan xây dựng nên nhằm đảm bảo sự ổn định và bất khả xâm phạm
biên giới quốc gia, lãnh thổ quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các cá nhân, các cơ quan tổ chức và quốc gia mình. Ở mỗi
quốc gia đều thành lập các cơ quan chuyên trách để đảm nhận công tác này. Ở Việt
Nam, “Uỷ ban Biên giới quốc gia là cơ quan có chức năng quản lý nhà nước và chỉ
đạo công tác biên giới, lãnh thổ quốc gia, xác định chủ quyền và quyền của Nhà
9



nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên đất liền, trên không, trên biển, các
hải đảo và thềm lục địa của Việt Nam”.
Mục đích của quản lý nhà nước về biên giới quốc gia:
Duy trì ổn định và bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia;
Bảo vệ chủ quyền quốc gia;
Bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và bất khả xâm phạm lãnh thổ quốc gia;
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia
Quản lý dân cư sống trong lãnh thổ quốc gia và sự đi lại của dân cư trong
nước ra ngoài và ngược lại
Tạo ra biên giới quốc gia hòa bình, ổn định và hợp tác.
2.1.3. Nội dung quản lý nhà nước về Biên giới quốc gia
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách về biên giới quốc
gia;
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về biên
giới quốc gia, chính sách, chế độ về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia;
3. Đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế về biên giới quốc
gia;
4. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về biên giới quốc gia;
5. Quyết định xây dựng công trình biên giới, công trình kinh tế - xã hội ở
khu vực biên giới;
6. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ việc xây dựng,
quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia;
7. Xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia;
8. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về biên giới quốc gia;
9. Hợp tác quốc tế trong việc xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.
10



2.1.4. Quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc
Quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên đất liền Việt- Trung là sự tác
động có tổ chức và được điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình
kinh tế xã hội và các hành vi hoạt động để duy trì đường biên giới trên đất liền
Việt- Trung, duy trì và phát triển các mối quan hệ kinh tế xã hội và trật tự pháp
luật nhằm thực hiện những chức năng nhiệm vụ của nhà nước trong công cuộc bảo
vệ và phát triển kinh tế ở biên giới phía Bắc, bảo vệ và thực thi chủ quyền, các
quyền chủ quyền, quyền tài phán cà các lợi ích quốc gia trên tuyến biên giới Việt
Nam- Trung Quốc.
2.2.Tổng quan về Biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc
Đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc dài 1449,566 km,
trong đó có 383,914 km đường biên giới đi theo sông suối, tiếp giáp giữa 7 tỉnh
Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của
Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của Trung
Quốc. Khu vực biên giới hai nước có cấu trúc địa hình tương đối phức tạp, độ chia
cắt lớn, thấp dần từ Tây sang Đông dẫn đến hệ thống sông suối nơi đây phần lớn
có xu hướng chảy từ Tây Bắc xuống Đông Nam, ít có giá trị đối với giao thông
đường thủy. Tùy theo mùa, theo từng đoạn, khi thì nước xuống thấp khi thì dâng
cao, chảy mạnh gây bồi lở và đổi dòng dẫn đến việc biến đổi địa hình lòng sông.
Khu vực này cũng có một số tài nguyên khoáng sản đã và đang được nghiên cứu
nhưng nhìn chung các mỏ có trữ lượng thấp, ít có giá trị khai thác thương
mại. Ngoài ra, đây cũng là khu vực có triển vọng về tài nguyên rừng. Do sự khai
thác không có kế hoạch và tình trạng đốt rừng làm nương rẫy nên diện tích che phủ
của rừng bị giảm sút nghiêm trọng khiến chế độ dòng chảy của các con sông bị
biến đổi, hiện tượng xói lở, lũ ống, lũ quét trở nên thường xuyên hơn ảnh hưởng
trực tiếp đến vùng dân cư cả khu vực miền núi và đồng bằng.
Hiện nay, Việt Nam – Trung Quốc đã mở 9 cặp cửa khẩu, đó là:
Tên cửa khẩu Việt Nam

Tên cửa khẩu Trung Quốc


Ma Lù Thàng

Kim Thủy Hà

Lào Cai (đường bộ)

Hà Khẩu (đường bộ)

Lào Cai (đường sắt)

Hà Khẩu (đường sắt)

Thanh Thủy

Thiên Bảo

11


Trà Lĩnh

Long Bang

Tà Lùng

Thủy Khẩu

Đồng Đăng (đường sắt)


Bằng Tường (đường sắt)

Hữu Nghị

Hữu Nghị Quan

Móng Cái

Đông Hưng

Hai bên cũng thống nhất sẽ mở các cặp cửa khẩu dưới đây khi đủ điều kiện
Tên cửa khẩu Việt Nam
A Pa Chải

Tên cửa khẩu Trung Quốc
Long Phú

U Ma Tu Khoàng

Bình Hà

Mường Khương

Kiều Đầu

Xín Mần

Đô Long

Phó Bảng


Đổng Cán

Săm Pun

Điền Bồng

Sóc Giang

Bình Mãng

Pò Peo

Nhạc Vu

Lý Vạn

Thạc Long

Hạ Lang

Khoa Giáp

Bình Nghi

Bình Nhi Quan

Chi Ma

Ái Điểm


Hoành Mô

Động Trung

Ngày 18/11/2009, hai nước đã ký Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp
định về quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa
khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc đánh dấu việc hai nước kết
thúc trọn vẹn quá trình giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền. Ba văn kiện này
chính thức có hiệu lực từ ngày 14/7/2010.
12


Quá trình giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc
trải qua 3 mốc lớn là: đàm phán ký kết Hiệp ước Biên giới trên đất liền Việt Nam Trung Quốc; triển khai và hoàn thành phân giới cắm mốc trên thực địa; đàm phán
ký kết 3 văn kiện liên quan đến biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc.
2.2.1. Đàm phán ký kết Hiệp ước Biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung
Quốc
Từ cuối thế kỷ XIX đường biên giới Việt – Trung được hoạch định trong
Công ước hoạch định biên giới ngày 26/06/1887 và Công ước bổ sung ngày
20/06/1895 ký kết giữa Pháp và nhà Thanh (Trung Quốc). Tuy nhiên trải qua hơn
100 năm, do tác động của thời tiết và biến động về chính trị - xã hội ở mỗi nước
cũng như trong quan hệ hai nước, đường biên giới Việt – Trung đã có sự biến đổi.
Tháng 10/1993, hai bên đã ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải
quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam – Trung Quốc. Theo đó, hai bên
thỏa thuận trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế hiệp thương
hữu nghị để giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc; lấy
Công ước Pháp – Thanh 1887 và 1895 và các văn kiện, bản đồ hoạch định, cắm
mốc biên giới kèm theo làm căn cứ để xác định lại đường biên giới Việt – Trung.
Sau 8 năm kiên trì đàm phán, ngày 30/12/1999, tại Hà Nội, thay mặt hai Nhà

nước, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ
trưởng Ngoại giao Trung Quốc Đường Gia Triền đã ký Hiệp ước về biên giới đất
liền Việt Nam – Trung Quốc, đặt nền tảng cho việc xây dựng đường biên giới hòa
bình, ổn định lâu dài giữa hai nước.
Hiệp ước 1999 có ý nghĩa to lớn, là sự kiện quan trọng trong lịch sử quan hệ
Việt – Trung. Đặc biệt, Hiệp ước 1999 ghi nhận toàn bộ hướng đi của đường biên
giới Việt – Trung từ Tây sang Đông và đã trở thành cơ sở pháp lý cho việc phân
giới cắm mốc trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc.
2.2.2. Quá trình phân giới cắm mốc
Tháng 12/2001, hai bên tiến hành cắm cột mốc đầu tiên tại cửa khẩu Móng
Cái (Quảng Ninh – Việt Nam) – Đông Hưng (Quảng Tây – Trung Quốc). Từ tháng
10/2002, hai bên đồng loạt triển khai phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới
Việt – Trung.
. Riêng trong năm 2008, hai bên đã tiến hành 11 vòng đàm phán cấp Chủ
tịch Ủy ban liên hợp, vòng ngắn nhất kéo dài 9 ngày, vòng dài nhất kéo dài 23
ngày, phiên họp dài nhất tiến hành liên tục suốt hơn 30 giờ liền.
13


Ngày 31/12/2008, hai bên đã giải quyết dứt điểm toàn bộ các vấn đề còn tồn
tại, hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất liền Việt
Nam – Trung Quốc.
- Kết quả: Hai bên đã phân giới xong toàn bộ tuyến biên giới đất liền Việt –
Trung dài 1449,566 km; cắm tổng số 1971 cột mốc (trong đó có 01 mốc ba Việt
Nam – Trung Quốc – Lào; 1548 cột mốc chính; 422 cột mốc phụ). Hệ thống mốc
giới này đã được đánh dấu, ghi nhận và mô tả phù hợp với địa hình thực tế một
cách khách quan, khoa học, chi tiết. Nếu so sánh với đường biên giới của các nước
trên thế giới, đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc được đánh giá
là có mức độ cột mốc dầy đặc và rõ ràng nhất, được xác định theo phương pháp
hiện đại đảm bảo tính trung thực và bền vững lâu dài.

Ngày 23/2/2009, ta và Trung Quốc đã long trọng tổ chức Lễ chào mừng
hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung
Quốc tại cửa khẩu Hữu Nghị - Hữu Nghị quan. Đây là một sự kiện quan trọng
không chỉ đối với nước ta và quan hệ Việt - Trung mà còn đối với cả khu vực.
2.2.3. Quá trình đàm phán, ký kết và phê chuẩn các văn kiện sau phân giới
cắm mốc
Ngày 18/11/2009, tại Bắc Kinh, hai bên chính thức ký 3 văn kiện nêu trên
đánh dấu hai nước đã hoàn thành trọn vẹn việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất
liền.
Tiếp đó, hai bên khẩn trương hoàn thiện các thủ tục phê chuẩn. Ngày
14/7/2010, tại khu vực cửa khẩu Thanh Thủy (Hà Giang – Việt Nam) – Thiên Bảo
(Vân Nam – Trung Quốc) hai bên tổ chức lễ công bố các văn kiện trên chính thức
có hiệu lực. Ba văn kiện Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế
quản lý biên giới, Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới
trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc cùng với Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt
Nam – Trung Quốc năm 1999 tạo thành bộ hồ sơ hoàn chỉnh nhất về đường biên
giới trên đất liền Việt – Trung. Các văn kiện này sẽ thay thế Công ước Pháp –
Thanh 1887 và 1895 cũng như Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên
vùng biên giới Việt – Trung ký giữa Chính phủ hai nước năm 1991.
Đặc biệt 03 văn kiện biên giới trên đất liền mới giữa Việt Nam và Trung
Quốc cho phép hai bên có thể áp dụng những phương thức quản lý hiện đại, kể cả
áp dụng kỹ thuật số trong công tác quản lý biên giới, tạo điều kiện cho các cơ quan
hữu quan hai nước triển khai công tác quản lý biên giới một cách hiệu quả, khoa
học, cùng nhau xây dựng đường biên giới trên đất liền Việt - Trung thực sự hòa
14


bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác. Với đường biên giới mới này, quan hệ hợp tác
hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc sẽ có điều kiện để phát triển mạnh mẽ, đáp ứng
nguyện vọng và mong muốn của nhân dân hai nước.

2.2.4. Những thuận lợi, khó khăn trong việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất
liền Việt Nam – Trung Quốc
Quá trình giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền với Trung Quốc là một quá
trình kéo dài, phức tạp và nhạy cảm. Trong quá trình triển khai vừa có những thuận
lợi, vừa có những khó khăn.
Thuận lợi:
- Công tác đàm phán giải quyết những vấn đề tồn tại cũng như việc triển
khai phân giới cắm mốc trên thực địa luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao
của Lãnh đạo Đảng và Chính phủ hai nước. Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng
Chính phủ đã triệu tập nhiều cuộc họp để nghe báo cáo tình hình và cho ý kiến chỉ
đạo các cuộc đàm phán. Nhiều đồng chí Lãnh đạo cấp cao đã trực tiếp lên khảo sát
thực địa để nắm tình hình và động viên các lực lượng phân giới cắm mốc.
- Các Bộ, ngành và địa phương liên quan của ta đều nhận thức rõ và có ý
thức trách nhiệm rất cao đối với công việc được giao; luôn phối hợp nhịp nhàng để
cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đặc biệt, trong quá trình công tác tại
thực địa, các Nhóm phân giới cắm mốc đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình
của các đồn Biên phòng đóng trên địa bàn công tác và của nhân dân, Chính quyền
địa phương các khu vực biên giới. Công tác phân giới cắm mốc còn nhận được sự
quan tâm, động viên của đồng bào trong và ngoài nước. Đây là chỗ dựa, là sự động
viên tinh thần vô cùng quan trọng giúp cho các Đoàn đàm phán về biên giới lãnh
thổ và những Nhóm phân giới cắm mốc vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để hoàn
thành nhiệm vụ lịch sử trọng đại mà Đảng, Chính phủ và nhân dân giao phó.
Khó khăn
Quá trình đàm phán và triển khai phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền
Việt Nam – Trung Quốc đã gặp không ít khó khăn:
Một là, sự không rõ ràng giữa lời văn trong Hiệp ước với thực địa. Hiệp ước
1999 mới chỉ mô tả đường biên giới bằng lời văn vẽ trên bản đồ địa hình tỷ lệ
1/50.000. Đường biên giới trên bản đồ là một nét bút mực, khi chuyển ra thực địa
có thể sai lệch hàng chục, thậm chí hàng trăm mét. Sự không thống nhất giữa lời
văn Hiệp ước và bản đồ đính kèm với thực địa dẫn đến việc không thống nhất được

15


hướng đi của đường biên giới, tạo ra các khu vực tồn đọng mà hai bên phải đàm
phán để giải quyết.
Hai là, biên giới Việt – Trung có đặc điểm rất ít thấy trong những đường
biên giới giữa các nước. Đó là cư dân khu vực biên giới hai nước sinh sống, canh
tác đan xen qua nhiều thế hệ. Ở một số nơi, cư dân biên giới lại có quan hệ dòng
tộc lâu đời, việc qua lại thăm thân, làm ăn diễn ra tương đối thường xuyên; có
những khu vực bên này quản lý quá sang bên kia. Trong những trường hợp này,
hai bên phải thương lượng giải quyết sao cho hạn chế đến mức thấp nhất tác động
đến cuộc sống và sản xuất của cư dân biên giới.
Ba là, công tác phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung
Quốc chủ yếu được thực hiện ở những nơi có điều kiện địa hình hết sức phức tạp,
độ chia cắt lớn (núi cao, đèo dốc hiểm trở), điều kiện khí hậu, thời tiết hết sức khắc
nghiệt (rừng thiêng nước độc; lũ quét; lũ ống...vv), cơ sở hạ tầng yếu kém (nhiều
nơi không có đường giao thông; xa khu dân cư), vật liệu xây dựng, lương thực,
máy móc thiết bị ... phần lớn đều phải vận chuyển bằng sức người đến vị trí mốc
giới. Hơn thế nữa, tại nhiều khu vực biên giới vẫn còn bom mìn, vật cản từ thời
chiến tranh để lại.
Nhìn lại 35 năm qua kể từ khi hai nước chính thức tiến hành đàm phán giải
quyết vấn đề biên giới trên đất liền, hai bên đã tiến hành trên 3000 cuộc đàm phán
lớn nhỏ với tổng cộng trên 1 triệu giờ công lao động để có được thành quả tạo
dựng đường biên giới trên đất liền Việt – Trung hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài
giữa hai nước.
2.2.5. Ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung
Quốc:
Việc giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung
Quốc là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong quan hệ hai nước. Lần đầu tiên
trong lịch sử, hai nước xác định được một đường biên giới rõ ràng trên đất liền với

một hệ thống mốc giới hiện đại, đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng đường
biên giới Việt - Trung thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, lâu dài,
hợp tác và phát triển, mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc. Ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền thể hiện trên một
số điểm sau đây:
Thứ nhất, ta đã giải quyết hai trong ba vấn đề lớn do lịch sử để lại trong
quan hệ Việt – Trung. Đó là giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới trên đất liền và
vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ, chỉ còn lại vấn đề Biển Đông. Những kinh nghiệm
16


giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền sẽ tạo cơ sở cho việc đàm phán giải quyết
vấn đề trên biển giữa hai nước.
Hai là, việc xác định một đường biên giới rõ ràng trên đất liền Việt Nam Trung Quốc tạo cơ sở để các ngành chức năng tiến hành quản lý biên giới một
cách hiệu quả, ngăn ngừa hiện tượng xâm canh, xâm cư do thiếu hiểu biết về
đường biên giới; mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, đặc biệt
là tạo điều kiện cho các địa phương biên giới hai bên mở rộng hợp tác, phát triển
kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị.
Ba là, việc hoàn thành giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền là biểu hiện
sinh động của mối quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” Việt Nam Trung Quốc, góp phần gia tăng sự tin cậy giữa hai bên, tạo động lực mới thúc đẩy
quan hệ Việt - Trung phát triển mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn.
Bốn là, trên bình diện quốc tế và khu vực, việc giải quyết dứt điểm vấn đề
biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là sự đóng góp thiết thực đối với hòa
bình, ổn định và phát triển ở khu vực, góp phần khẳng định các nguyên tắc chung
của luật pháp quốc tế: giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ bằng thương lượng
hòa bình; không sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh
chấp quốc tế.

17



CHƯƠNG II
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN
ĐẤT LIỀN VIỆT NAM- TRUNG QUỐC CỦA ỦY BAN BIÊN GIỚI QUỐC
GIA HIỆN NAY.
I. Công tác quản lý nhà nước đối với biên giới trên đất liền Việt- Trung.
1.1.Quản lý việc qua lại biên giới
Tại hầu hết các quốc gia có nhiều cơ quan tham gia vào quản lý các vấn đề
có liên quan đến biên giới như: Hải quan, Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh, Bộ
quốc phòng, dịch vụ vận chuyển, Cảnh sát. Mức độ “mở” và mức độ hoạt động
kéo theo các sản phẩm trực tiếp là việc ban hành chính sách của quốc gia. Trong
những trường hợp đặc biệt quản lý việc đi đến các vùng biên giới có thể cho các
biên giới gần trục đường giao thông. Những khía cạnh của quản lý thực tiễn này
bao gồm những quy định về bảo dưỡng những tuyến đường xuyên biên giới, các
của khẩu và các điểm vượt giao thông thích hợp, tiện lợi cho người và phương tiện
đi lại. Hai Nhà nước cho phép nhân dân hai bên vùng biên giới được thăm viếng và
giao lưu hợp tác với nhau và phải mang theo giấy xuất nhập cảnh do cơ quan chủ
quản nước đó cấp. Nếu như có các vấn đề qua lại xảy ra những việc phứ tạp ở vùng
biên giới thì cơ quan địa phương cấp tỉnh hai vùng biên có thể hiệp thương tạm
thời với nhau sau khi đã nhất trí thì báo cáo với Chính phủ nước mình để phê
duyệt.
Ở nước ta, lực lượng trực tiếp đóng vai trò chủ chốt trong việc quản lý việc
đi đến và qua lại biên giới nói chung và biên giới Việt- Trung nói riêng được giao
cho Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng
1.2. Quản lý vấn đề an ninh.
Hai bên sẽ hợp tác giữ gìn trật tự trị an xã hội vùng biên giới hai nước. Nội
dung chủ yếu bao gồm thông báo tình hình ở vung biên giới có liên quan đến trị an
xã hội của phía kia, xử lý các vấn đề người xuất nhập cảnh trái phép; hiệp thương
tổ chức điều tra sử lý các vụ án có liên quan với nước ngoài.Phối hợp thẩm tra,
truy lùng, bắt giữ, chuyển giao các tội phạm vượt biên. Phối hợp ngăn ngừa và

trừng trị các hoạt động phạm tội vượt biên buôn lậu, buôn ma tuý, vũ khí, làm bạc
giả, dụ dỗ buôn bán phụ nữ, trẻ em
Hai bên cần căn cứ pháp luật nước mình để có biện pháp thích đáng đối với
những vi phạm về quy định quản lý biên giới thuộc về bên nào thì giao cho bên đó
18


xử lý. Trước khi chuyển giao cần cung cấp họ tên, ảnh, địa chỉ của đương sự và
sau khi được phía bên kia đồng ý mới thoả thuận thời gian chuyển giao cần chuyển
giao cùng một lúc cho phía bên kia những chứng cứ có liên quan để xử lý.Những
người nước thứ 3 không bao gồm trong quy định chuyển giao này.
Cơ quan chủ quản hai bên có thể liên hệ với nhau về vấn đề giữ gìn vấn đề
trật tự trị an xã hội ở vùng biên giới hai nước.
1.3. Quản lý tài nguyên xuyên biên giới
Dân số ngày càng tăng và nguồn tài nguyên ngày càng có nguy cơ cạn kiệt
thì nhu cầu về các nguồn tài nguyên xuyên biên giới ngày càng cao. Các tài nguyên
này gồm khoáng chất, nước ngầm, các bồn dầu, khí đốt ở giữa các biên giới, các
bồn trũng ở châu thổ, khu bảo tồn, rừng và các đồng cỏ, các địa danh lịch sử văn
hóa ở các vùng biên giới cũng là tài nguyên xuyên biên giới đặc biệt.
Biên giới Việt- Trung khá phong phú về nguồn tài nguyên khoáng sản, khắp
tuyến có khoảng 13 loại khoáng sản. Tuy nhiên, trữ lượng ở các mỏ này không lớn
và ít triển vọng. Tài nguyên khai thác ở các vùng biên giới này chủ yếu là là các
loại động thực vật quý hiếm
Vấn đề quản lý tài nguyên xuyên biên giới đã đạt được những thành tựu
đáng kể. Để thực hiện được những công việc này cần có một số điều kiện sau:
- Kiến thức chung về các loại tài nguyên thiên nhiên.
- Một số Hiệp định chính thức giữa hai nước về quản lý tài nguyên thiên
nhiên xuyên biên giới
- Một Uỷ ban thường trực hoặc một Hội đồng quản lý việc thực hiện các
Hiệp định về sử dụng các nguồn tài nguyên.

Việc phối hợp quản lý các nguồn tài nguyên xuyên biên giới được coi là khả
năng tiềm ẩn trong việc xây dựng lòng tin giữa hai quốc gia, tạo điều kiện tăng
cường hợp tác, hữu nghị hợp tác giữa hai nước.
1.4. Quản lý môi trường
Trong thời đại ngày nay không thể có được việc quản lý môi trường tốt nếu
thiếu sự hợp tác qua biên giới. Cùng với các hoạt động khác việc quản lý trên
tuyến biên giới Việt Nam- Trung Quốc căn bản nhằm các mục đích:
Bảo vệ các loại động vật và thực vật đang bị đe doạ diệt chủng;
Các công trình nghiên cứu môi trường;
19


Kiểm soát hỏa hoạn, ô nhiễm;
Ngăn chặn hoạt động săn bắn, đánh bắt các loại động thực vật hoang dã qusy
hiếm và khuyến khích phát triển du lịch sinh thái;
1.5. Quản lý các sự kiện và tranh chấp biên giới
Điều này diễn ra ở các mức độ khác nhau, rõ ràng nhất ở cấp quốc gia và
địa phương.
Ở cấp quốc gia: những sự kiện xảy ra ở dọc biên giới không được phép làm
tác động đến quan hệ chính trị giữa các quốc gia. Một cơ chế như ủy ban liên hợp
của các chính phủ có liên quan đến biên giới có thể giải quyết vấn đề này một cách
nhanh chóng. Trong công tác phân giới cắm mốc tuyến biên giới Việt-Trung, sau
khi Hiệp ước về bên giới trên đất liên được ký kết, hai nước đã thành lập một ủy
ban liên hợp về phân giới, cắm mốc và triển khai việc phân giới cắm mốc trên thực
địa. Những vấn đề liên quan đến biên giới ở cấp quốc gia thì phải so Chính phủ cấp
cao của hai nước bàn bạc, thảo luận và cùng giải quyết. Nghiêm cấm các chính
quyền địa phương thảo thuận giải quyết một cách tự tiện và làm thay đổi đường
biên giới.
Cấp địa phương: các vấn đề hàng ngày nảy sinh dọc theo đường biên giới
như gia súc bị thất lạc hay sông bị ô nhiễm đều phải được giải quyết thường xuyên

và nhanh chóng và không cho phép lan rộng. Các cán bộ Việt Nam- Trung Quốc
phải gặp gỡ nhau thường xuyên để trao đổi thông tin và có kế hoạch phối hợp về
vấn đề nảy sinh của địa phương hai biên giới.
1.6. Quản lý đường biên và mốc giới
Sau qua trình phân giới, cắm mốc, các quốc gia thỏa thuận các quy định để
điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc duy trình đường biên giới. Đảm bảo sự
nguyên trạng các tuyến đường biên, mốc giới. Các quy định về quản lý này được
làm rõ và chi tiết hóa trong một thỏa thuận (thường gọi là quy chế) về kiểm tra và
giải quyết các tranh chấp phát sinh dọc đường biên giới (như vượt biên trái phép,
phá hoại các công trình biên giới trao đổi thông tin, hoạt động kinh tế và quản lý
tài nguyên vùng biên giới…) cũng như thủ tục giải quyết các vấn đề còn tồn tại.

20


II. Một số nội dung trong công tác quản lý nhà nuớc về biên giới quốc gia
trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc của Uỷ ban Biên giới quốc gia
hiện nay.
2.1. Công tác tham mưu tư vấn việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
và đề xuất các chính sách liên quan đên công tác quản lý nhà nước về biên giới
trên đất liền Việt- Trung
Uỷ ban Biên giới quốc gia từ khi mới thành lập và trong quá trình hoạt động
đã thực hiện có hiệu quả chức năng tham mưu cho Đảng- Nhà nước về các vấn đề
về biên giới quốc gia nói chung và các vấn đề về biên giới trên đất liền Việt NamTrung Quốc nói riêng. Năm 1975, Uỷ ban biên giới đã chỉ đạo ngay việc đàm phán
giữa tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) từ ngày 23/03/1976 đến 13/04/1976, khẩn
trương sưu tầm ở nhiều hướng như ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Pari (Pháp)
… làm cơ sở nghiên cứu đường biên giới pháp lý theo Công ước giữa Pháp và nhà
Thanh năm 1887 và 1895. Đồng thời, Uỷ ban biên giới lúc đó cũng phân công cho
Tuyến Biên giới Việt- Trung ( nay là Vụ Biên giới Việt- Trung) chủ trì của Bộ
Quốc phòng, Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước tổ chức thực hiện khảo sát thực địa

trên toàn tuyến Việt- Trung từ tháng 5/1976 đến tháng 12/1976 trong điều kiện địa
hình hiểm trở, đường xá khó khăn, thời tiết khắc nghiệt và có những nơi trong
hoàn cảnh nguy hiểm chưa có người đặt chân tới. Kết quả khảo sát là nguồn tài
liệu quý, là cơ sở thực tế để đánh giá cơ bản tình hình của đường biên giới phía
Bắc, phục vụ cho công tác nghiên cứu, xây dựng phương án phục vụ cho công tác
đàm phán giữ Cao Lạng ( nay là Cao Bằng- Lạng Sơn) và Quảng Tây từ ngày
05/03/177 đến 15/03/1977 và đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ giữa
hai nước từ tháng 10/1977 đến 08/1978. Đây cũng là căn cứ quản lý thực tế quan
trọng trong công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Trên cơ sở kết quả đã đạt được, Uỷ ban Biên giới quốc gia đã tiếp tục giao
nhiệm vụ cho Tuyến Biên giới Việt- Trung tiếp tục đẩy mạnh việc sưu tầm tài liệu
để củng cố thêm cơ sở pháp lý của đường biên giới Việt-Trung và tổ chức khảo sát
trên toàn tuyến biên giới năm 1983 để xác định cơ sở pháp lý mộtt cách vững chắc
của từng đoạn biên giới và từng cột mốc. Từ những kết quả khảo sát trên cũng như
kết quả của những chuyến công tác thực tế ở các vùng biên giới phía Bắc, Uỷ Ban
biên giới quốc gia đã thu thập được nhiều tài liệu, tư liệu quý và từ kiến thức thực
tế nên đã góp phần quan trọng trong việc tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao,
cho Đảng- Nhà nước và Chính phủ ký kết các điều ước quốc tế, ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật và các chính sách liên quan đến biên giới Việt-Trung.

21


Công tác tham mưu về ký kết, ban hành các Điều ước quốc tế và các văn bản
quản lý nhà nước về biên giới đất liền Việt- Trung của Uỷ ban biên giới quốc gia
có ý nghĩa quan trọng tạo cơ sở cho quản lý nhà nước về biên giới quốc gia nói
chung và biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc nói riêng.
Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng tuyến biên giới ViệtTrung hòa bình, hữu nghị, hợp tác, tạo sơ sở cho việc thúc đẩy quan hệ giũa hai
nước theo phương châm “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài,
hướng tới tương lai”.

2.2. Công tác phối hợp giữa các cơ quan trong Uỷ ban và giữa Uỷ ban với các
Bộ, ngành, địa phương có liên quan trong việc triển khai các Điều ước quốc tế
và văn bản quản lý nhà nước về biên giới trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc.
Do quá trình quản lý nhà nước về biên giới quốc gia nói chung và biên giới
quốc gia trên đất liền Việt- Trung nói riêng bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau với
nhiều nội dung công việc khác nhau. Do vậy, đòi hỏi phải có sự phối hợp công tác
của nhiều bộ phận, nhiều Bộ ngành và địa phương liên quan. Từ khi được thành
lập, Uỷ ban Biên giới quốc gia luôn làm tốt công tác này. Uỷ ban đã có sự phối
hợp với Ban Biên giới 7 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biên giới giáp
Trung Quốc, với Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch- Đầu tư, Bộ Công
an, … Các cơ quan này tuy đảm nhận những nhiệm vụ, lĩnh vực chuyên ngành
khác nhau nhưng có sự gắn bó chặt chẽ với nhau trong toàn bộ quá trình quản lý
nhà nước về biên giới quốc gia nói chung và biên giới quốc gia trên đất liền Việt
Nam- Trung Quốc nói riêng. Trong quá trình quản lý đó, Uỷ ban Biên giới quốc
gia có nhiệm vụ tư vấn, tham mưu cho Bộ Ngoại giao trong việc thành lập các
nguyên tắc và hoạch định biên giới. Đồng thời, phối hợp với Tổng cục Địa chính
trong giai đoạn phân giới, cắm mốc, cùng với Bộ Quốc phòng ( cụ thể là Bộ Tư
lệnh Bộ đội biên phòng) tham gia duy trì, bảo vệ đường biên giới Việt Nam- Trung
Quốc…
Triển khai thực hiện Hiệp ước hoạch định biên giới trên đất liền giữa nước
Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày
30/12/1999, Uỷ ban Biên giới là đầu mối (trong đó Uỷ ban giao cho Vụ Biên giới
Việt- Trung làm chủ chốt) chủ trì và điều phối thực hiện công tác phân giới, cắm
mốc biên giới trên đất liền Việt- Trung.
Vụ đã soạn thảo nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn những vấn đề liên quan
đến biên giới, lãnh thổ; nhận và xử lý một khối lượng điện mật rất lớn từ các cơ
quan đại diện ở của nước ta ở nước ngoài, các địa phương và các nhóm phân giới,
cắm mốc gửi về. Tổ chức các cuộc họp liên Bộ, ngành xem xét phê duyệt Đề án,
22



Kế hoạch đàm phán và phân giới cắm mốc của các nước phân giới cắm mốc; cử
phái viên trực tiếp bám sát và thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, nắm tình hình kết
quả hoạt động của các nhóm, không để xảy ra sai sót. Đồng thời, chủ trì các đoàn
liên Bộ để kiểm tra kết quả phân giới và xác định vị trí mốc giới của các nhóm
phân giới cắm mốc; tham gia xây dựng kế hoạch và đảm bao kinh phí phục vụ
phân giới cắm mốc cho các Bộ, ngành và địa phương. Vụ cũng phối hợp tốt với
các Bộ, ngành và địa phương có liên quan thực hiện tốt các công việc: củng cố, xây
dựng 12 nhóm phân giới cắm mốc vững mạnh toàn diện, đảm bảo đúng, đủ về số
lượng và chủng loại cột mốc theo sự chỉ đạo yêu cầu của Ban chỉ đạo phân giới
cắm mốc; tháo gỡ những khúc mắc trong phối hợp các Bộ, ngành và địa phương để
thúc đẩy tiến độ phân giới cắm mốc. Vụ thường xuyên theo dõi, tổng hợp duy trì
báo cáo tình hình, tiến độ và kết quả phân giới cắm mốc hàng tháng.
Trong giai đoạn vừa qua, Uỷ ban Biên giới quốc gia cũng đã có trách nhiệm
về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công tác biên giới tại các Bộ, ngành
và địa phương cùng với các Ban Ngoại vụ của 7 tỉnh thành phố trực thuộc Trung
ương có đường biên giới giáp ranh với Trung Quốc trong việc thực hiện các Điều
ước quốc tế được ký kết giữa hai nước và các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến công tác quản lý nhà nước về biên giới, (đặc biệt là 3 văn kiện: Nghị định
thư về biên giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về
cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu ký ngày 18/11/2009) cũng như triển khai
các chính sách của Nhà nước ta về phát triển kinh tế- xã hội cho đồng bào vùng
biên giới phía Bắc.
2.3. Tổ chức và quản lý cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về
biên giới quốc gia trên đất liền Việt Nam- Trung Quốc
Xuất phát từ tầm quan trọng của tuyến biên giới Viêt- Trung, ngay trong
Nghị định số 21/CP ngày 05/05/1993 của Chính phủ quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức bộ máy của Ban Biên giới của Chính phủ Vụ Biên giới Việt- Trung
đã được thành lập.Vụ hiện có 12 người.Lãnh đạo Vụ gồm 1 đồng chí Vụ trưởng
(nay là đồng chí Đỗ Văn Mai) và 2 đồng chí Phó Vụ trưởng. Đội ngũ cán bộ của

Vụ là những người có trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ tương đối tốt, đảm
bảo thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Từ khi thành lập đến nay, Vụ đã đảm nhiệm chức năng giúp Uỷ ban trong
công tác tham mưu, chỉ đạo công tác quản lý biên giới lãnh thổ trên đất liền ViệtTrung; góp phần vào việc ký kết thành công Hiệp ước về biên giới trên đất liền
Việt-Trung năm 1999 và hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên biên giới đất
liền Việt Nam-Trung Quốc, xây dựng Nghị định thư về phân giới cắm mốc, Hiệp
23


định về quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu, Quy chế quản lý cửa
khẩu.
Mặc dù địa bàn công tác mà Vụ hoạt động là vùng biên giới, vùng sâu, vùng
xa, khó khăn, gian khổ, hoạt động phân tán nhưng năm nào Vụ cũng đạt danh hiệu
đơn vị xuất sắc, chi bộ trong sạch, vững mạnh, không có cán bộ vi phạm kỷ luật,
đảm bảo là đơn vị an toàn cả về người, phương tiện và tài liệu.Nội bộ của Vụ cũng
luôn đạt được sự nhất trí cao, phát huy tốt sức mạnh tập thể của đơn vị.
2.4. Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật về quản lý biên giới, lãnh
thổ quốc gia trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam- Trung Quốc
Công tác thông tin, tuyên truyền là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
Uỷ ban Biên giới quốc. Mục đích của công tác này là nhằm cung cấp những thông
tin, tài liệu cần thiết cho các cán bộ trong nội bộ Uỷ ban, đồng thời cũng cung cấp
thông tin cho các Bộ, ngành, địa phương liên quan và nhân dân hiểu về tầm quan
trọng, hiểu đúng về những vấn đề liên quan đến biên giới nói chung và trên tuyến
biên giới Việt-Trung nói riêng.
Từ đó, góp phần tác động tới nhận thức, ý thức, trách nhiệm của toàn dân
đối với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Công tác thông tin, tuyên truyền được Uỷ ban
Biên giới quốc gia giao cho Vụ Tuyên truyền, Thông tin và Tư liệu đảm bảo với
các hoạt động cụ thể về các lĩnh vực: nghiên cứu khoa học, quản lý tư liệu, công
tác tuyên truyền và các vấn đề hợp tác quốc tế. Từ khi thành lập đến nay, Vụ đã có
sự lớn mạnh và ngày càng được phân công nhiều nhiệm vụ. Vụ có vị trí là đầu mối

thông tin và tư liệu, có khả năng xử lý thông tin, tài liệu, tổ chức các vấn đề nghiên
cứu liên quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới, lãnh thổ của Uỷ
ban Biên giới quốc gia. Trong thời gian qua, Vụ đã thực hiện nhiệm vụ là đơn vị
cung cấp các thông tin, tư liệu, hỗ trợ các thiết bị thông tin cho hoạt động chuyên
môn của các đơn vị khác trong Uỷ ban. Vụ đã tiến hành tuyên truyền thông qua
các hình thức như: tổ chức các buổi hội thảo, các cuộc họp cho cán bộ, phối hợp
với các cơ quan có thông tin đại chúng và phát tài liệu đến cán bộ, nhân dân, tổ
chức các khóa học về biên giới. Đồng thời, Vụ đã phối hợp với các đơn vị trong
Uỷ ban định hướng các chuyên đề nghiên cứu khoa học dưới dạng hình thức hội
thảo, nói chuyện, đề tài…
Bên cạnh đó, năm 2010, được sự trợ giúp của Bộ Di trú và Quốc tịch
Ôxtrâylia, Vụ đã biên soạn và cho xuất bản bộ tài liệu” Dự án giáo dục nhận thức
pháp luật tại các vùng biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai
đoạn 3” với nhiều ấn phẩm như:
24


Văn bản pháp luật liên quan đến quốc tịch, hôn nhân và gia đình, phòng và
chống tội phạm, phòng chống ma túy;
Các Điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết với các nước trongkhu vực về
phân giới trên đất liền và trên biển;
Biên giới đất liền Việt Nam- Trung Quốc;
Biên giới đất liền Việt Nam- Lào;
Biên giới trên đất liền Việt Nam- Campuchia;
Một số vấn đề liên quan đến chủ quyền biển đảo của nước ta trên Biển
Đông;
Vụ cũng đã phối hợp với các cơ quan hữu quan, các địa phương vùng biên
giới giáp ranh với Trung Quốc tiến hành giáo dục nhận thức cho đồng bào cho các
dân tộc miền núi. Các hoạt động của Vụ Tuyên truyền, Thông tin và Tư liệu trong
thời gian qua đã trang bị cho những người làm công tác biên giới và nhân dân vùng

biên giới Việt Nam với các nước láng giềng mói chung và nhân dân khu vực biên
giới trên đất liền Việt- Trung nói riêng những kiến thức tổng thể, toàn diện, có hệ
thống và chính xác về biên giới giữa nước ta với các nước co chung đường biên
giới. Qua đó góp phần nâng cao được nhận thức, hiểu biết tầm quan trọng của biên
giới lãnh thổ để nhân dân nắm được tình hình thực tế trên biên giới quốc gia, hiểu
đúng và ủng hộ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
2.5. Công tác hợp tác quốc tế:
Ngay từ khi thành lập, Uỷ ban Biên giới quốc gia cũng đã tham gia tích cực
vào nhiệm vụ hợp tác quốc tế với các quốc gia như Pháp, Hoa Kỳ, Trung Quốc và
các nước láng giềng khác để trao đổi, thu thập tài liệu làm căn cứ pháp lý cho việc
ký kết các Điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ quốc gia nói chung và biên giới
quốc gia trên đất liền Việt-Trung nói riêng.Trong đó, đặc biệt là các hoạt động hợp
tác với Trung Quốc. Các kết quả phải kể đến như sau:
+ Giai đoạn 1975-1991:
Bắt đầu từ khi thành lập năm 1975 Ban Biên giới của Chính phủ (tiền thân
của Uỷ ban Biên giới quốc gia ngày nay) đã tiến hành ngay việc chỉ đạo cuộc đàm
phán với tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc (1976). Sauk hi bình thường hóa quan
hệ với Trung Quốc, Uỷ ban Biên giới quốc gia đã chủ trì phối hợp với các Bộ,

25


×