Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

bài tập cá nhân luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.96 KB, 5 trang )

ĐỀ BÀI SỐ 07
Vào dịp lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, thấy nhiều người đi
chơi quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm có nhu cầu gửi xe máy S liền nảy ra ý định
chiếm đoạt tài sản. S rủ N, H, K vào lúc trời chập choạng tối lấy dây thừng và cọc
tre quây quanh một đoạn vỉa hè làm bãi nhận trông giữ xe máy. Sau khi nhận được
5 chiếc xe máy gửi vào bãi, chúng bèn nhanh chóng dắt xe đi tẩu tán. Năm chiếc
xe được xác định trị giá 150 triệu đồng.
Hỏi:
1. Có ý kiến cho rằng nhóm S, N, H, K đồng phạm về tội trộm cắp tài sản, hãy
bình luận ý kiến trên và đưa quan điểm cá nhân về tội danh của bốn người này. (4
điểm)
2. Giả sử H và K chỉ mới 15 tuổi thì hai người này có phải chịu TNHS về hành vi
chiếm đoạt tài sản nêu trên không? Tại sao?(3 điểm)

1


GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG:
1. Có ý kiến cho rằng nhóm S, N, H, K đồng phạm về tội trộm cắp tài sản, hãy
bình luận ý kiến trên và đưa quan điểm cá nhân về tội danh của bốn người này?
a. Bình luận ý kiến nhóm S, N, H, K đồng phạm về tội trộm cắp tài sản :
Giả sử nhóm S, N, H, K đồng phạm về tội trộm cắp tài sản, thì hành vi của nhóm
được coi là tội phạm khi thỏa mãn các dấu hiệu cơ bản để cấu thành tội phạm này. Cụ
thể như sau:
Có thể thấy rằng, S, N, H, K đã thỏa mãn một số dấu hiệu để cấu thành tội trộm cắp
tài sản về chủ thể, khách thể và về mặt chủ quan. Tuy nhiên, cần làm rõ hơn một số
vấn đề về mặt khách quan của tội phạm cụ thể như sau:
Đối với tội trộm cắp tài sản chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm
đoạt” tài sản bằng hình thức lén lút. Người phạm tội thường sử dụng một số thủ đoạn
như lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, không trông giữ cẩn
thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan (chen lấn, xô đẩy) nhằm tiếp cận tài


sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết. Điều này có
nghĩa là việc lén lút chiếm đoạt tài sản được thực hiện giấu giếm và tài sản bị trộm
cắp sẽ bị “tẩu tán” nhanh chóng. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều trường hợp hành vi
có dấu hiệu tội phạm này nhưng lại phạm tội khác. Bởi lẽ các tội phạm xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt có dấu hiệu hành vi về cơ bản là gần giống nhau, nên rất dễ
gây nhầm lẫn cho việc xác định tội danh. Đối với tình huống, khi đã nhận được 5
chiếc xe máy “chúng bèn nhanh chóng dắt xe đi tẩu tán”. Mặc dù có dấu hiệu
“nhanh chóng” song hành vi nhanh chóng tẩu tán này, lại được thực hiện khi mà
người chủ sở hữu, người quản lý tài sản đã giao tài sản cho tội phạm. Điều này có
nghĩa là tội phạm thực hiện hành vi không hề “lén lút chiếm đoạt tài sản” mà bằng
một cách nào đó, tội phạm đã đánh lừa chủ sở hữu, người quản lý tài sản giao tài sản
cho mình rồi mới thực hiện hành vi chiếm đoạt.
Cách mà tội phạm dùng để đánh lừa người chủ sở hữu, người quản lý tài sản để
chiếm đoạt được tài sản là nhóm S, N, H, K đã nhân cơ hội “lúc trời chập choạng tối
2


lấy dây thừng và cọc tre quây quanh một đoạn vỉa hè làm bãi nhận trông giữ xe
máy”.Việc làm này diễn ra trước khi tội phạm được chủ sở hữu (người quản lý tài
sản) giao cho tài sản. Có nghĩa hành vilàm bãi trông xe chỉ là thủ đoạn gian dối để S,
N, H, K đánh lừa những người khách có nhu cầu gửi xe. Người chủ sở hữu, người
quản lý tài sản khi giao tài sản cho tội phạm, nghĩ rằng việc giao tài sản cho người
phạm tội như vậy là hoàn toàn hợp pháp nên họ mất cảnh giác và tự nguyện giao tài
sản: gửi xe máy vào bãi trông xe của S, N, H, K. Chỉ sau khi tài sản đã bị chiếm đoạt
thì họ mới phát hiện là mất tài sản. Nhờ đó, mà tội phạm đã có điều kiện “nhận được
5 chiếc xe máy gửi vào bãi” và “nhanh chóng dắt xe đi tẩu tán”.
Có thể thấy, mặc dù cùng để thực hiện mục đích “chiếm đoạt tài sản” nhưng
khi tội phạm dùng những thủ đoạn, hành vi khác nhau thì sẽ phạm những tội khác
nhau. Như trong tình huống thì tội phạm đã dùng thủ đoạn gian dối nhằm đánh lừa
chủ sở hữu, người quản lý tài sản tự nguyện giao tài sản, chứ không hề có hành vi lén

lút của Tội trộm cắp tài sản. Do đó, ý kiến nhóm S, N, H, K là những người đồng
phạm về Tội trộm cắp tài sản là không đúng mà đây là Đồng phạm về Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 BLHS.
b. Tội danh của S, N, H, K:
Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với Lỗi cố ý do cả 4 người
S, N, H, K cùng thực hiện, là đồng phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 20 “Đồng
phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Pháp
luật quy định về nguyên tắc “cá thể hóa hình phạt”.Điều này có nghĩa là mỗi người
phạm tội trong đồng phạm sẽ bị truy cứu TNHS ở mức độ tương ứng với vai trò của
họ trong Đồng phạm. Theo đó, người phạm tội thực hiện Đồng phạm với những vai
trò cụ thể như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức
“Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người tổ chức là người chủ
mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.Người xúi giục là người kích động, dụ
dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.Người giúp sức là người tạo những điều

3


kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm” (Khoản 2 Điều 20
BLHS).Dựa vào cơ sở pháp lý như trên, thấy rằng:
- S là người “nảy ra ý định chiếm đoạt tài sản” đầu tiên ngay khi thấy nhiều người đi
chơi quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm và để thực hiện mục đích đó, S đã “rủ N, H, K”
cùng thực hiện tội phạm. Nói cách khác, S chính là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy
việc thực hiện tội phạm với vai trò là người tổ chức.
- Cả 4 người S, N, H, K đều cùng phối hợp với nhau, trực tiếp thực hiện Tội trộm cắp
tài sản. Do đó, cả 4 người đều tham gia vào đồng phạm với vai trò người thực hành.
2. Giả sử H và K chỉ mới 15 tuổi thì hai người này có phải chịu TNHS về hành vi
chiếm đoạt tài sản nêu trên không? Tại sao?
Nếu H và K phạm tội khi chỉ mới 15 tuổi, thì H và K không phải chịu TNHS
về hành vi chiếm đoạt tài sản.

Điều 12 BLHS quy định về Tuổi chịu trách nhiệm hình sự “Người từ đủ 16
tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; Người từ đủ 14 tuổi trở
lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Trên cơ sở đó, chủ thể của Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định như sau: người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi không phải chịu TNHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp tội
phạm ít nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 139 và tội phạm nghiêm trọng tại
khoản 2 Điều 139. Nếu người phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định tại khoản 3
Điều 139 hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng theo khoản 4 Điều 139 thì người phạm
tội chỉ cần đủ 14 tuổi là phải chịu TNHS. Hành vi phạm tội của nhóm này là có tổ
chức, đã gây ra hậu quả là “chiếm đoạt” được “tài sản trị giá 150 triệu đồng”. Được
quy định là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm a, điểm e khoản 2 Điều 139
BLHS với khung hình phạt áp dụng là phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Nên tội
phạm của nhóm này thực hiện là tội phạm nghiêm trọngtheo quy định tại khoản 3
Điều 8 BLHS. H và K khi thực hiện tội phạm mới chỉ 15 tuổi nên không phải chịu
TNHS với tội phạm nghiêm trọng.
4


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam Tập I , nxb
Công An Nhân Dân, Hà Nội, 2010.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam Tập II, nxb
Công An Nhân Dân, Hà Nội, 2012.
3. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (Phần chung),
Nxb ĐHQG, Hà Nội, 2005.
4. Bộ luật hình sự Việt Nam 1999, sửa đổi, bổ sung 2009.
5. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, nxb Công An
Nhân Dân, Hà Nội, 2005.
6. TS. Đỗ Đức Hồng Hà, Bài Tập Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự, nxb Tư

Pháp, Hà Nội, 2009. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật
hình sự (Phần chung), Nxb ĐHQG, Hà Nội, 2005.
7. Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp, Bình luận khoa học BLHS Việt Nam
năm 1999, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001.

5



×