Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nghiên cứu khả năng xử lý nước bị nhiễm phèn nặng tại U Minh, Cà Mau bằng một số vật liệu sẵn có tại địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.75 KB, 13 trang )

Nghiên cứu khả năng xử lý nước bị nhiễm phèn nặng tại U Minh,
Cà Mau bằng một số vật liệu sẵn có tại địa phương
Hoàng Văn Thơi1
Tóm tắt
Nghiên cứu khả năng xử lý nước bị nhiễm phèn bằng một số vật liệu
sẵn có tại địa phương, được thực hiện tại Lâm ngư trường U Minh I, thuộc xã
Nguyễn Phích, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau trong thời gian từ tháng 1/2007
đến tháng 10/2008. Nghiên cứu này nhằm chọn được hàm lượng thích hợp
cho từng loại vật liệu thử nghiệm và đánh giá được mức độ cải thiện môi
trường nước nhiễm phèn nặng tại địa phương sau khi sử dụng các loại vật liệu
sẵn có như than bùn, chuối cây, rơm rạ.
Sử dụng chuối cây 20% đạt được 4 chỉ tiêu với 04 chỉ tiêu giảm từ 2,5
– 5,1 lần và 01 chỉ tiêu tăng 1,6 lần. Rơm 15% cũng đạt 3 chỉ tiêu, 05 chỉ tiêu
giảm từ 1,5 – 3,6 lần, 01 chỉ tiêu tăng 1,6 lần. Than bùn 10% cũng đạt 4 chỉ
tiêu, nhưng 4 chỉ tiêu giảm ít hơn 2,0 - 2,9 lần, 01 chỉ tiêu tăng chỉ ở mức 1,4
lần.
Lục bình có thể sống và sinh trưởng tốt ở nghiệm thức sử dụng chuối
cây 20%, nhưng không tồn tại được ở nghiệm thức Than bùn 10% và Rơm
15%.
Cá Sặt có thể sống được trong các ao có xử lý bằng vật liệu thí nghiệm,
nhưng không tồn tại ở ao đối chứng quá 2 giờ.
Từ khóa: đất phèn, môi trường, than bùn, chuối cây, rơm rạ
Việt Nam là một trong những nước có diện tích đất phèn lớn trên thế
giới với 2.140.306 ha, trong đó Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm
tới 88% với 1.885.890 ha. Riêng tỉnh Cà Mau có 279.974 ha đất phèn, chiếm
53,73% diện tích toàn tỉnh, trong đó đất phèn hoạt động 81.285 ha, đất phèn
tiềm tàng 198.689 ha (Phân viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp Miền
Nam, 1999). Tuy nhiên, diện tích đất phèn tiềm tàng đang bị giảm nhanh
chóng, nhường chỗ cho diện tích đất phèn hoạt động do các hoạt động kinh tế
như trồng rừng thâm canh, đào kênh … dẫn đến sự lan tỏa phèn gần như toàn
vùng, kéo theo hậu quả là gây ức chế quá trình trao đổi chất, làm vô hiệu hoá


các chất dinh dưỡng trong môi trường đất, nước làm cho chúng tạo thành các


hợp chất khó hấp phụ, dẫn đến sự thiếu hụt giả tạo dinh dưỡng đất...
Hiện nay, nguồn nước mặt ở các kênh rạch, trên đồng ruộng và mặt đất
rừng Tràm vùng U Minh hạ, đang bị nhiễm phèn rất nghiêm trọng. Vào giữa
mùa mưa (tháng 10-2005) nhưng độ pH của tầng nước mặt đo được rất thấp
dao động từ 2 - 4. Do vậy, đã làm hoạt hoá các hợp chất gây độc cho cây
trồng và đặc biệt là động vật sống dưới nước, dẫn đến nguồn lợi cá đồng đang
bị đe doạ nghiêm trọng đến khả năng sống sót và duy trì nòi giống.
Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng phèn hoá như cháy rừng, khai
thác rừng quá mức, quá trình đào đắp kênh mương... làm cho cả một vùng
rừng Tràm rộng lớn từ U Minh tới Trần Văn Thời bị nhiễm phèn nặng.
Một số biện pháp xử lý phèn đã được thực hiện như (i) biện pháp thuỷ
lợi, trong đó chú trọng đến vấn đề đào kênh xổ phèn; (ii) Dùng nước ém phèn:
Là biện pháp giữ cho mặt đất luôn luôn ngập nước để hạn chế khả năng phóng
thích các độc chất khi bị oxy hóa; (iii) bón vôi làm tăng pH, giảm phèn, khử
độc…Tuy nhiên, mỗi biện pháp đều có mặt hạn chế nhất định, để khặc phục
nhược điểm trên đã tiên hành nghiên cứu khả năng xử lý nước bị nhiễm phèn
nặng tại U Minh, Cà Mau bằng một số vật liệu sẵn có tại địa phương.
2.Nội dung, mục tiêu nghiên cứu
Sử dụng các vật liệu có sẵn ở vùng U Minh như: Than bùn, thân chuối
và rơm rạ sẵn có trong vùng để xử lý nước bị nhiễm phèn tại vùng U Minh.
Mục tiêu của nghiên cứu: Xác định được mức độ cải thiện môi trường
nước nhiễm phèn của một số loại vật liệu hiện có phổ biến tại địa phương
như, than bùn, rơm rạ, chuối cây.
Khu vực bố trí thí nghiệm là đất phèn hoạt động nông, trên nền phèn
tiềm tàng với các đặc trưng chính là có độ chua cao, hàm lượng dinh dưỡng
thấp, trong khi độc tố lại rất cao.
Theo tài liệu của Phân viện KSTL Nam bộ (1997) vào các tháng V,

VII, IX, XII năm 1993, chỉ số pH =2,7 - 5,0; trong đó đa phần các mẫu nước
là có pH=2,7-4,0.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu
2


i) Rơm rạ sau thu hoạch-

Vật liệu 1 - Ký hiệu : R

ii) Thân chuối cây sau thu hoạch -

Vật liệu 2 - Ký hiệu : C

iii) Than bùn -

Vật liệu 3 - Ký hiệu :T

Phương pháp nghiên cứu
Bố trí thí nghiệm thăm dò khả năng giảm phèn của một số loại vật liệu
hiện có tại địa phương theo tỷ lệ trọng lượng các loại vật liệu.
i) Rơm rạ sau thu hoạch: 5%, 10% và 15% - Ký hiệu là R5, R10 và
R15
ii) Thân chuối sau thu hoạch: 10%, 15% và 20% - Ký hiệu là C10,C15
và C20
iii) Than bùn: 5%, 10% và 15% - Ký hiệu là T5, T10 và T15
Thử nghiệm khả năng giảm phèn của Than bùn, Chuối cây và Rơm
ngoài hiện trường
Hình 1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm

Hộ ông Tấn
R3

Hộ ông Bình

T3

R2

ĐC

T2

C3

C2

Hộ ông
T ấ
C3

R3

T1

* Diện tích thử nghiệm: Thực hiện trên 10 ao nuôi cá có kích thước từ
33-72 m2.
* Theo dõi biến động về các chỉ tiêu nghiên cứu theo thời gian 2
tháng/lần.
Lấy mẫu nước tại các ao thí nghiệm, mỗi mẫu đại diện cho một ao

(nghiệm thức thí nghiệm + đối chứng).
Các chỉ tiêu nước cần theo dõi: DO, pH , độ mặn, SO42-, Fe2+, Fe3+,
Al+3, H2S, BOD5, COD theo định kỳ 2 tháng/lần.
Đánh giá mức độ cải thiện môi trường nước nhiễm phèn về các chỉ tiêu
3


Chỉ tiêu hóa học nước: pH, Fe2+, Fe3+, Al3+, độ mặn, SO42-, DO , BOD5,
COD, H2S đạt được; theo tiêu chuẩn Việt Nam về nước phục vụ nuôi trồng
thủy sản (nuôi cá đồng).
Chỉ thị sinh học: (i)Thả lục bình (Eichhornia crasspipes) 50 bụi/ao,
theo dõi tự tồn tại sau 1 tuần; (ii) Thả cá sặt rằn(Trichogaster pectoralis) 11
con/lặp, theo dõi khả năng sống sót trên các nghiệm thức thí nghiệm
3. Kết quả và thảo luận
a. Thành phần hóa học của vật liệu thí nghiệm( Bảng 1)
Bảng 1. Thành phần các vật liệu thử nghiệm tính theo tỷ lệ % các
chất
TT
1
2
3

Loại vật liệu

Than bùn(T)
Chuối
cây(C)
Rơm(R)

Chất khô

40,131
4,022
69,522

Tro
8,5
6,5
9,0

Cellulose
0
25,46
29,03

Thành phần(%)
C
N
P
49,35 1,736 0,216
44,55 0,294 0,281
48,75

0,630

0,153

K
0,154
2,607
1,355


Ca
0,153
0,089
0,028

Mg
0,097
0,039
0,050

Kết quả phân tích ở bảng 1 cho thấy, hàm lượng chất khô cao nhất có ở
rơm sau thu hoạch chiếm gần 70%, kế đến than bùn 40,131%, thấp nhất là
chuối cây chỉ có 4,022%. Chứng tỏ rằng hàm lượng nước trong chuối cây là
rất lớn trong khi rơm có hàm lượng nước thấp nhất.

Thành phần chất xơ cao nhất là trong rơm với 29,03%, kế đến là chuối
cây là 25,46%, trong khi than bùn đã phân huỷ hết các chất xenlulo.
Về tỷ lệ các bon trong cả ba vật liệu là khá cao và đồng đều, biến động
từ 44,5% ở chuối cây đến 48,75% ở rơm và 49,35% ở than bùn. Đây là thành
phần quan trọng để tạo nên các hợp chất hữu cơ mùn.
Về dinh dưỡng thì than bùn giàu đạm nhất chiếm 1,736%, trong khi đó
chuối cây lại là loại vật liệu chứa nhiều lân nhất (0,2607%) và nhiều kali nhất
(2,607%)
Về hàm lượng Ca, Mg: Than bùn có tỷ lệ Ca cao nhất chiếm 0,153%,
kế đến là chuối cây (0,089%), thấp nhất là rơm chỉ có 0,028%. Trong khi đó
Mg cũng có nhiều trong than bùn nhất (0,097%) kế đến là rơm (0,050%) sau
cùng là chuối cây xấp xỉ với rơm (0,039%)
Như vậy, khi ngâm ba loại vật liệu nêu trên vào dung dịch nước phèn
sẽ xảy ra hiện tượng thuỷ phân chất xenlulo và các khoáng chất nhờ các men

4


phân giải của các vi sinh vật cả yếm khí và kỵ khí.
b. Thành phần hóa học của nước phèn trước khi thí nghiệm
(Bảng 2. Thành phần hóa học của nước phèn trước khi thí nghiệm
Tên mẫu

Thành phần(mg/l)
Na+
K+
Ca2+

Mg2+

Cl-

Al3+

Fe3+

Fe2+

Mẫu 1
Mẫu 2
Mẫu 3
Trung bình

7
8,5

9
8,17

0,8
0,8
0,6
0,73

0,603
0,78
0,567
0,65

277,8
228,6
257,5
254,64

298,5
274,8
281,7
285,0

15,78
18,24
11,78
15,27

Tên mẫu


Thành phần(mg/l)
DO
BOD5 COD

SO42-

H2S NO2- NO3-

NH4+

pH

8,15
7,59
7,27
7,67

2490
2634
1829
2,317,67

0,04
0,04

7,3
5,4
2,2
4,97


2,82
2,67
2,75
2,75

2,36
1,7
1,9
1,99

Bảng 2 (tiếp theo)

Mẫu 1
Mẫu 2
Mẫu 3
Trung bình

10
11
8
9,67

5,4
5,8
4,2
5,13

78
66
38

60,67

0,03
0,02
0,02
0,02

0,69
0,24
0,16
0,36

Đ,mặn
(‰)
1,7
2,0
1,6
1,8

Kết quả bảng 2 cho thấy, nồng độ các ion hòa tan: Na+ biến động từ 7
– 9 mg/l, cao hơn một ít so với nước sông hồ thông thường (6 mg/l), trong
khi đó nồng độ K+ là 1,7 -2,36 mg/l lại không có sự khác biệt đáng kể (2
mg/l). Nồng độ Cl-, Ca2+ và Mg2+ thấp hơn nhiều so với nước thông thường,
Ca2+ thấp hơn 3 lần, Mg2+ thấp hơn 5 lần và Cl- thấp hơn 12 lần. Như vậy,
với nồng độ các ion thấp đã không làm ảnh hưởng đến độ mặn của nước,
nhưng do lượng Ca2+ và Mg2+ quá thấp nên không có khả năng cải thiện
được độ chua của nước phèn.
Nồng độ các độc chất: Trái với nồng độ các ion kiềm và kiềm thổ có
khả năng làm gia tăng pH nước, thì các ion Al3+, Fe2+, Fe3+, SO42- lại có nồng
độ cao hơn nước sông hồ bình thường gấp nhiều lần.

pH của các mẫu nước là rất thấp biến động từ 2,67 – 2,82, đây là điều
kiện thuận lợi để ion sắt, nhôm, sulphate gia tăng hoạt động và gây độc.
Các chất dinh dưỡng:
Amoni (NH+) ở mức trung bình cao, nếu so với quy định về nước mặt
của Hà Lan > 5 mg/l được coi là ô nhiễm nặng, theo tiêu chuẩn nước nuôi
thủy sản của FAO yêu cầu nồng độ amoni < 0,2 mg/l với cá Salmonid và 0,8
mg/l đối với cá cyprinid.
5


Nitrat(NO3-) quá thấp so với nước bề mặt thông thường (10 - 15 mg/l)
và nitrit (NO2-) ở mức giới hạn cũng quá thấp theo TCVN 5942-1995.
Các thông số về ô nhiễm hữu cơ như DO, BOD, COD đều thấp và đạt
so với tiêu chuẩn nước bề mặt thông thường
Như vậy, kết quả phân tích các mẫu nước trước khi thí nghiệm cho thấy
rằng nước trong khu vực bị phèn nặng, có chỉ số pH và các chỉ số dinh dưỡng
rất thấp, trong khi đó các chỉ số về độc tố lại rất cao. Điều này đã ảnh hưởng
rất lớn đến đời sống thủy sinh cũng như các loài cây trồng tại địa phương.
Mặt khác, nước trong ao lại luôn luôn được bổ sung một cách thường xuyên
các loại độc chất đất phèn theo cơ chế thấm ngang và cơ chế trao đổi làm cho
nước trong ao lại càng bị ô nhiễm nặng hơn.
c. Kết quả thăm dò về tỷ lệ vật liệu tham gia thí nghiệm (Bảng 3)
Bảng 3. Sự biến động chỉ số pH của các nghiệm thức theo thời gian
từ 18/01 đến 18/05/2008
Tên vật liệu
Rơm
Chuối cây

Than bùn
Đối chứng



hiệu
R5
R10
R15
C10
C15
C20
T5
T10
T15
ĐC

pH theo thời gian
18/01/2007 18/02/2007
2,48
3,57
3,78
4,42
2,48
3,15
3,39
3,8
2,48
3,2
3,41
3,44
2,48
2,38


18/03/2007
2,98
3,44
5,5
3,14
3,3
3,75
3,13
3,29
3,3
2,07

18/04/2007
2,98
3,51
6,21
3,14
3,25
3,77
3,13
3,33
3,36
2,09

18/05/2007
3,01
3,34
6,29
3,26

3,65
4,02
3,26
3,54
3,56
2,14

Kết quả bảng 3 cho thấy, trị số pH của hàm lượng các chất biến động
theo hướng tăng dần theo các tháng 1- 4 và ổn định trong tháng 5, cụ thể:
Đối với Rơm (R):

Biến đổi pH theo thời gian
7

Sau 5 tháng theo dõi thì biến động
5
4
của chỉ số pH thay đổi từ 2,48 trong tháng
3
1 đến 6,21 trong tháng 4 và ổn định trong
2
1
tháng 5. Hàm lượng 5% và 10% có biến
0
0
1
2
3
4
5

6
động gần như nhau và không có sự khác
Tháng
biệt. Riêng hàm lượng 15% có các trị số
biến động tăng pH mạnh hơn và hoàn toàn khác biệt về thống kê so với hàm
pH

6

6

R5
R10
R15
ĐC


lượng 5 và 10% (F05= 24.38; P= 0.0002<0.05).
Như vậy, hàm lượng 15% biến động tăng mạnh ở các tháng 2, 3 và 4
sau đó
Hình 2. Biến đổi của pH nước theo thời gian thử nghiệm với vật liệu
Rơm
ổn định ở tháng thứ 5.

Biến đổi pH theo thời gian

pH

Các kết quả theo dõi về trị số
pH của các hàm lượng thí nghiệm

5%, 10% và 15% đều khác biệt so với
chỉ số pH ở nghiệm thức đối chứng

4.5
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0

C10
C15
C20
ĐC

Từ kết quả thăm dò này có thể
0
1
2
3
4
5
6
Tháng
đưa ra nhận xét: (i) Ở hàm lượng 15%
rơm có khả năng làm tăng pH cho nước nhiễm phèn; (ii) chiều hướng biến

động của pH tăng nhanh ở các tháng đầu và ổn định ở tháng thứ 4 trở đi.
Đối với chuối cây:
Biến động của chỉ số pH thay đổi ít hơn so với vật liệu rơm từ 2,48
trong tháng 1 đến 4,02 vào tháng thứ 5.
Hình 3. Biến đổi của pH nước theo thời gian thử nghiệm với vật liệu
chuối cây sau thu hoạch quả
Hàm lượng 10%, 15% và 20% có các trị số biến động trong khoảng
3,15 đến dưới 4 và khá gần nhau, nhưng các trị số này có sự khác biệt về
thống kê (F05= 26,83; P = 0,0002). Mặt khác, các kết quả theo dõi về trị số
pH của các hàm lượng thí nghiệm 10%, 15% và 20% đều khác biệt so với chỉ
số pH ở nghiệm thức đối chứng. Như vậy, ở các hàm lượng thí nghiệm đều có
khả năng làm tăng pH cho nước nhiễm phèn. Tuy nhiên, nên chọn hàm lượng
20% để đẩy nhanh tốc độ cải thiện môi trường pH nước.
Đối với vật liệu là than bùn:
Bảng 4 và Hình 4 cho thấy , sau 5 tháng theo dõi thì biến động của chỉ
số pH thay đổi từ 2,48 trong tháng 1 đến 3,56 trong tháng 5 và gần như giữ ổn
định suốt từ tháng 2 cho đến hết thời gian theo dõi. Qua kết quả nghiên cứu
cho thấy: ở hàm lượng 10% và 15% có các trị số biến động giống nhau,
7


đường biểu diễn 2 hàm lượng này gần như trùng nhau từ tháng 1 đến tháng
thứ 5.
Hàm lượng 5% cũng biến động ổn định trong thời gian thí nghiệm,
nhưng có trị số pH thấp hơn so với hàm lượng 10% và 15%. Các trị số này có
sự khác biện về thống kê (F05= 8,09; P = 0,0098).
Các trị số pH của các hàm lượng thí nghiệm 5%, 10% và 15% đều khác
biệt so với chỉ số pH đối chứng.
Kết quả này cho thấy (i) Có thể sử dụng hàm lượng 10% than bùn để
làm tăng pH cho nước mà không cần sử dụng hàm lượng cao hơn (15%) vẫn

có kết quả; (ii) chiều hướng biến động của pH tăng nhanh ở các tháng đầu và
ổn định ở các tháng tiếp theo.
d. Đánh giá mức độ cải thiện môi trường nước nhiễm phèn thông
qua các chỉ số hóa môi trường
Biến đổi pH theo thời gian

Mức độ cải thiện môi trường

4

nước

3.5
3
pH

Hình 4. Biến đổi của pH
nước theo thời gian thử nghiệm với
vật liệu Than bùn

2.5

T5

2

T10

1.5


T15
ĐC

1
0.5
0
0

1

2

3

4

5

6

Tháng

nhiễm phèn được dựa trên đo đạc và theo dõi các chỉ số môi trường
nước cơ bản, đó là các chỉ tiêu: pH, Fe2+, Fe3+, Al3+, độ mặn, SO42-, DO , H2S
đạt được; theo tiêu chuẩn Việt Nam về nước phục vụ nuôi cá đồng nước ngọt.
Bảng 4. Đánh giá chung về mức độ cải thiện môi trường nước của
các loại vật liệu thí nghiệm.
T
T


Chỉ số đánh
giá

1
2
3
4
5
6
7

pH
BOD5(mg/l)
COD(mg/l)
SO42-(mg/l)
DO(mg/l)
Fe2+(mg/l)
Fe3+(mg/l)

Tên vật liệu
Mức
T10%
độ
3,98
+1,4
4,0
Đ
19
Đ
888

-2,6
7,15
Đ
7,49
-2,0
98,10
-2,9

C20%
4,62
6,0
20
806
7,32
6,16
70,50
8

Mức
độ
+1,6
Đ
Đ
-2,9
Đ
-2,5
-2,5

Mức
R15%

độ
4,55
+1,6
11,3
Đ
39
K
815
-2,8
6,85
Đ
9,97
-1,5
77,90 -1,5

TCVN
Chỉ số
tới hạn
5,5
25
35
250
2

Kí hiệu
6773:20
5942-95
5942-95
33-85
6773-20



8
9
10

Độ mặn(‰)
H2S(mg/l)
Al3+(mg/l)

Ghi chú:

1,4
0,02
63,0

Đ
K
-2,7

Đ
K
- 5,1

1,6
0,03
45,6

(+) Mức độ tăng,


1,6
0,03
65,4

Đ
K
-3,6

0,01

TT01

(-) Mức độ giảm,
TT01/2000-TT-BTS.
Kết quả bảng 5 cho thấy, kết quả xử lý phèn của các vật liệu thí nghiệm
đều tốt hơn so với đối chứng, cao nhất là C20 với 4 chỉ tiêu đạt, 04 chỉ tiêu
giảm từ 2,5 – 5,1 lần, 01 chỉ tiêu tăng 1,6 lần. Tương tự, nghiệm thức R15
cũng có 3 chỉ tiêu đạt theo tiêu chuẩn Việt Nam, 05 chỉ tiêu giảm từ 1,5 – 3,6
lần, 01 chỉ tiêu tăng 1,6 lần.. Còn lại nghiệm thức T10 cũng đạt 4 chỉ tiêu,
nhưng 4 chỉ tiêu giảm biến động từ 2,0-2,9 lần, 01 chỉ tiêu tăng chỉ ở mức 1,4
lần.
Như vậy, sử dụng chuối cây với hàm lượng 20% thì khả năng giảm
thiểu ô nhiễm phèn tốt hơn so với rơm và than bùn.
e. Đánh giá mức độ cải thiện môi trường nước nhiễm phèn bằng chỉ
thị sinh học
Thả lục bình:
Lục bình được thả trong nước không qua xử lý (đối chứng) héo và chết
sau 1 ngày; (b)Lục bình được thả trong nước qua xử lý than bùn cây chết sau
5 ngày; (c)Lục bình được thả trong nước qua xử lý chuối cây, cây vẫn sống
và sinh trưởng bình thường sau 1 tuần thí nghiệm

Thử nghiệm khả năng sống sót của cá:
Loài cá thử nghiệm: 66 con cá sặt có kích thước 20 x 40 mm được lấy
từ ao cá của gia đình ông Tấn, chia làm hai phần bằng nhau, 33 con cho vào 3
chậu nước đã qua xử lý và 33 con thả vào 3 chậu chứa nước đối chứng, mỗi
công thức lập lại 3 lần, tức là mỗi chậu có 11 con cá được thả.
Môi trường nước: 30 lít nước được lấy từ ao có sử dụng chuối cây hàm
lượng 20% để xử lý (Nhà ông Tuấn + Nhà Ông Bình + Nhà Ông Tấn) và 30
lít nước lấy từ ao đối chứng (Nhà ông Tấn) để đổ vào các chậu để thả cá.

Đối với môi trường đối chứng:
9


Sau 30 phút cá thả trong chậu đối chứng có biểu hiện lờ đờ, ít di
chuyển.
Sau 1 giờ cá ngừng di chuyển và có hiện tượng đóng phèn xung quanh
và bắt đầu nổi bụng và chết.
Sau 2 giờ cá chết hoàn toàn.
Đối với môi trường nước đã qua xử lý cá vẫn sống bình thường sau 24
giờ theo dõi.
Cá sặt được thả trong môi trường nước đã qua xử lý bằng chuối cây
20% sau 24 giờ theo dõi.
Từ kết quả thử nghiệm trên cho thấy, bước đầu môi trường nước qua xử
lý đã được cải thiện, cá sặt đã có khả năng thích nghi và sống được; trong khi
đó, nước lấy từ ao đối chứng thì cá chết hoàn toàn chỉ sau 2 giờ theo dõi. Điều
đó phù hợp với các kết quả phân tích mẫu về các chỉ số môi trường.
3.

Kết luận, kiến nghị


1. Về hàm lượng các loại vật liệu: Sử dụng hàm lượng 15% rơm, 20%
chuối cây và 10% than bùn là thích hợp cho việc làm tăng pH và cải thiện môi
trường nước nhiễm phèn nặng.
2. Về khả năng cải thiện môi trường nước: Sử dụng chuối cây 20% đạt
được 4 chỉ tiêu với 04 chỉ tiêu giảm từ 2,5 – 5,1 lần và 01 chỉ tiêu tăng 1,6
lần. Rơm 15% cũng đạt 3 chỉ tiêu, 05 chỉ tiêu giảm từ 1,5 – 3,6 lần, 01 chỉ
tiêu tăng 1,6 lần. Than bùn 10% cũng đạt 4 chỉ tiêu, nhưng 4 chỉ tiêu giảm ít
hơn 2,0-2,9 lần, 01 chỉ tiêu tăng chỉ ở mức 1,4 lần.
3. Lục bình có thể sống và sinh trưởng tốt ở nghiệm thức C20, nhưng
không tồn tại được ở nghiệm thức T10 và R15.
4.Cá Sặt có thể sống được trong các ao có xử lý bằng vật liệu thí
nghiệm, nhưng không tồn tại ở ao đối chứng quá 2 giờ.

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Bỉnh, Nguyễn Thành Long, Phùng Vượng, 2003. Báo
cáo kết quả điều tra đánh giá trữ lượng, chất lượng và đề xuất hướng bảo vệ,
sử dụng hợp lý nguồn than bùn U Minh, Cà Mau. Sở Công nghiệp Cà Mau Liên đoàn bản đồ địa chất Miền Nam.
2. Nguyễn Ngọc Bình,2001. Đánh giá tiềm năng sản xuất đất Lâm
nghiệp Việt Nam. Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội, 203 trang.
3. Bộ Khoa học - Công nghệ,2000. Chất lượng nước - Chất lượng nước
ngọt bảo vệ đời sống thủy sinh. TCVN 6774.
4. Bộ Khoa học - Công nghệ, 1995. Chất lượng nước-Chất lượng nước
mặt. TCVN 5942
5. Nguyễn Văn Điềm, 1986. Khai thác tiềm năng đất phèn bằng biện
pháp thuỷ lợi. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 174 trang.
6. Phân viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp Miền Nam,1999. Báo
cáo điều tra đánh giá tài nguyên đất tỉnh Cà Mau. 121 trang.

7. Phân viện khảo sát quy hoạch thủy lợi Nam Bộ (phân viện
KSQHTLNB) 1997
8. Phạm Hồng Thái, 2000.Sự biến đổi theo mùa của các đặc trưng hóa
học nước phèn trên đất phèn mặn, sản xuất lúa – tôm ở Bán đảo Cà Mau.
Luận án tiến sĩ nông nghiệp. Bộ Giáo dục & Đào tạo – Bộ Nông nghiệp &
PTNT

11


Stusy on treating capability of severe acidity water in U Minh, Ca
Mau using locally available materials
Hoang Van Thoi (Ph. D.)
Forest Science Institute of South Vietnam

Study on treating capability of severe acidity water using locally
available materials is performed at U Minh I Forestry and fishery Enterprise,
Nguyen Phich commune, U Minh District, Ca Mau Province from 1/2007 to
10/2008. This study aims at selecting an appropriate quantity for each type of
material testing and evaluating level of environmental improvement
after treatment. The materials used are peat, banana trees and rice straw.
The experiment was designed in a Randomized Complete Block with 3
replications. Water samples were collected twice/ month. Changes in the
water environment were monitored through analysisng parameters such as
DO, pH, salinity, SO42-, Fe2 +, Fe3 +, Al + 3, H2S, BOD5, COD and viable
index of hyacinth and Sat fish. Results showed that 15% of rice straw, 20% of
banana and 10% of peat are suitable for increasing pH and improve alum
contaminated water.
Four targets/indexes could be obtained at 20% banana body and all of
them were reduced from 2.5 - 5.1 times. One target increased 1.6 times. Rice

straw at 15% could also satisfy 3 indexes. Five indexes were reduced from 1.5
- 3.6 times. One index has increased 1.6 times. Similarly, treatment with 10%
Peat could also satisfy 4 targets, but the reduction was lesser, ranged from
2.0-2.9
Viện Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ

1

times and one index increased only 1.4 times.
It was observed that Hyacinths could live and grow well in the
treatments using 20% banana body, but died in treatments with 10% Peat and
15% rice straw.

12


Sat fish can live in the treatments using experimented materials, but
died in the control ponds after 2 hours.
Keywords: acid sulphate soil, environment, peat, banana body, rice
straw

13



×