Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
CHU THỊ DƢƠNG
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG ĐẬU TƢƠNG
TẠI HUYỆN BẮC HÀ TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành : Trồng trọt
Mã số : 60 62 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Thái Nguyên, 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
CHU THỊ DƢƠNG
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG ĐẬU TƢƠNG
TẠI HUYỆN BẮC HÀ TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành : Trồng trọt
Mã số : 60 62 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Luân Thị Đẹp
Thái Nguyên, 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận
văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả
Chu Thị Dƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Luân Thị Đẹp, người đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài, cũng như
trong quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo Khoa Sau Đại học; Khoa
Nông học, đặc biệt là các thầy cô trong Khoa Nông học, Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên; các bạn bè, đồng nghiệp, gia đình và người thân đã
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài và hoàn chỉnh luận văn
tốt nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn cán bộ huyện Bắc Hà, các hộ dân ở các
xã trong địa bàn huyện đã giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt các thí
nghiệm tại địa phương.
Thái nguyên, ngày tháng năm 2010
Tác giả
Chu Thị Dƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới từ năm 2005 – 2009 5
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng của một số quốc gia sản xuất
đậu tương trên thế giới năm 2009 6
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam 9
Bảng 1.4. Diện tích, sản lượng đậu tương tại một số địa phương 10
Bảng 1.5. Tình hình sản xuất đậu tương của tỉnh Lào Cai 4 năm gần đây 24
Bảng 2.1. Nguồn gốc giống đậu tương sử dụng làm vật liệu nghiên cứu 28
Bảng 3.1. Đặc điểm thực vật học của các giống đậu tương thí nghiệm 38
Bảng 3.2. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các giống đậu tương thí
nghiệm vụ Thu 2009 và vụ Xuân 2010 tại Bắc Hà 39
Bảng 3.4. Tình hình sâu bệnh hại và khả năng chống đổ các giống đậu tương thí
nghiệm 47
Bảng 3.5. Các yếu tố cấu thành năng suất các giống đậu tương thí nghiệm 50
Bảng 3.6. Năng suất của các giống đậu tương thí nghiệm 53
Bảng 3.7. Kết quả phân tích hàm lượng Protein và Lipit của các giống
đậu tương thí nghiệm vụ Xuân năm 2010 55
Bảng 3.8. Năng suất của các giống đậu tương trong mô hình thử nghiệm vụ
xuân 2010 57
Bảng 3.9. Kết quả đánh giá các giống đậu tương thử nghiệm 58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích, yêu cầu 3
2.1. Mục đích 3
2.2. Yêu cầu 3
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài 4
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 4
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới và Việt Nam 5
1.1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới 5
1.1.2. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam 8
1.2.1. Tình hình nghiên cứu đậu tương trên thế giới 12
1.2.2. Một số phương pháp chọn tạo giống đậu tương có chất lượng hạt cao 17
1.2.3. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương ở Việt Nam 18
1.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Lào Cai 23
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
2.1. Vật liệu nghiên cứu 28
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 28
2.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 29
2.3.1. Nội dung nghiên cứu 29
2.3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 29
2.3.3. Quy trình kỹ thuật 30
2.4. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 31
2.4.1. Các chỉ tiêu về sinh trưởng 31
2.4.2. Đánh giá khả năng chống chịu 32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.4.3. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 33
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36
3.1. Kết quả nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của các giống đậu tương
thí nghiệm 36
3.1.1. Một số đặc điểm thực vật học của các giống đậu tương thí nghiệm 36
3.1.2. Các giai đoạn sinh trưởng phát triển của các giống đậu tương 38
3.1.3. Đặc điểm hình thái của các giống đậu tương thí nghiệm 41
3.1.5. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất các giống đậu tương 49
3.1.5.1. Các yếu tố cấu thành năng suất 49
3.1.6. Năng suất của các giống đậu tương tham gia thí nghiệm 52
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 60
1. Kết luận 60
2. Kiến nghị 60
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập WTO ngành nông nghiệp nước ta đứng trước
những thời cơ và thách thức lớn. Nông nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh với
những nước có nền nông nghiệp phát triển của thế giới và khi rào cản về thuế
không còn giá trị. Thì sự cạnh tranh này càng diễn ra gay gắt. Do vậy tăng
năng suất và sản lượng cây trồng là một việc làm cần thiết của nông nghiệp
nước ta.
Trước năm 1975, khi lương thực chưa đáp ứng đầy đủ thì người dân
quan tâm chủ yếu đến các cây lương thực chính như lúa, ngô, khoai…lúc đó
đậu tương chỉ chiếm một diện tích nhỏ (27.100 ha), năng suất còn rất thấp
(5,09 tạ/ha) (năm 1975). Khi nhu cầu lương thực được thoả mãn thì đậu tương
trở thành một trong những cây trồng mũi nhọn trong chiến lược phát triển
kinh tế của đất nước. Sở dĩ đậu tương quan trọng như vậy là nhờ giá trị của
nó, đậu tương không chỉ được sử dụng như một loại thực phẩm (đậu phụ, sữa
đậu nành, thịt nhân tạo…) mà còn được sử dụng làm thức ăn cho gia súc, sử
dụng trong công nghiệp chế biến bánh kẹo, cây cải tạo đất… Đặc biệt là giá
trị lấy dầu của đậu tương.
Các nhà khoa học cùng với giới kinh tế học đã tính được rằng 1kg
đậu tương chứa các hợp chất dinh dưỡng tương đương với 7,5 lít sữa, hay
2,5kg thịt, hoặc 58 quả trứng - là những sản phẩm từ động vật phải chăm
sóc công phu. Để có được 1kg chất đạm dinh dưỡng từ động vật, cần phải
sản xuất một lượng thành phẩm ít nhất cũng gấp chục lần so với sản phẩm
đậu tương. Hạt đậu tương thành phẩm chứa ít tinh bột, nhưng lại có từ 35-
40% chất đạm anbumin rất giàu dinh dưỡng và 18-22% lượng chất béo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Đây là giống cây trồng cho lượng đạm nhiều nhất trong tất cả các loài thực
vật, vì vậy đậu tương thường được tôn là “thịt thực vật”.
Những tính chất tối ưu khác của đậu tương như hạt đậu thành phẩm có
chứa rất nhiều các chất cần thiết cho con người như kali, magiê, phốtpho và
sắt. So với các thành phẩm dinh dưỡng khác, đậu tương chứa lượng phốtpho
tương đương với sữa bột, hàm lượng sắt cao gấp 10 trong sữa bột và ngang
với ca cao bột. Ngoài ra, đậu tương chứa lượng vitamine thuộc nhóm B gấp 3
lần sữa bột, nhiều hơn 30% so với thịt lợn. Lượng vitamine chứa trong đậu
tương còn vượt cả men ủ làm bánh mì - là nguyên liệu chủ chốt mà người ta
chế ra các loại tân dược cung cấp vitamine hiện nay.
Với giá trị nhiều mặt to lớn của nó nên sản xuất đậu tương trên thế giới
tăng rất nhanh cả về diện tích năng suất và sản lượng. Năm 1960 diện tích
trồng đậu tương trên thế giới là 21 triệu ha thì đến năm 2009 đã tăng lên đạt
98,8 triệu ha, năng suất đạt 22,5 tạ/ha, sản lượng đạt 222,3 triệu tấn (FAO,
2010) [32].
Ở Việt Nam đậu tương cũng được phát triển rất mạnh mẽ cả về diện tích,
năng suất và sản lượng. Trước Cách mạng tháng 8/1945 diện tích trồng đậu
tương còn ít mới đạt 32.000 ha (1944), năng suất thấp 4,1 tạ/ha. Sau khi đất
nước thống nhất (1976) diện tích trồng đậu tương bắt đầu được mở rộng
39.400 ha, năng suất đạt 5,3 tạ/ha. Từ năm 1977 đến năm 1995 diện tích tăng
lên rất nhanh, đến năm 1996 là 110.300 ha, năng suất đạt 11,1 tạ/ha (Ngô Thế
Dân và các cs, 1999)[3]. Năm 2009 nước ta đã trồng được 146,2 ha nghìn đậu
tương với năng suất bình quân thấp 14,6 tạ/ha, sản lượng đạt 213,6 nghìn tấn
(FAO, 2010)[32]. Tuy nhiên năng suất đậu tương của Việt Nam còn rất thấp
so với năng suất trung bình của thế giới, đặc biệt là các tỉnh Miền núi phía
Bắc năng suất đậu tương rất thấp như Lai Châu, Hà Giang, Lào Cai chỉ đạt từ
7,1 - 9 tạ/ha.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Bắc Hà là huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai, tại đây đậu tương đã trở
thành cây trồng không thể thiếu trong công thức luân canh, tăng vụ (đậu
tương Xuân – lúa mùa – cây vụ đông, ngô Xuân - đậu tương Thu) đậu tương
đã góp phần tăng hiệu quả sản xuất trên một đơn vị diện tích. Tuy nhiên sản
xuất đậu tương tại Bắc Hà còn nhiều hạn chế vì chưa có bộ giống đậu tương
thích hợp, công tác giống chưa được chú trọng đúng mức, canh tác chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm, đầu tư thâm canh còn hạn chế, chưa chú ý đến việc áp
dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất. Do đó diện tích, năng
suất và sản lượng đậu tương của huyện chưa đồng đều và không ổn định,
Năm 2008, diện tích trồng đậu tương đạt 679 ha (giảm 81 ha so với năm
2005), năng suất đạt 9 tạ/ha (tăng 2,3 tạ/ha so với năm 2005), sản lượng đạt
611 tấn (tăng 99 tấn so với năm 2005) (Niên giám thống kê tỉnh Lào cai, năm
2009) [13].
Để đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của sản xuất nông nghiệp, làm tăng
năng suất đậu tương trên một đơn vị diện tích, góp phần chuyển dịch cơ cấu
cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa đồng thời đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp, tăng hiệu quả kinh tế cho người dân tỉnh Lào Cai nói chung và trên
toàn huyện Bắc Hà nói riêng, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của một số giống đậu tương, tại
huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai”.
2. Mục đích, yêu cầu
2.1. Mục đích
Xác định được những giống đậu tương có khả năng sinh trưởng, phát triển
tốt, cho năng suất cao, chất lượng tốt để bổ sung vào cơ cấu giống của huyện.
2.2. Yêu cầu
- Đánh giá khả năng sinh trưởng và khả năng chống chịu của các giống
đậu tương thí nghiệm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
- Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống
đậu tương thí nghiệm.
- Xây dựng mô hình thử nghiệm những giống đậu tương có triển vọng
trong vụ Xuân năm 2010 ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Đậu tương được sản xuất với các mục tiêu khác nhau, cho nên công tác
chọn tạo giống cần tập trung vào một số mục tiêu: giống cho năng suất cao
phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, giống có chất lượng hạt tốt
phục vụ xuất khẩu, giống có hàm lượng dầu cao phục vụ chương trình sản
xuất dầu thực vật Điều kiện khí hậu, đất đai của Việt Nam rất thuận lợi cho
cây đậu tương sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là điều kiện
thuận lợi cho sự sinh trưởng, phát triển của các loài sâu, bệnh hại. Bởi vậy,
khi sản xuất cần phải xây dựng, áp dụng các biện pháp canh tác thích hợp cho
từng vùng sinh thái.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Hiện nay, ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Lào
Cai nói riêng, diện tích đất bỏ hoá còn rất nhiều, tập trung chủ yếu ở những
vùng không chủ động nước, đất đồi thấp hoặc ở những vùng này trồng trọt
một số loại cây trồng có giá trị kinh tế thấp, đất ruộng vùng cao chủ yếu là
trồng 1 vụ lúa. Do đó, việc đưa cây trồng cạn nói chung và cây đậu tương nói
riêng vào sản xuất và tăng vụ trên chân ruộng lúa 1 vụ ở các vùng này là rất
cần thiết, để tăng hiệu quả sử dụng đất, góp phần cải tạo đất, chống xói mòn,
thoái hoá đất, nâng cao thu nhập cho nông dân, cải thiện đời sống cộng đồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình sản xuất đậu tƣơng trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới
Đậu tương là cây lấy hạt, cây lấy dầu quan trọng bậc nhất của thế giới
đứng hàng thứ tư sau cây lúa mì, lúa nước và ngô.
Do khả năng thích ứng khá rộng nên ngày nay đậu tương đang được
trồng trên khắp các châu lục và có tầm quan trọng lớn đối với nền kinh tế của
nhiều nước trên thế giới. Vì vậy mà diện tích, năng suất đậu tương không
ngừng được mở rộng và nâng cao.
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất đậu tƣơng trên thế giới
từ năm 2005 – 2009
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
2005
92,5
23,2
214,3
2006
95,2
23,2
218,4
2007
90,0
24,4
219,5
2008
96,2
23,9
230,6
2009
98,8
22,5
222,3
(Nguồn: FAOSTAT, năm 2010 )[32]
Số liệu bảng 1.1 cho thấy diện tích đậu tương trên thế giới tăng liên tục,
Trong 5 năm qua diện tích đậu tương trên thế giới đã tăng 6,3 triệu ha. Năng
suất đậu tương ổn định biến động trong khoảng 22,4 – 24,4 tạ/ha. Do diện tích
đậu tương trên thế giới không ngừng được mở rộng, vì vậy sản lượng đậu
tương trên thế giới không ngừng được tăng lên. Sản lượng đậu tương của toàn
thế giới năm 2009 là 222,3 triệu tấn tăng 8 triệu tấn so với năm 2005.
Các quốc gia trồng nhiều đậu tương trên thế giới là Mỹ, Brazil,
Argentina, Trung Quốc, Ấn Độ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lƣợng của một số quốc gia sản
xuất đậu tƣơng trên thế giới năm 2009
Tên nƣớc
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
Mỹ
30,9
29,57
91,41
Brazil
21,76
26,18
56,96
Argentina
16,76
18,48
30,99
Ấn Độ
9,6
10,64
10,22
Trung Quốc
8,8
16,45
14,50
(Nguồn: FAOSTAT, năm 2010 ) [32]
Số liệu bảng 1.2 cho thấy Mỹ là nước có diện tích và năng suất đậu
tương cao nhất thế giới, năm 2009 diện tích đậu tương của Mỹ là 30,9 triệu
ha, năng suất 29,57 tạ/ha), sản lượng 91,41 triệu tấn. Do đó Mỹ là quốc gia có
sản lượng đậu tương lớn nhất trên thới giới.
Đứng thứ 2 về diện tích trồng đậu tượng là Brazil, năm 2009 diện tích
trồng đậu tương của Brazil 21,76 triệu ha, năng suất 26,18 tạ/ha, sản lượng
56,96 triệu tấn.
Argentina là nước đứng thứ 3 về diện tích trồng đậu tương trên thế giới,
năm 2009 diện tích trồng đậu tương của Argentina là 16,76 triệu ha, năng suất
đạt 18,48 tạ/ha, sản lượng 30,99 triệu tấn.
Năm 2007 Ấn Độ vượt qua Trung Quốc để trở thành nước có diện tích
trồng đậu tương đứng thứ 4 thế giới, tuy nhiên năng suất đậu tương của Ấn
Độ thấp, năm 2009 mới chỉ đạt 10,64 tạ/ha, sản lượng 10,22 triệu tấn. Mặc dù
diện tích trồng đậu tương của Trung Quốc đứng sau Ấn Độ, song do năng suất
đậu tương của Trung Quốc cao hơn của Ấn Độ (Trung Quốc 16,45 tạ/ha, Ấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Độ 10,64 tạ/ha), do đó sản lượng đậu tương của Trung Quốc đạt 14,5 triệu tấn
cao hơn Ấn Độ (10,22 triệu tấn).
Một số yếu tố hạn chế sản xuất đậu tương trên Thế giới
Khi nghiên cứu các yếu tố hạn chế sản xuất đậu tương các nhà khoa
học đã xếp chúng thành 3 nhóm gồm: nhóm yếu tố kinh tế - xã hội, nhóm yếu
tố sinh học, nhóm yếu tố phi sinh học.
Nhóm các yếu tố kinh tế - xã hội, Wiliam M.J., Dillon J. L. (1987) [48]
đã chỉ ra rằng: Yếu tố quan trọng nhất hạn chế sản xuất đậu đỗ là sự thiếu
quan tâm chú ý ưu tiên phát triển cây đậu đỗ kể cả phía nhà nước và nông
dân. Nhiều nơi, con người chủ yếu chú trọng phát triển cây lương thực, coi
cây đậu đỗ là cây trồng phụ. Nông dân nghèo không có cơ hội tiếp cận với
những tiến bộ kỹ thuật. Một số quốc gia có sự thay đổi của các chính sách
quản lý, thương mại.
Nhóm các yếu tố sinh học hạn chế sản xuất đậu tương là vấn đề sâu
bệnh hại, thiếu giống cho năng suất cao thích hợp cho từng vùng sinh thái,
giống có khả năng chống chịu với sâu bệnh và giống phù hợp với từng mục
đích sử dụng. Do cây đậu tương là cây trồng không độc nên nó là đối tượng
của rất nhiều sâu bệnh hại như sâu xanh, sâu đo, sâu ăn lá, côn trùng cánh
cứng , sâu đục quả, bọ xít, rệp Nghiên cứu của Pitaksa và cs (1998) [43] cho
biết: Tổng số quả/ cây, khối lượng hạt giảm dần theo mức tăng của mật độ
rệp, trong khi đó số quả bị hại và số quả không phát triển được có tương quan
thuận chặt chẽ với mật độ rệp (r = 0,86).
Đặc biệt bệnh hại là trong yếu tố hạn chế quan trọng nhất đến năng
suất đậu tương. Theo Mulrooney (1998) [40]: Tại Mỹ bệnh hại đã làm mất
từ 4 - 40% sản lượng đậu tương tùy theo năm và giống. Theo Surin và các cs
(1988) [45]: Trong điều kiện nhiệt đới nóng ẩm bệnh gỉ sắt là bệnh nguy
hiểm và xuất hiện với tỷ lệ cao nhất. Tại Thái Lan bệnh gỉ sắt có thể làm
giảm năng suất từ 10 - 20% (Sangawongse , 1773) [46]. Ở Úc, gỉ sắt là một
bệnh đại dịch xuất hiện ở tất cả các bang trồng đậu tương như Queensland,
New Sougth Wale và có thể làm giảm năng suất và sản lượng tới 60%
(Keogh, 1979) [39]. Sing (1976) [47] cũng cho biết: Tại Ấn Độ vào những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
năm 1970 - 1976 bệnh gỉ sắt đã làm giảm 70% sản lượng đậu tương của Ấn
Độ. Tại Brazil, một vùng sản xuất đậu tương quan trọng của thế giới cũng
xác định bệnh gỉ sắt là yếu tố hạn chế cơ bản đến năng suất của đậu tương
(Chares and Fransisco, 1981) [27].
Nhóm các yếu tố phi sinh học là đất đai, khí hậu đã hạn chế sản xuất
đậu tương trên thế giới. Theo Carangan và các cs (1987) [28], cho rằng: Các
yếu tố khí hậu, điều kiện đất, chế độ mưa là những yếu tố hạn chế năng suất
đậu đỗ ở hầu hết khu vực châu Á. Theo Caswell (1987) [29] cho rằng châu Á
dinh dưỡng đất là nguyên nhân chính gây ra năng suất thấp ở câu đậu đỗ. Đậu
tương là là cây trồng cạn rất mẫn cảm với nước. Theo Villalobos - Rodriguez
và các cs (1985) [48], Garside và các cs (1992) [34] cho rằng: Đậu tương gặp
hạn muộn sau giai đoạn ra hoa làm quả thì năng suất sẽ giảm nghiêm trọng do
hệ số thu hoạch giảm mạnh. Nghiên cứu của Wien và các cs (1979) [50] cho
biết: Năng suất hạt có thể bị giảm từ 9 - 37% ở các giống đậu tương khi gặp
hạn ở giai đoạn bắt đầu ra hoa trong điều kiện gieo trồng ngoài đồng ruộng.
1.1.2. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam
Ở Việt Nam cây đậu tương được biết đến từ rất sớm. Từ thế kỷ XVI, đậu
tương đã được trồng ở khu vực Bắc Bộ nước ta. Đến nay cây đậu tương giữ
vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và đời sống kinh tế - xã hội ở
nước ta. Đậu tương cung cấp Protein làm thức ăn cho người và gia súc, làm
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cung cấp dầu thực vật cho đời sống và
phục vụ cho xuất khẩu.
Ở Châu Á, Việt Nam xếp thứ 6 về sản xuất đậu tương sau Trung Quốc,
Ấn Độ, Indonexia, Triều Tiên và Thái Lan.
Trước cách mạng tháng tám, diện tích đậu tương chỉ đạt 32.000 ha, năng
suất thấp (4,1 tạ/ha) chủ yếu là dùng giống địa phương, sản xuất nhỏ lẻ, theo
hướng quảng canh.
Sau cách mạng tháng tám năm 1945 sản xuất đậu tương của nước ta tăng
nhanh về cả diện tích và năng suất, diện tích trồng đậu tượng của cả nước lúc
đó là 39.954 ha, năng suất 5,2 tạ/ha. Trong những năm gần đây, cây đậu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
tương đã phát triển mạnh tăng về cả diện tích và năng suất. Tình hình sản xuất
đậu tương trong nước mấy năm gần đây được trình bày trong bảng 1.3.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất đậu tƣơng ở Việt Nam
từ năm 2005 – 2009
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
2005
204,1
14,3
292,7
2006
185,6
13,9
258,2
2007
187,4
14,7
260,5
2008
191,5
14,0
268,1
2009
146,2
14,6
213,6
(Nguồn: FAOSTAT, năm 2010) [32]
Số liệu bảng 1.3 cho thấy 5 năm qua diện tích đậu tương của nước ta
không ổn định và có xu hướng giảm, diện tích năm 2009 là 146,2 nghìn ha
giảm so với năm 2005 là 57,9 nghìn ha, năng suất biến động từ 13,9 – 14,7
tạ/ha, sản lượng đậu tương giảm 79,1 nghìn tấn. Diện tích, năng suất đậu
tương của nước ta vẫn thấp hơn nhiều so với bình quân trên thế giới.
Đậu tương ở Việt Nam được trồng tập trung tại một số tỉnh như Hà Tây,
Hà Giang, Cao Bằng, Đắc Nông Trong đó địa phương trồng nhiều nhất là
Hà Tây với 32.600 ha sản lượng đạt 51,7 nghìn tấn, tiếp đến Hà Giang với
18.200 ha, Đắc Nông là 14.800 ha, Đắc Lắc là 9.900 ha, Sơn La 9.200 ha,
Điện Biên 9.100 ha.
Về năng suất An Giang là tỉnh dẫn đầu năng suất, năm 2008 năng suất đậu
tương của An Giang là 28 tạ/ha, tiếp đến là Đồng Tháp 22 tạ/ha, Đắc Nông 19,8
tạ/ha, Thái Bình 19,2 tạ/ha. Năng suất đậu tương của các tỉnh miền núi phía đạt
thấp như: Cao Bằng 7,8 tạ/ha, Lai Châu 8,6 tạ/ha, Lào Cai và Hà Giang 9,5
tạ/ha Tình hình sản xuất đậu tương một số tỉnh được trình bày ở bảng 1.4.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Bảng 1.4. Diện tích, sản lƣợng đậu tƣơng tại một số địa phƣơng
Năm
2004
2005
2006
2007
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(Tạ/ha )
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(Tạ/ha )
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(Tạ/ha )
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(Tạ/ha )
Vĩnh Phúc
6,2
15,6
8,5
15,6
6,9
14,8
4,3
14,4
Bắc Ninh
1,9
16,3
1,7
16,5
1,8
16,1
2,0
15,5
Hà Tây
19,0
15,2
27,5
15,5
31,8
15,0
32,6
15,9
Hưng Yên
5,5
19,1
7,3
17,9
4,7
17,9
4,4
17,7
Thái Bình
6,0
19,8
6,2
19,0
6,7
18,5
7,2
19,2
Hà Nam
3,5
17,7
6,2
16,6
7,7
14,4
8,2
14,6
Nam Định
2,8
16,4
3,2
14,1
3,6
14,7
3,2
15,6
Hà Giang
14,9
8,7
15,7
9,4
15,9
8,9
18,2
9,5
Cao Bằng
7,3
7,1
7,6
7,6
6,4
6,9
6,3
7,8
Bắc Cạn
2,5
12,4
2,6
12,3
2,3
12,6
2,1
13,3
T,Quang
2,1
13,8
2,0
14,0
2,2
14,5
2,6
15,4
Lào Cai
5,2
8,1
5,3
8,9
5,6
8,4
5,7
9,5
Thái Nguyên
3,6
11,9
3,4
12,6
2,9
12,4
2,3
13,0
Lạng Sơn
2,3
12,6
2,4
14,2
2,1
9,5
2,0
15,5
Bắc Giang
4,8
15,0
4,2
14,5
3,1
14,5
2,3
14,3
Điện Biên
6,1
11,1
8,6
11,7
8,9
12,0
9,1
12,1
Lai Châu
1,5
7,3
1,7
7,6
2,0
8,5
2,1
8,6
Sơn La
13,2
11,2
12,1
11,2
9,2
12,1
9,2
12,4
Hoà Bình
2,2
14,1
2,2
14,5
2,3
14,8
2,7
15,6
Thanh Hoá
6,2
13,9
5,6
13,0
4,9
13,5
5,3
14,3
Đắk Lắk
11,7
8,8
11,5
11,3
9,6
10,8
9,9
10,3
Đắk Nông
14,0
10,6
15,1
19,2
13,7
19,5
14,8
19,8
Đồng Nai
5,2
8,5
4,5
10,7
3,2
10,0
2,7
11,1
Đồng Tháp
10,4
20,7
11,5
21,0
6,7
20,9
7,3
22,7
Nguồn: Tổng cục thống kê http://www,gso,gov,vn tháng 12/2008 [17]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Một số yếu tố hạn chế sản xuất đậu tương ở việt Nam
Cũng như các nước sản xuất tương tương khác trên thế giới, các
yếu tố hạn chế đến sản xuất đậu tương ở Việt Nam bao gồm 3 nhóm yếu
tố là: Nhóm yếu tố kinh tế - xã hội, nhóm yếu tố sinh học và nhóm yếu tố
phi sinh học.
Theo Trần Văn Lài (1991) [9] yếu tố kinh tế - xã hội hạn chế sản xuất
đậu đỗ là thiếu sự quan tâm của nhà nước, lãnh đạo các địa phương. Đặc biệt
là nông dân có thu nhập thấp nên không có khả năng mua giống tốt, phân bón
vật tư đủ để đầu tư cho trồng đậu tương. Kết quả cho thấy 70 - 80% số hộ
nông dân Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An thiếu vốn đầu tư thâm canh, trong
khi nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ tích cực (Nguyễn Văn Viết và cs,
2006) [21]. Giá bán sản phẩm không ổn định cũng là nguyên nhân cản trở sản
xuất đậu tương. Hệ thống cung ứng giống còn bất cập. Vấn đề thủy lợi hóa
trong sản xuất đậu đỗ chưa được đáp ứng. Do vậy tình trạng thiếu nước vào
thời điểm gieo trồng nhưng lại thừa nước vào thời kỳ thu hoạch đã làm giảm
năng suất và chất lượng sản phẩm.
Do quan niệm của nông dân chưa thực sự coi trọng cây đậu tương là
cây trồng chính nên ở nhiều nơi, nhiều vùng không chú ý đến việc lựa chọn
đất trồng và không đầu tư đúng mức cho chúng. Do vậy chưa khai thác hết
tiềm năng của giống.
Nhóm yếu tố sinh học hạn chế sản xuất đậu tương ở Việt Nam là sâu
bệnh hại và thiếu giống cho năng suất cao thích ứng hợp với từng vùng sinh
thái. Theo Trần Đình Long (1991) [11]: Một số cơ quan nghiên cứu gần đây
giới thiệu một số giống đậu tương mới đề nghị đưa ra sản xuất nhưng thực tế
số giống được nhân dân chấp nhận đưa ra sản xuất còn ít, chủ yếu người dân
vẫn sử dụng giống cũ là chính.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Đậu tương là cây trồng bị nhiều loài sâu bệnh hại. Theo Nguyễn Danh
Đông, 1983 [4] tại Việt Nam qua nghiên cứu đã phát hiện trên 70 loại sâu hại
thuộc 34 họ, 8 bộ và 17 loại bệnh, trong đó 12 - 13 loại sâu và 4 - 5 loại bệnh
hại phổ biến ở nhiều vùng. theo Nguyễn Văn Viết và các cs, 2006 [21]: Đối
với đậu tương, các loài sâu hại nguy hiểm nhất là dòi đục thân, sâu xanh, sâu
dục quả, bọ xít, bọ nhảy, bọ trĩ, nhện.
Các loại bệnh hại đậu tương phổ biến là lở cổ rễ, gỉ sắt, sương mai,
đốm chấm vi khuẩn, virus hại lá. Trong các bệnh hại trên ở miền Bắc bệnh gỉ
sắt thường gây hại nặng trong vụ xuân. Theo Ngô thế Dân và các cs, 1999 [3]:
Bệnh gỉ sắt đã được phát hiện, có mặt và gây thiệt hại trên tất cả các vùng
trồng đậu tương trong cả nước. Các tác giả cho biết bệnh gây hại nặng làm
năng suất đậu tương giảm 40 - 50%.
Nhóm các yếu tố phi sinh học ảnh hưởng đến sản xuất đậu tương ở
nước ta chủ yếu là đất đai và điều kiện thời tiết bất thuận (Nguyễn Văn Viết
và các cs, 2006 [21].
1.2. Tình hình nghiên cứu và chọn tạo giống đậu tương trên thế giới và
Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu đậu tương trên thế giới
Nhận thức được tầm quan trong của đậu tương, cũng như nhu cầu sử
dụng các sản phẩm được chế biến từ đậu tương ngày một gia tăng mà nhiều
quốc gia trên thế giới đã đầu tư lớn cho việc chọn giống, thâm canh tăng năng
suất, sản lượng và diện tích cây đậu tương.
Nghiên cứu và đánh giá vật liệu khởi đầu là bước rất quan trọng trong
công tác chọn tạo giống. Đã có rất nhiều thành tựu trong công tác nghiên cứu
của các nhà khoa học về đánh giá vật liệu khởi đầu.
Nguồn gene đậu tương hiện nay được lưu giữ chủ yếu ở 15 nước trên thế
giới nhưng chủ yếu là các nước: Mỹ, Trung Quốc, Australia, Pháp, Nigienia,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Ấn Độ, Indonexia, Nhật Bản, Triều Tiên, Nam Phi, Thụy Điển, Thái Lan và
Liên Xô (cũ) với tổng số 45.038 giống (Trần Đình Long, 1991) [11].
Tại trung tâm phát triển rau màu Châu Á (AVRDC) đã thiết lập hệ thống
đánh giá (Soybean - Evaluation trial - Aset) giai đoạn 1 phân phát được trên
20.000 giống đến 546 nhà khoa học của 164 quốc gia nhiệt đới và á nhiệt đới,
Kết quả đánh giá giống đậu tương của Aset đã đưa vào mạng lưới sản xuất
được 21 giống ở trên 10 quốc gia (Nguyễn Thị Út, 1994) [20]. Ví dụ AK03
bắt nguồn từ giống đậu tương nhập nội G2261 được đưa vào sản xuất năm
1998 ở Việt Nam, giống Kaosung N3 năm 1991 tại Đài Loan, giống KPS 292
năm 1992 tại Thái Lan [7].
Hai nước Mỹ và Canada rất chú trọng đến chọn tạo giống đậu tương.
Trong đó, Mỹ luôn là nước đứng đầu thế giới về diện tích và sản lượng đậu
tương nhờ các phương pháp chọn lọc, nhập nội, gây đột biến và chuyển gen.
Hiện nay, đã đưa vào sản xuất trên 100 dòng, giống đậu tương và lai tạo được
một số giống có khả năng chống chịu tốt với bệnh Phytopthora và thích ứng
rộng như: Amsoy71, Lec 36, Clark 63, Herkey 63 Hướng chủ yếu trong
công tác nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ là sử dụng các tổ hợp lai phức
tạp, cũng như nhập nội để làm phong phú thêm quỹ gene chọn lọc, chọn tạo ra
những giống có khả năng thâm canh cao, phản ứng yếu với quang chu kỳ,
chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh bất thuận, có hàm lượng protein cao
(Johnson H,W, and Bernard R,L, 1967)[36].
Công tác chọn giống đậu tương ở Brazil cũng rất được coi trọng. Từ
1976 đến nay Trung tâm nghiên cứu quốc gia đã chọn từ 1.500 dòng đậu
tương từ những giống thích hợp. Nhiều giống tốt đã được tạo ra như: DoKo,
Numbaira, Cristalina… Thời gian tới Brazil chọn giống đậu tương theo
hướng thời gian sinh trưởng 107-120 ngày, có năng suất cao, chất lượng tốt,
kháng sâu bệnh (FAO, 2003) [33].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Ở Thái Lan, sự phối hợp giữa hai Trung tâm MOAC và CGPRT nhằm
cải tiến giống có năng suất cao, chống chịu tốt với một số sâu bệnh hại chính
như gỉ sắt, sương mai, vi khuẩn đồng thời có khả năng chịu được đất mặn,
chịu được hạn hán và ngày ngắn (Judy W,H and Jackobs J,A,, 1979)[37].
Năm 1961, Viện khoa học Nông nghiệp Đài Loan đã bắt đầu tiến hành
chương trình chọn tạo giống và đã đưa vào sản xuất giống Kaosing3, Tainung
3, Tainung 4 Các giống được xử lý Nơtron và tia X cho các giống đột biến
Tainung, Tainung1 và Tainung2 có năng suất cao hơn giống khởi đầu và vỏ
quả không bị nứt. Các giống này đã được sử dụng làm nguồn gene kháng
bệnh trong các chương trình lai tạo giống ở các cơ sở khác nhau như Trạm khí
tượng Marjo (Thái Lan), Trường đại học Philippin (Vũ Tuyên Hoàng và cs,
1995)[7].
Năm 1985, Gings và Chandhary đã xác định được 6 giống có năng suất
cao, ổn định là HM93, PK73-92, PK73-94, PK321, Bragg và SH1 (Dickson
và cs, 1987) [30].
Johnson và cộng sự (1967) [36] xác định giữa năng suất và thời
gian sinh trưởng, khối lượng hạt và tính chống tách hạt có tương quan di
truyền chặt.
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa tương quan di truyền và kiểu hình
của 7 tính trạng trong 3 quần thể đậu tương ở thế hệ F2, Weber và Moorthey
(1952) kết luận rằng: năng suất hạt có tương quan thuận với ngày chín, chiều
cao cây và khối lượng hạt.
Mối tương quan giữa năng suất hạt với số quả trên cây, chiều cao cây,
thời gian ra hoa, đặc biệt là giai đoạn 50% cây ra hoa và thời gian sinh trưởng
đã được Kaw và Menon (1972) khẳng định là mối tương quan chặt [38].
Asadai and Darman, A,Arsyad, 1992 [22], nghiên cứu về tương quan
giữa các đặc tính sinh trưởng, chiều cao cây có tương quan thuận với năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
suất (r = 0,665 và 0,662), thời gian ra hoa và thời gian sinh trưởng có hệ số
tương quan r = 0,500, giữa thời gian ra hoa với chiều cao cây r = 0,602, số
lượng nốt sần với chiều cao cây r = 0,660.
Theo Plazinic (1987) [42] các yếu tố di truyền và sinh thái có ảnh hưởng
rõ rệt đến chiều cao cây, độ cao đóng quả thấp, số đốt hữu hiệu, chiều dài đốt,
số quả và số hạt trên cây.
Một trong những hướng cơ bản của việc nghiên cứu sự biến dị và di
truyền ở đậu tương là xác định hệ số di truyền của các tính trạng khác nhau.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã dùng các phương pháp xác định hệ số di
truyền khác nhau, các đối tương nghiên cứu khác nhau và thực hiện ở các
điều kiện gieo trồng khác nhau nên kết quả thu được không đồng nhất.
Khi nghiên cứu về hệ số di truyền Paz (1974) [41] cho rằng năng suất
hạt có hệ số di truyền thấp nhất và kích thước hạt có hệ số di truyền cao nhất.
Còn Dencescu (1983) [31] lại cho rằng cả hai tính trạng về năng suất và kích
thước hạt đều có hệ số di truyền thấp nhất.
Theo Alams và cộng tác viên (1983) [23] đã xác định được hệ số di
truyền có giá trị cao đối với hạt/quả và thời gian sinh trưởng.
Đánh giá hệ số tương quan di truyền và kiểu hình trên cây đậu tương của
các dạng kết hợp thể của bảy tính trạng ở ba quần thể đậu tương thế hệ F2 cho
thấy, năng suất hạt có mối tương quan thuận chắc chắn với thời gian sinh
trưởng, khối lượng hạt và khi nghiên cứu hệ số tương quan kiểu hình và di
truyền của mười một tính trạng số lượng ở ba tổ hợp lai đậu tương cũng cho
thấy, năng suất hạt có mối quan hệ chắc chắn với thời gian sinh trưởng, số
cành/cây, số quả và số hạt/cây, số hạt/quả và hàm lượng dầu trong hạt; số
đốt/cây có hệ số tương quan di truyền thuận với năng suất hạt. Ở kết quả
nghiên cứu khác, năng suất có tương quan thuận với số quả/cây (r =0,72),
khối lượng 1000 hạt (r = 0,255) và thời gian sinh trưởng (r = 0,16)
(Banadjanegra và Umar (1988) [25].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Sản xuất đậu tương chiếm một vị trí quan trọng ở châu Á. Tại đây đã có
nhiều cơ quan nghiên cứu về đậu đỗ như Trung tâm nghiên cứu và phát triển
rau màu châu Á (AVRDC), ICRISAT, TARI, Viện Nông nghiệp nhiệt đới
quốc tế IITA, Trung tâm nghiên cứu và phát triển rau màu châu Á đã chọn tạo
ra các giống đậu tương có tiềm năng năng suất cao trên 70 tạ/ha như G2120,
trong đó giống có năng suất cao nhất thế giới trong những năm 1970 là
Miyagishiroma (Nhật Bản) với năng suất đạt 78 tạ/ha (Paz, 1974) [41].
Nước đứng thứ nhất về sản xuất đậu tương tại châu Á là Trung Quốc,
Trung Quốc đã tạo ra hàng loạt các giống mới có năng suất cao, chất lượng và
tính chống chịu với điều kiện bất thuận vượt trội, điển hình là các giống:
CN001, CN002, YAT12, HTF18, có năng suất đạt 34 - 42 tạ/ha trên diện rộng
(Dickson và cs, 1987)[30].
Theo Bản tin Nông nghiệp Giống công nghệ cao của Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Trung Quốc đã chọn tạo ra giống đậu tương Thẩm Tiên
số 1 giàu Protein, ăn ngon, thời gian sinh trưởng 65 ngày, năng suất quả tươi
đạt 15 tấn/ha, tỷ lệ quả 3 hạt đạt 70%. Đây là hướng chọn tạo mới, theo
hướng ăn tươi, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng [1].
Một trong những nước ở châu Á cũng rất chú trọng đến phát triển đậu
tương là Ấn Độ, Ấn Độ đã bắt đầu khảo nghiệm các giống địa phương và
nhập nội tại trường Đại học tổng hợp Pathaga năm 1963, đến năm 1967 thành
lập chương trình đậu tương toàn Ấn Độ với nhiệm vụ lai tạo và thử nghiệm
giống mới, họ đã tạo ra được một số giống có triển vọng như Birsasoil, DS
74-24-2, D 373-16. Tổ chức AICRPS (The All Indaisia Cusordrated Research
Proseet on Soybean) và NRCS (Nationad Research Center for Soybean) đã
tập trung nghiên cứu về gen Otype, đã phát hiện ra 50 tính trạng phù hợp với
khí hậu nhiệt đới, đồng thời phát triển những giống chống chịu cao với bệnh
kháng Virut (Brown, 1960) [26] (Baihaki và cs, 1976)[24].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Xác định mức độ biến dị và di truyền của các tính trạng số lượng là cơ sở
đầu tiên để đánh giá giá trị của nguồn gene và xây dựng chương trình chọn
giống thích hợp. Khi nghiên cứu sự biến dị di truyền là do môi trường của hai
quần thể các dòng đậu tương ở nhiều nơi và qua nhiều năm, Johson và cộng
tác viên (1995) [35] cho thấy, phần lớn biến dị của năng suất ở quần thể II ở
hai trong ba môi trường nghiên cứu thì phương sai di truyền được xác định là
cao hơn so với phương sai môi trường.
1.2.2. Một số phương pháp chọn tạo giống đậu tương có chất lượng hạt cao
Đậu tương, vốn là cây trồng tự thụ nên phương pháp tạo giống và chọn
lọc giống cũng giống như những cây tự thụ khác, song cũng có nét đặc thù
riêng của nó. Để tạo ra được giống đậu tương có chất lượng hạt cao, người ta
thường dùng hai phương pháp chính là gây đột biến và lai tạo. Tạo giống
bằng phương pháp gây đột biến thường cho kết quả mong muốn nhanh, rút
ngắn thời gian lai tạo. Nhưng có nhược điểm là thường tốn kém, các thế hệ
sau biến dị ngày càng lớn hơn, vì vậy chất lượng giống bị giảm dần.
Lai hữu tính để tạo giống có chất lượng cao, người ta thường dùng
phương pháp lai lại. Con lai trở lại với bố mẹ đã thích ứng để trở lại các gene
mong muốn từ gene nhập, mức độ trở lại phụ thuộc vào độ khác biệt giữa hai
bố mẹ. Phương pháp này cho ra giống ổn định, lâu bền nhưng đòi hỏi nhiều
thời gian lai tạo.
Trong những năm gần đây bằng gây đột biến mà Trung Quốc đã tạo
được một số giống như: giống Hienou N
0
(cũng được sử lý bằng tia gamma)
có hệ rễ tốt, nhiều cành, lóng thân ngắn, khả năng thích ứng rộng, giống
Tiefeng 18 (xử lý bằng tia gamma) có khả năng chịu được phèn cao, chống đổ
tốt, cho năng suất cao, chất lượng tốt.
Bằng việc ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống cây trồng
người ta đã tạo ra được các giống đậu tương vượt trội về năng suất. Hiện nay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
hầu hết các giống đậu tương được trồng ở Mỹ là cây biến đổi gene và khoảng
1/3 sản lượng đậu tương ở Brazil cũng từ các giống biến đổi gene. Giống đậu
tương oleic axit là giống chuyển gene có hàm lượng axit oleic tới 80%, đây là
giống có triển vọng thoả mãn nhu cầu dầu ăn của con người. Các giống này
hiện đang được trồng ở Australia, Canada, Nhật Bản, Mỹ
Công tác nghiên cứu đậu tương trên thế giới hiện nay được tiến hành với
quy mô rộng lớn và nhằm đáp ứng được những mục đích sau:
- Nhập nội sau đó chọn lọc, thử nghiệm tính thích nghi ở các vùng sinh
thái khác nhau.
- Dùng các tác nhân vật lý, hoá học gây đột biến và ứng dụng công nghệ
sinh học hiện đại để tạo ra những giống đậu tương tốt đáp ứng yêu cầu sản
xuất và tiêu dùng.
1.2.3. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương ở Việt Nam
Cây đậu tương được du nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc và được
trồng từ rất lâu đời.
Sau năm 1945, nước ta đã tiến hành xây dựng nhiều trạm, trại nghiên
cứu thí nghiệm về đậu đỗ nói chung và đậu tương nói riêng ở nhiều vùng,
miền trong cả nước như: Định Tường – Thanh Hoá; Mai Nham – Vĩnh Phú;
Thất Khê - Lạng Sơn; Pú Nhung – Lai Châu. Trong đó, trại đậu đỗ Định
Tường – Thanh Hoá vào những năm từ 1957 – 1965, đã tiến hành thí nghiệm
với 52 giống đỗ địa phương và một số giống nhập nội (chủ yếu từ Trung
Quốc) kết quả đã chọn ra được 2 giống tốt đưa ra sản xuất đại trà đó là:
- Giống V70, gốc là giống “Hoa Tuyển” của Trung quốc, thích hợp cho
vụ Xuân Hè ở miền Bắc Việt Nam.
- Giống V74, gốc là giống “Cáp quả địa” của Trung Quốc, thích hợp cho
vụ Đông ở miền Bắc Việt Nam.