Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.47 KB, 105 trang )

Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 1

Lời nói đầu
Đồng Tháp là một tỉnh nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long, cách thành phố Hồ Chí Minh 165 km về phía Tây Nam; có đường
biên giáp Vương quốc Campuchia, có 2 cửa khẩu quốc tế là Thường Phước
và Dinh Bà, hai cửa khẩu phụ (Sở Thượng và Thông Bình), ba đường mòn
(Á Đôn, Bình Phú, Mộc Rá). Hai nhánh sông Cửu Long hiền hòa chảy qua,
hàng năm bồi đắp phù sa cho vùng đất Đồng Tháp bốn mùa cây xanh, trái
ngọt và tạo nên hệ thống giao thông đường thủy thuận lợi. Hai bến cảng
nằm bên bờ sông Tiền giúp vận chuyển hàng hóa thuận tiện với biển Đông
và nước bạn Campuchia. Vốn là một tỉnh nông nghiệp, Đồng Tháp đang
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng khu vực
công nghiệp và dịch vụ. Hoạt động thương mại của Đồng Tháp trong
những năm gần đây đang phát triển mạnh. Những điều kiện phát triển quan
trọng này đã và đang đòi hỏi tỉnh Đồng Tháp phải đẩy nhanh hơn các quá
trình phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn, một mặt, nhằm tăng cường
khai thác lợi thế phát triển, mặt khác, nhằm nâng cao vị thế của Đồng Tháp
không chỉ trong phạm vi vùng Đồng bằng sông Cửu Long mà còn trên
phạm vi cả nước.
Để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn, Đồng
Tháp cần phải chú trọng đến việc phát triển thương mại. Bởi vì, trước hết
thương mại là ngành dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho phát triển các ngành sản
xuất cả trên phương diện cung ứng và tiêu thụ hàng hoá. Thứ hai, phát triển
thương mại là yếu tố quan trọng để Đồng Tháp phát triển các ngành sản
xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
ngày càng tăng của dân cư trên địa bàn và góp phần tạo nên một diện mạo
thị trường văn minh, hiện đại. Thứ ba, phát triển thương mại là điều kiện
quan trọng để tỉnh Đồng Tháp tăng cường các mối quan hệ kinh tế và nâng


cao vị thế của mình trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong nước và
nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong thời gian tới, yêu cầu phát triển thương mại của tỉnh Đồng
Tháp sẽ ngày càng trở nên cấp thiết hơn, quan trọng hơn trong xu thế toàn
cầu hoá và xu thế đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam. Tuy nhiên, thực tế phát triển thương mại của tỉnh cho thấy vẫn còn
nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển, đặc biệt là quy hoạch ở tầm trung
và dài hạn để thực hiện quản lý sự phát triển như vấn đề phân bổ nguồn lực
cho thương mại, vấn đề nâng cao tính phù hợp và hiệu quả của đầu tư phát
triển trong lĩnh vực thương mại,...
Trước những yêu cầu phát triển mới của tỉnh Đồng Tháp, để phát
huy vai trò của ngành Thương mại trong việc tạo giá trị tăng thêm đóng
góp vào tăng trưởng GDP của tỉnh, trong việc tạo thêm nhiều việc làm mới,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong tỉnh; hình thành, mở
rộng thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu cho các sản phẩm có lợi thế, cũng


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 2

như định hướng sản xuất, thích ứng nhanh với những thay đổi của nhu cầu
thị trường; Đặc biệt là hỗ trợ các doanh nghiệp thương mại của tỉnh phát
triển các hệ thống phân phối hàng hoá văn minh, hiện đại đủ sức cạnh tranh
quốc tế khi mở cửa các thị trường hàng hoá và dịch vụ phân phối theo cam
kết gia nhập WTO của nước ta. Đòi hỏi phải xây dựng “Quy hoạch phát
triển ngành thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020”, trên cơ sở phát
huy các lợi thế phát triển, thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
và phù hợp với các mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
trong thời kỳ này.

Việc xây dựng quy hoạch phát triển ngành Thương mại là nhằm cụ
thể hoá một bước quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Trên cơ sở đó, xác định hướng đầu tư, hoạch định các chính sách và giải
pháp nhằm phát huy các tiềm năng sẵn có thúc đẩy phát triển thương mại
phục vụ tốt cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Những căn cứ xây dựng Dự án Quy hoạch
- Dự thảo Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh đến năm 2020.
- Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính
phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH.
- Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 01 năm 2008 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Chính phủ về lập, phê duyệt
và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH.
- Quyết định số 27/2007/QĐ-TTg ngày 15/02/2007 của Thủ tướng
chính phủ phê duyệt Đề án phát triển thương mại trong nước đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020.
- Quyết định 156/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng
chính phủ về phê duyệt Đề án xuất khẩu giai đoạn 2006-2010.
- Công văn số 7441/BCT-TTTN ngày 22/8/2008 của Bộ Công
Thương về việc lập quy hoạch mạng lưới cơ sở bán buôn, bán lẻ tại địa
phương.
- Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp.
- Nghị Quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành
Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Công văn số 41/UBND-TH ngày 19/9/2006 của UBND tỉnh Đồng
Tháp về việc lập quy hoạch phát triển đến năm 2020.
- Quyết định số 360/QĐ-UBND-HC ngày 15/3/2007 của UBND tỉnh
Đồng Tháp về việc phê duyệt Đề cương và Dự toán dự án Quy hoạch phát
triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020.
- Quy hoạch phát triển mạng lưới Chợ và Siêu thị Tỉnh Đồng Tháp
đã được UBND Tỉnh phê duyệt.



Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 3

- Các quy hoạch phát triển thương mại và kết cấu hạ tầng thương mại
của cả nước.
- Hệ thống các số liệu thống kê, các kết quả điều tra cơ bản, khảo sát
và hệ thống các số liệu, tài liệu liên quan.
Mục tiêu nghiên cứu của Dự án:
- Phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế theo xu thế hội nhập tác
động đến ngành Thương mại.
- Phân tích đánh giá các nguồn lực.
- Phân tích thực trạng phát triển ngành Thương mại những năm qua
để xác định các quan điểm, mục tiêu phát triển, các bước đi thích hợp, các
dự án quan trọng của ngành Thương mại trong những năm tới một cách
khoa học, tiên tiến và mang tính khả thi cao.
- Quy hoạch mạng lưới cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển thương mại
của tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020.
- Đề xuất các chính sách và giải pháp phát triển thị trường, phát triển
thương mại, chính sách đầu tư, chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính
sách phát triển khoa học công nghệ và các chính sách hợp tác với quốc tế,
khu vực và các địa phương khác và thực hiện quy hoạch phát triển thương
mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020.
Phạm vi nghiên cứu của dự án:
- Nghiên cứu các hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
được đặt trong không gian kinh tế, thương mại của vùng Đồng bằng sông
Cửu Long, cũng như trong cả nước và với nước ngoài.
- Phạm vi về thời gian là nghiên cứu thực trạng phát triển thương mại

của tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn 2001 – 2007 và xây dựng quy hoạch
phát triển đến năm 2020.
Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: Được sử dụng trong phần đánh giá nguồn
lực phát triển và phân tích hiện trạng. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố tác động đến phát triển thương mại. Dựa vào các số liệu thống kê
để phân tích, rút ra các quy luật phát triển.
- Phương pháp so sánh: Các chỉ tiêu đánh giá cần được so sánh, đối
sánh với sự phát triển của ngành Thương mại của cả nước, của vùng trong
các thời kỳ khác nhau.
- Phương pháp lựa chọn phương án tối ưu: Sử dụng các phương pháp
định lượng, chuyên gia để lựa chọn phương án tối ưu.
- Phương pháp điều tra, khảo sát: Điều tra khảo sát, trao đổi với cán
bộ lãnh đạo của các Huyện, Thị, Thành phố trên địa bàn tỉnh.


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 4

Kết cấu dự án: Bao gồm 4 phần (ngoài phần mở đầu và kết luận)
- Phần thứ nhất: Đánh giá các điều kiện, yếu tố phát triển ngành
thương mại tỉnh Đồng Tháp.
- Phần thứ hai: Hiện trạng phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng
Tháp.
- Phần thứ ba: Luận chứng phương hướng phát triển ngành
Thương mại tỉnh Đồng Tháp.
- Phần thứ tư: Các giải pháp thực hiện quy hoạch.



Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 5

Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ CÁC ĐIỀU KIỆN, YẾU TỐ PHÁT TRIỂN
NGÀNH THƯƠNG MẠI TỈNH ĐỒNG THÁP
1. Các nhân tố tác động trực tiếp đến phát triển ngành Thương
mại tỉnh Đống Tháp.
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.
Đồng Tháp là một tỉnh của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ở đầu
nguồn sông Tiền, phía Bắc giáp tỉnh PreyVeng - Campuchia, phía Nam
giáp tỉnh Vĩnh Long và Cần Thơ, phía Tây giáp tỉnh An Giang, phía Đông
giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Đồng Tháp có toạ độ địa lý từ 10 o07’
đến 10o58’ độ vĩ Bắc và từ 105o12’ đến 105o58’ độ kinh Đông.
Tổng diện tích tự nhiên 3.374 km 2 (2/3 diện tích tự nhiên thuộc khu
vực Đồng Tháp Mười), với 9 huyện 2 thị xã (Sa Đéc, Hồng Ngự) và 1
thành phố (Cao Lãnh), trung tâm tỉnh lỵ đặt tại TP Cao Lãnh. Số đơn vị
hành chính của Tỉnh bao gồm 119 xã, 26 phường, thị trấn.
Đồng Tháp có một phần đường biên giới quốc gia giáp với tỉnh
PreyVeng - Campuchia, dài 48,7 km, chạy dài từ huyện Hồng Ngự, TX
Hồng Ngự đến huyện Tân Hồng, trên tuyến biên giới có 7 cửa khẩu, trong
đó có 02 cửa khẩu Quốc tế (Thường Phước, Dinh Bà). Hệ thống đường
quốc lộ 30, 80, 54 cùng với quốc lộ N1, N2 gắn kết Đồng Tháp với thành
phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong khu vực.
- Điều kiện địa hình:
Địa hình Đồng Tháp khá bằng phẳng theo xu hướng thấp dần từ
Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông; được chia thành 2 vùng lớn: vùng
phía Bắc sông Tiền (có diện tích tự nhiên 250.731 ha, thuộc khu vực Đồng
Tháp Mười, địa hình tương đối bằng phẳng, hướng dốc Tây Bắc – Đông

Nam); vùng phía Nam sông Tiền (có diện tích tự nhiên 73.074 ha, nằm kẹp
giữa sông Tiền và sông Hậu, địa hình có dạng lòng máng, hướng dốc từ hai
bên sông vào giữa). Hệ thống kênh rạch chằng chịt, đất đai thường xuyên
được phù sa bồi đắp, nguồn nước ngọt quanh năm, không bị nhiễm mặn.
- Điều kiện khí hậu, thủy văn:
Đồng Tháp nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, đồng nhất trên địa
giới toàn tỉnh, có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô
từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 82,5%, số giờ
nắng trung bình 6,8 giờ/ngày. Lượng mưa trung bình từ 1.174 – 1.518 mm,
tập trung vào mùa mưa, chiếm 90 – 95% lượng mưa cả năm. Đặc điểm khí
hậu này tương đối thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Nhiệt độ trung
bình 27oC, cao nhất 34,3oC, thấp nhất 21,8oC. Thủy văn chịu tác động bởi 3


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 6

yếu tố: nước lũ từ thượng nguồn sông Mê Kông, mưa nội đồng và thủy
triều biển Đông. Chế độ thủy văn chia làm 2 mùa: mùa kiệt từ tháng 12 đến
tháng 6 năm sau, mùa lũ từ tháng 7 đến tháng 11.
- Tài nguyên đất:
Tổng diện tích đất tự nhiên là 337.407 ha, trong đó nhóm đất phù sa
chiếm khoảng 59%, nhóm đất phèn chiếm khoảng 26%, còn lại là nhóm đất
xám và đất cát. Hiện trạng sử dụng đất đến năm 2005 cụ thể như sau: đất
nông nghiệp 276.206 ha chiếm 82%, trong đó 94% là diện tích canh tác
nông nghiệp, đất lâm nghiệp 5% và 1% là đất có mặt nước nuôi trồng thủy
sản; đất phi nông nghiệp chiếm 61.142 ha (18% diện tích đất tự nhiên),
trong đó 23% là diện tích đất ở, 34% là diện tích đất chuyên dùng và 43%
là sông rạch. Trong 34% diện tích đất chuyên dùng (20.516 ha) có 267 ha

đất trụ sở cơ quan, 3.853 ha đất an ninh quốc phòng, 489 ha đất sản xuất
kinh doanh (trong đó có 203 ha đất khu, cụm công nghiệp), 15.907 ha đất
công cộng.
1.2. Nguồn sản xuất hàng hóa trong nước và nhập khẩu.
- Sản xuất hàng hóa trong nước: theo Quy hoạch tổng thể phát triển
các ngành Công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010,
tầm nhìn đến năm 2020, giá trị sản xuất hàng công nghiệp cả nước năm
2005 đạt 416 ngàn tỷ đồng (giá 1994), tốc độ tăng trưởng giai đoạn 20012005 đạt 16%, trong khi đó giai đoạn 1996-2000 chỉ đạt 13,57%. Tuy nhiên
mức độ ảnh hưởng của nguồn sản xuất hàng hóa trong nước đến phát triển
thương mại tỉnh Đồng Tháp chủ yếu là vùng 5 (8 tỉnh miền Đông Nam Bộ)
và vùng 6 (13 tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long), trong đó giá trị sản
xuất của vùng 5 (chiếm tới 52,5% tổng giá trị sản xuất toàn ngành năm
2004). Hầu hết toàn bộ các ngành hàng như: thực phẩm chế biến, bách hóa,
may mặc, xi măng sắt thép... đều do vùng 5 (chủ yếu là TP HCM) cung
ứng. Theo số liệu khảo sát thống kê của Cục Thống kê tỉnh Đồng Tháp
năm 2005, các ngành hàng này chiếm từ 50% đến 60% tổng mức bán lẻ
hàng hóa. Sản xuất hàng hóa vùng 6 không có tác động nhiều đến phát triển
thương mại tỉnh Đồng Tháp.
Theo tính toán của Trung tâm nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông
Cửu Long, doanh số mua (giá 1994) của ngành Thương mại tỉnh Đồng
Tháp qua các năm từ năm 2000 đến năm 2005 hàng hóa của địa phương
trong tỉnh là khá ổn định ở mức trên 7,4 ngàn tỷ đồng/năm và mua của nơi
khác (chủ yếu là hàng công nghiệp tiêu dùng) từ 5,3 ngàn tỷ đồng năm 2000
lên gần 6,9 ngàn tỷ đồng năm 2005, chiếm gần 49%/tổng doanh số mua.
- Về nhập khẩu hàng hóa: các năm qua, nhập khẩu hàng hóa đã có
tác động khá lớn đến thương mại của tỉnh, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu
là những mặt hàng vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp,
sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất hàng tiêu dùng như: xăng dầu, phân bón,
nguyên liệu dược, nguyên liệu may mặc,… Năm 2005, tỉnh Đồng Tháp đã



Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 7

nhập khẩu với kim ngạch 227,4 triệu USD (xăng dầu 352.500 tấn); đến năm
2006 kim ngạch nhập khẩu là 319,61 triệu USD (xăng dầu 422.667 tấn) và
năm 2007, kim ngạch nhập khẩu là 412 triệu USD (xăng dầu 517.271 tấn).
1.3. Nhu cầu tiêu dùng.
Thu nhập bình quân đầu người tỉnh Đồng Tháp tăng khá nhanh
(theo giá hiện hành) từ 2,3 triệu đồng năm 1995 lên 3,4 triệu đồng năm
2000 và 6 triệu đồng/năm vào năm 2005 (giá so sánh 1994 theo thứ tự trên
2,2 triệu, 2,9 triệu và 4,5 triệu đồng), bình quân tăng giai đoạn 1996-2000
là 5,3%/năm và 9% giai đoạn 2001-2005.
Do thu nhập bình quân tăng, đời sống của đại bộ phận các tầng lớp
dân cư được nâng lên, xu hướng cơ cấu tiêu dùng đã có sự thay đổi khá lớn
từ ăn no mặc ấm sang ăn ngon, mặc đẹp, nhu cầu về các dịch vụ, các tiện
nghi cao cấp, mua sắm hàng hóa trong siêu thị đã trở thành khá phổ biến.
Tiêu dùng của người dân tăng bình quân 7,7% giai đoạn 1996-2000 lên
9,8% giai đoạn 2001-2005. Nhìn chung tiêu dùng của dân cư các khu vực
đều có xu hướng tăng, khu vực nông thôn có xu hướng tăng nhanh từ
9,8%/năm giai đoạn 1996-2000 lên 14%/năm giai đoạn 2001-2005; khu
vực thành thị có xu hướng tăng chậm hơn 7,4%/năm và 9,1%/năm.
Bảng 1: Hiện trạng tiêu dùng trong dân cư tỉnh Đồng Tháp
ĐVT: Triệu đồng (giá SS 1994)
Diễn giải

Năm
2000


Năm
2001

Năm
2003

Năm
2005

Tốc độ
TTBQ
19962000

Tốc độ
TTBQ
20012005

Tiêu thụ trong dân

3.986.257

4.520.66
0 5.120.261 6.370.952

7.70%

9.80%

- Khu vực Nông nghiệp


2.713.170

2.923.240 3.354.396 3.934.589

3,7%

7,7%

- Khu vực phi nông
nghiệp

1.273.087 1.597.420 1.765.865 2.436.363

21,4%

13,9%

768.040 1.099.658

9,8%

14,0%

3.414.087 3.868.087 4.352.221 5.271.294

7,4%

9,1%

- Khu vực nông thôn

- Khu vực đô thị

572.170

652.572

Tiêu thụ trong dân /
GDP

86,27%

91,45%

86,93%

85,89%

- Trong khu vực I

90,82%

92,18%

92,76%

91,79%

- Trong khu vực 2+3

77,95%


90,13%

77,66%

77,80%

Nguồn: Dự thảo QH tổng thể KT-XH ĐT 2020

1.4. Khả năng đáp ứng nguồn lao động.
Dân số tỉnh Đồng Tháp năm 2006 là 1.667.800 người, tăng bình
quân 1,11%/năm cho cả giai đoạn 2001-2006; năm 2007 tăng lên 1.674.840


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 8

người, tăng 0,42% so với năm 2006. Dân số trong độ tuổi lao động đang
làm việc trong các ngành kinh tế năm 2000 chiếm 47,93% tổng dân cư tăng
lên 53,71% năm 2006; năm 2007 tăng lên 54,57%, điều này cho thấy trong
giai đoạn 2001 - 2007, các ngành kinh tế của tỉnh có sự tăng trưởng và tạo
và thu hút thêm nhiều lao động.
Lao động trong độ tuổi khu vực I từ 68,5% năm 2000 giảm xuống
còn 64,1% năm 2005; khu vực II từ 5,1% lên 5,6% và khu vực III từ 9,6%
lên 13,3% cho thấy tiến độ chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông
nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ còn chậm.
Tỷ lệ lao động trong độ tuổi được đào tạo kể cả học nghề từ 17,72%
năm 1999 lên 25,04% năm 2005, trong đó 3,93% là đại học và sau đại học,
2,23% trung học chuyên nghiệp, 1,62% công nhân kỹ thuật và 17,26%

công nhân được đào tạo sơ cấp và được dạy nghề; tỷ lệ lao động chính quy
chỉ đạt 7,78%, thấp hơn bình quân của vùng Đồng bằng sông Cửu Long
(11,54%) và của cả nước (19,62%).
Bảng 2: Dân số Đồng Tháp giai đoạn 2001 – 2007
Đơn vị tính: người
Diễn giải

Năm
2000

Năm
2002

Năm
2003

Năm
2004

Năm
2005

Năm
2006

Năm
2007

1.588.756 1.607.832 1.626.024 1.639.357 1.654.680 1.667.804 1.674.840


Tổng số
Thành thị

228.043

233.136

243.904

246.024

285.606

287.871

289.166

Tỷ trọng

14,35%

14,50%

15,00%

15,01%

17,26%

17,26%


17,27%

Nông thôn
Tỷ trọng

1.360.713 1.374.696 1.382.120 1.393.333 1.369.074 1.379.933 1.385.674
85,65%

85,50%

85,00%

84,99%

82,74%

82,74%

82,73%

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2007

1.5. Các nguồn vốn cho phát triển ngành Thương mại.
Nguồn vốn cho phát triển thương mại các năm qua bao gồm: vốn
thuộc ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư, vốn doanh nghiệp và vốn
dân. Vốn đầu tư cho khu vực III có tốc độ phát triển cao: năm 2001 là 620
tỷ đồng, đến năm 2005 tăng lên 1.605 tỷ đồng, chiếm 48,56%/tổng vốn đầu
tư của tỉnh. Tuy nhiên vốn đầu tư cho ngành Thương mại lại quá thấp, năm
2001 chỉ đạt 52,19 tỷ đồng, năm 2005 tăng lên 96,72 tỷ đồng, chiếm 6,03%

tổng vốn đầu tư cho khu vực III và 2,93% vốn đầu tư của toàn tỉnh. Các
doanh nghiệp thương mại của tỉnh đa số thuộc loại vừa và nhỏ, vốn thiếu
nhưng khả năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng còn nhiều hạn chế; nguồn


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 9

vốn từ Trung ương và ngân sách Tỉnh cấp để đầu tư hạ tầng thương mại các
năm qua không đáng kể.
1.6. Khả năng cung cấp công nghệ hiện đại cho ngành Thương
mại.
Là Tỉnh thuần nông, hoạt động thương mại các năm qua chủ yếu là
kinh doanh mua bán hàng hóa nông phẩm và một số hàng hóa được chế
biến từ sản phẩm nông ngư nghiệp, dược phẩm, đa số các doanh nghiệp
thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh doanh mua bán mang tính thời
vụ, cơ sở hạ tầng thương mại như các trung tâm bán buôn, hệ thống kho
bán buôn, cảng giao nhận hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu, các trung tâm
thương mại và siêu thị hiện đại chưa được đầu tư xây dựng. Trong 2 năm
trở lại đây, lĩnh vực chế biến thủy sản phát triển mạnh, các nhà máy được
đầu tư công nghệ hiện đại, nhưng nhìn chung đầu tư công nghệ hiện đại của
ngành chưa nhiều, còn hạn chế.
1.7. Khả năng phát triển thị trường dịch vụ phân phối.
Thị trường dịch vụ phân phối hàng hóa của Tỉnh đã được mở rộng
hầu hết các tỉnh thành trong khắp cả nước, do tính đặc thù của sản phẩm
nông nghiệp và sự phát triển năng động của ngành Công nghiệp chế biến
nên chủng loại hàng hóa của Tỉnh khá đa dạng và phong phú, hàng hóa đã
lưu thông phân phối đến nhiều tỉnh, nhưng thành phố Hồ Chí Minh vẫn là
thị trường chính. Theo cách tính toán và thu thập số liệu của Trung tâm

nghiên cứu và phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, doanh số bán hàng
của tỉnh Đồng Tháp cho các tỉnh khác (giá so sánh 1994) trong 10 năm qua
phát triển khá ổn định, ở mức trên 7 ngàn tỷ đồng đến dưới 8,5 ngàn tỷ
đồng/năm. Hàng hóa chủ yếu là hàng nông sản và các sản phẩm hàng hóa
được chế biến từ sản phẩm của ngành nông nghiệp.
1.8. Đánh giá những lợi thế và hạn chế từ thực trạng phát triển
các điều kiện thị trường của tỉnh Đồng Tháp.
Những lợi thế:
Đồng Tháp là Tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và
vùng kinh tế động lực Cần Thơ - An Giang - Cà Mau - Kiên Giang, có cơ
sở hạ tầng và hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy khá phát triển,
thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá giữa các vùng trong Tỉnh, nhờ vào
vị trí nằm sát thượng lưu sông Tiền với các tuyến giao thông thủy bộ qua
biên giới Việt Nam - Campuchia, tỉnh Đồng Tháp có nhiều thuận lợi về
kinh tế đối ngoại hướng ra các nước Đông Nam Á và là cửa ngõ của vùng
tứ giác Long Xuyên hướng về vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Với vị trí địa lý như trên, kết hợp với điều kiện tự nhiên đặc thù,
hiện nay Đồng Tháp được xem như một Tỉnh sản xuất nông ngư nghiệp là
chủ yếu với các thế mạnh về lúa, thủy sản, sản phẩm vườn và cho phép


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 10

Đồng Tháp có nhiều cơ hội để khai thác, thu hút các nguồn lực ở trong và
ngoài Tỉnh:
- Kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao, quy mô ngày càng lớn: Tốc
độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 9,93%/năm; Giai đoạn
2006-2007 đạt tốc độ tăng trưởng khá cao 15,04%/năm.

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp,
dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp (tỷ trọng khu vực Nông - lâm - thuỷ
sản giảm từ 64,65% năm 2000 xuống 57,78% và ngược lại, khu vực Công
nghiệp – xây dựng và Dịch vụ tăng lần lượt từ 10,82% và 24,53% năm
2000 lên 15,23% và 26,99% năm 2005). Đến năm 2007, tỷ trọng khu vực I
là 51,25%; KV II là 19,54%; KV III là 29,22%, đây là yếu tố thúc đẩy kinh
tế Đồng Tháp phát triển nhanh và ổn định hơn. Cùng với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành, cơ cấu thành phần kinh tế đã chuyển biến theo hướng
phù hợp với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà
nước trong thời kỳ đổi mới.
- Nền kinh tế bước đầu có tích luỹ, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được cải thiện: kinh tế tăng trưởng khá, bảo đảm bù đắp quỹ
tiêu dùng ngày càng tăng và có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Tích luỹ
tăng, nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội không ngừng tăng lên. Tổng
vốn huy động tăng bình quân 24,16%/năm bằng 29,24% GDP. Các công
trình đầu tư này chủ yếu làm tăng năng lực cho các ngành sản xuất, dịch
vụ, ưu tiên bố trí vốn cho các lĩnh vực, công trình trọng điểm, làm thay đổi
về chất cả thành thị và nông thôn.
- Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện một
bước, thu nhập bình quân đầu người (theo giá hiện hành) tăng từ 3,4 triệu
đồng năm 2000 lên hơn 6 triệu đồng năm 2005 và 9,37 triệu đồng năm
2007.
- Năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp quan trọng gia tăng
đáng kể. Sản xuất nông nghiệp từng bước phát triển ổn định, đi vào chiều
sâu theo hướng sản xuất hàng hoá, đa dạng hoá sản phẩm. Cơ sở hạ tầng
được cải thiện nhiều nhờ tập trung các nguồn đầu tư, trình độ dân trí nâng
lên, lực lượng cán bộ khoa học công nghệ ngày càng được chú trọng trong
thời kỳ công nghiệp hoá. Năng lực điều hành, quản lý của các ngành các
cấp và các doanh nghiệp có nhiều tiến bộ, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
trong hoạt động kinh tế thị trường. Đồng Tháp có tiềm năng phát triển du

lịch đặc biệt với các loại hình du lịch sinh thái, văn hoá... đồng thời qua đó
thúc đẩy phát triển thương mại, dịch vụ trên địa bàn.
- Hàng hóa từ TP Hồ Chí Minh cung ứng về Đồng Tháp hết sức
phong phú đa dạng về chủng loại mẩu mã, bao gồm các loại hàng hóa nông
thủy sản chế biến, hàng công nghiệp, lâm nghiệp… chiếm khoảng 49%
trong cơ cấu hàng hóa luân chuyển của Tỉnh. Còn lại là hàng nông thủy sản
tại địa phương.


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 11

- Là một trong những đầu mối nhập khẩu xăng dầu, Đồng Tháp
không những cung ứng hàng hóa trong Tỉnh mà còn cung ứng cho cả vùng
Đồng bằng sông Cửu Long. Lượng xăng dầu nhập khẩu đều tăng qua các
năm, năm 2000 nhập 212.000 tấn, năm 2005 tăng lên 352.513 tấn, năm
2006 là 422.667 tấn và năm 2007 là 517.271 tấn.
- Hoạt động thương mại không ngừng phát triển, tổng mức lưu
chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ của Tỉnh giai đoạn 2001 2005 tăng bình quân 15,8%/năm, năm 2006 tăng 20,62% so với năm 2005
và năm 2007 tăng 37,24 % so với năm 2006; tốc độ tăng bình quân giai
đoạn 2006-2007 đạt 28,66%/năm. Theo Niên giám thống kê, giá trị tăng
thêm của toàn ngành Thương mại theo giá hiện hành tăng từ 437 tỷ đồng
năm 2000 lên 951 tỷ đồng năm 2005 tăng 16,83%/năm trong giai đoạn
2001-2005; năm 2006 đạt 1.147 tỷ đồng, tăng 20,61% so với năm 2005 và
năm 2007 đạt 1.467 tỷ đồng, tăng 27,9% so với năm 2006. Tuy nhiên, sự
phân bố mạng lưới thương mại còn chưa cân đối, đầu tư ít do vậy hoạt
động kém hiệu quả (chiếm 10%/GDP toàn tỉnh).
- Lao động cho khu vực III đã có sự gia tăng đáng kể, từ 6,9% năm
2000 với 87.630 người lên 13,3% năm 2005 với 138.000 người. Trong đó

lao động ngành Thương mại năm 2006 là 107.050 người và năm 2007 lao
động trong khu vực III là 165.909 người, lao động trong ngành Thương
mại dịch vụ đã tăng lên 126.922 người (chiếm 13,98% lao động toàn tỉnh).
Những hạn chế:
- Mặc dù kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao (chỉ số ICOR đạt 2,33
trong giai đoạn 2001-2005), cao hơn so với các Tỉnh vùng Đồng bằng sông
Cửu Long trong cùng thời kỳ, nhưng còn thấp so với yêu cầu phát triển
kinh tế của một Tỉnh còn nhiều khó khăn, sẽ có ảnh hưởng tiêu cực cho
những năm tiếp theo nếu không có những đầu tư lớn mang tính đột phá.
- Điều kiện cơ sở hạ tầng và hệ thống giao thông chưa phát triển đồng
bộ (địa bàn có nhiều kênh rạch tốn kém nhiều chi phí làm cầu, đất yếu chi
phí gia cố nền móng cao, xuất đầu tư cao) khó thu hút đầu tư nước ngoài.
- Là Tỉnh thuần nông, các sản phẩm hàng hóa chủ yếu là hàng nông
phẩm thô và một phần nông phẩm chế biến, mặc dù khá đa dạng về chủng
loại nhưng phẩm cấp, độ đồng đều, khả năng cung ứng một khối lượng
hàng hóa trong thời gian nhất định chưa đáp ứng được theo yêu cầu của
khách hàng vì vậy hoạt động thương mại trong thời gian qua còn nhiều hạn
chế.
- Mặc dù Tỉnh có đường biên giới giáp với Vương quốc Campuchia
tương đối dài (48,7 km với 02 cửa khẩu Quốc tế), nhưng cơ sở hạ tầng, đặc
biệt là hệ thống giao thông và kinh tế của Tỉnh tiếp giáp với Đồng Tháp
chưa phát triển nên ngành Thương mại Tỉnh chưa khai thác được lợi thế
này.


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 12

- Đầu tư vốn cho ngành Thương mại thời gian qua chưa được quan

tâm đúng mức, đặc biệt là đầu tư cơ sở hạ tầng, với nhiều cơ chế ràng buộc,
các doanh nghiệp khó tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng, vì vậy việc
đầu tư công nghệ hiện đại của doanh nghiệp chưa được cải thiện.
- Lao động có trình độ cung cấp cho ngành Thương mại còn quá
yếu và thiếu. Theo khảo sát điều tra của Sở Thương mại - Du lịch (quý
I/2007), đến cuối năm 2006, lao động được đào tạo là 12.269 người, trong
đó: lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 1.401 người chiếm
1,31%/tổng số lao động thương mại, trung học chuyên nghiệp 2.062 chiếm
1,93%, qua đào tạo nghề (kể cả ngắn hạn) 8.806 người chiếm 8,23%, số
còn lại là chưa qua đào tạo.
2. Tác động của bối cảnh bên ngoài đến phát triển ngành
Thương mại tỉnh Đồng Tháp.
2.1. Tác động của bối cảnh quốc tế đến phát triển ngành Thương
mại tỉnh Đồng Tháp.
Trong xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại hiện nay, sự xâm
nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Do đó,
những biến động thị trường ở một khu vực hay một quốc gia có vị trí cao
trong nền kinh tế thế giới hay đang cung cấp chính về một vài hàng hoá nào
đó trên thế giới đều sẽ gây tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các quốc gia
khác trên thế giới. Mặc dù Đồng Tháp chỉ là một Tỉnh của Việt Nam nhưng
trong xu thế đó cũng sẽ chịu những tác động của thị trường thế giới hoặc là
gián tiếp qua ảnh hưởng lan truyền của nền kinh tế quốc gia, hoặc là trực
tiếp ở những lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu hay sản xuất dựa trên các
yếu tố đầu vào nhập khẩu trực tiếp, đặc biệt khi Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Nhìn chung, trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 thị trường thế giới
sẽ có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến sự phát triển của thị trường Đồng
Tháp ở một số khía cạnh sau:
2.1.1. Xu hướng giảm dần các lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm
dựa trên khai thác tài nguyên và lao động rẻ so với lợi thế cạnh tranh của

các sản phẩm dựa trên vốn và công nghệ đồng thời với xu hướng tự do hoá
thương mại làm cạnh tranh ngày càng tăng giữa các nhà xuất khẩu trên thị
trường thế giới sẽ gây khó khăn trong việc gia tăng giá trị xuất khẩu với
nhịp độ cao của hầu hết các mặt hàng có khả năng xuất khẩu của Đồng
Tháp.
Nền kinh tế thế giới đang có những vận động mạnh mẽ theo xu
hướng chuyển dịch từ Tây sang Đông, đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến
chiến lược phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương, từ chỗ chỉ chiếm gần 21% tỷ trọng thương
mại quốc tế vào năm 1990, đến nay đã được coi là khu vực phát triển sôi


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 13

động nhất thế giới và chiếm tới trên 30% thị phần trong xuất nhập khẩu
toàn cầu. Trong đó, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đang nổi lên trở
thành những quốc gia có vị thế và tầm ảnh hưởng không nhỏ trong nền
kinh tế thế giới. Nằm trong khu vực năng động này, hoạt động ngoại
thương của Việt Nam nói chung và Đồng Tháp nói riêng sẽ được hưởng
những ngoại ứng tích cực.
Các dự báo về triển vọng thị trường thế giới và khả năng xuất khẩu
của Việt Nam ở những mặt hàng mà Đồng Tháp hiện đang sản xuất và có
khả năng xuất khẩu trong giai đoạn 2001- 2010 như sau:
Về thị trường gạo thế giới và khả năng xuất khẩu của Việt Nam:
Dự đoán thương mại gạo toàn cầu sẽ chỉ tăng khoảng trên 2%/năm
trong giai đoạn 1999-2009, nhưng thấp hơn so với mức tăng sản lượng, đạt
22,5 triệu tấn vào năm 2002 và 26,7 triệu tấn vào năm 2009. Tuy nhiên, giá
gạo trên thị trường thế giới sẽ có xu hướng tăng trong suốt giai đoạn dự

báo, giá gạo tại Houston (Mỹ) sẽ tăng từ 414 USD/tấn năm 1997 lên 447
USD/tấn năm 2009 và tương tự, gạo 5% tấm tại Băng Kok (Thái Lan) tăng
từ 353 USD/tấn lên 371 USD/tấn. Khối lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam,
trong giai đoạn 2006 - 2010, được dự báo theo hai phương án: Phương án I:
xuất khẩu gạo trong giai đoạn 2006-2010 sẽ tăng với nhịp độ bình quân
0%/năm về lượng và 3,48%/năm về giá trị. Phương án II: xuất khẩu gạo sẽ
tăng thấp hơn về lượng, nhưng về giá trị vẫn đạt mức tăng tương đương so
với phương án I. Trong giai đoạn 2006-2010 sẽ giảm bình quân
-0,95%/năm về lượng và tăng 3,25%/năm về giá trị.
Về thị trường thịt thế giới và khả năng xuất khẩu của Việt nam:
Dự báo xuất khẩu thịt thế giới sẽ tăng bình quân 3,35%/năm trong
giai đoạn 2006 - 2010, đạt 22,9 triệu tấn năm 2010. Tỷ trọng sản lượng thịt
dành cho xuất khẩu sẽ tăng 7,4% vào năm 2010. Trong đó: xuất khẩu thịt
lợn có nhịp độ tăng khá hơn so với thịt cừu và thịt bò, nhưng chỉ đạt tốc độ
tăng bình quân 1,7%/năm trong giai đoạn 2006 - 2010, đạt 3,75 triệu tấn
năm 2010. Xuất khẩu thịt gia cầm vẫn duy trì được nhịp tăng cao nhất so
với các sản phẩm thịt khác trong giai đoạn dự báo. Dự báo trong giai đoạn
2006 - 2010, xuất khẩu thịt gia cầm thế giới sẽ tăng bình quân là 6,5%/năm
và đạt mức xuất khẩu 12,93 triệu tấn năm 2010.
Triển vọng tăng trưởng kinh tế và cải thiện thu nhập ở khu vực các
nước đang phát triển sẽ tăng tiêu thụ các sản lượng thịt và nhu cầu nhập
khẩu sẽ tăng cao, đặc biệt là nhập khẩu thịt vào các nước Singapore, Hàn
Quốc, Nga… sẽ tăng mạnh. Dự báo nhập khẩu thịt năm 2010 là 22,73 triệu
tấn, tương tự nhập khẩu thịt lợn là 3,72 triệu tấn, nhập khẩu gia cầm là
12,90 triệu tấn.
Đối với Việt Nam, với khả năng tăng nhanh sản lượng lợn hơi trong
nước, tăng cường cải tạo giống lợn cho năng suất cao và đáp ứng yêu cầu


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020


Trang 14

chất lượng của sản phẩm xuất khẩu thì tỷ lệ sản lượng lợn có thể huy động
cho xuất khẩu có thể tăng từ 4 - 5% hiện nay lên 5 - 6% vào năm 2010. Với
mức huy động xuất khẩu trên, mức tiêu dùng thịt của dân cư trong nước
vẫn đảm bảo tăng 1,8 lần trong giai đoạn 2006 - 2010. Các phương án xuất
khẩu được đề xuất trên cơ sở giả định, Việt Nam sẽ tập trung mạnh vào tạo
lợn giống có chất lượng xuất khẩu và hạ giá thành sản xuất, đặc biệt là đảm
bảo cung cấp thức ăn gia súc ở mức giá thấp. Đồng thời, trong xu thế tự do
hoá thương mại hiện nay, Việt Nam sẽ tiếp cận được các thị trường nhập
khẩu lớn như Mỹ, Nhật và các thị trường tiềm năng, đặc biệt là thị trường
tiềm năng Trung Quốc với triển vọng nhập khẩu thịt lợn trên dưới 200 ngàn
tấn/năm trong giai đoạn dự báo.
Về thị trường thuỷ sản thế giới và khả năng xuất khẩu của Việt Nam
Dự báo sản lượng thuỷ sản thế giới giai đoạn 1991-2010 sẽ tăng
chậm hơn so với hai thập niên trước do sản lượng nuôi trồng không bù
được sự cạn kiệt của nguồn lợi tự nhiên. Sản lượng thuỷ sản chỉ tăng với
nhịp độ bình quân 1,7%/năm trong giai đoạn 2006 - 2010, đạt 149,2 triệu
tấn năm 2010. Sản lượng thuỷ sản sẽ suy giảm ở các nước phát triển như
Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu, ngược lại, sẽ gia tăng với nhịp độ cao ở các nước
đang phát triển nhưng chủ yếu trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản. Tiêu thụ
thuỷ sản của thế giới có xu hướng gia tăng nhanh, đặc biệt ở các nước đang
phát triển do gia tăng dân số và thu nhập. Trong giai đoạn 2001-2005, nhịp
độ tăng tiêu thụ thuỷ sản ở các nước đang phát triển là 2,9%/năm, của các
nước phát triển là 1,2%/năm; trong giai đoạn 2006-2010, nhịp độ tăng
tương ứng là 2,1%/năm và 1,0%/năm. Nếu phân theo khu vực thì các nước
thuộc Đông Bắc Á (trừ Nhật), Đông Nam Á sẽ có tỉ trọng và nhịp độ tăng
tiêu thụ lớn nhất.
Giá thuỷ sản của thế giới sẽ tiếp tục tăng do áp lực về quan hệ cung

cầu. Giá thuỷ sản sẽ tăng với nhịp độ bình quân 3,7%/năm giai đoạn 20062010. Xuất nhập khẩu thuỷ sản thế giới sẽ tăng với nhịp độ bình quân
2,5%/năm giai đoạn 2006-2010. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản toàn cầu
đạt 74 tỉ USD năm 2010 và kim ngạch nhập khẩu tương ứng là 80,2 tỉ
USD. Các nước Tây Âu, Bắc Mỹ vẫn duy trì kim ngạch xuất khẩu ở mức
cao, tuy nhiên, các nước đang phát triển sẽ có sự gia tăng mạnh, đặc biệt là
Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan... Trong nhập khẩu, Nhật Bản vẫn là
nước nhập khẩu hàng đầu thế giới, tiếp đến là Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha.
Nhập khẩu thuỷ sản ở các nước phát triển chiếm 80% nhập khẩu thuỷ sản
của thế giới.
Dự báo giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sẽ đạt nhịp độ tăng
10,69%/năm giai đoạn 2006-2010, đạt 4,07 tỉ USD vào năm 2010. Các thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước
EU...
Về thị trường rau quả thế giới và khả năng xuất khẩu của Việt Nam:


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 15

Dự báo nhu cầu tiêu thụ rau quả hàng năm trên thế giới giai đoạn
2001-2010 sẽ tăng với nhịp độ bình quân 3,6%, cao hơn so với nhịp độ
tăng của sản lượng là 2,8%/năm. Nhu cầu rau quả sẽ tăng nhanh hơn ở
nước phát triển có thu nhập cao, chủ yếu là đối với các loại hoa quả có chất
lượng và đạt tiêu chuẩn vệ sinh cao. Dự báo xuất khẩu rau quả của thế giới
năm 2010 đạt 100 tỉ USD. Nhập khẩu rau quả sẽ tăng trung bình 3%/năm.
Các nước nhập khẩu rau quả chính là EU, Nhật Bản, Trung Quốc. Các
phương án dự báo về xuất khẩu rau quả của Việt Nam được xây dựng như
sau:
Phương án I: nhịp độ tăng xuất khẩu rau quả trong giai đoạn 2006 2010 là 27,13%/năm.

Phương án II: nhịp độ tăng xuất khẩu rau quả trong giai đoạn 20062010 sẽ đạt 28,18%/năm về giá trị.
2.1.2. Những biến động trong phát triển kinh tế và thương mại của
các nước trên thế giới đem lại nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó
khăn trong việc tiếp cận thị trường nước ngoài đối với các sản phẩm có
khả năng xuất khẩu chính của Đồng Tháp.
Trong thời kỳ 2001 - 2010, triển vọng phát triển kinh tế của các chủ
thể kinh tế lớn là Mỹ, Nhật và EU tuy vẫn được dự báo khá lạc quan,
nhưng những diễn biễn gần đây cho thấy khả năng tăng trưởng kinh tế của
các nước này có thể sẽ thấp hơn so với dự báo trước đây. Điều này sẽ gây
ảnh hưởng không thuận lợi cho nền kinh tế thế giới nói chung và đối với
thương mại thế giới nói riêng. Chẳng hạn, nền kinh tế Nhật Bản có mức
tăng trưởng rất thấp làm cho sức mua của người dân Nhật sẽ tăng chậm và
nhu cầu nhập khẩu cũng thấp; nền kinh tế Mỹ có nguy cơ rơi vào tình trạng
suy thoái kinh tế do ảnh hưởng của nạn khủng bố sẽ là dấu hiệu không tốt
cho các nước đang xuất khẩu hay có triển vọng xuất khẩu (như trường hợp
Việt Nam) vào thị trường lớn nhất thế giới này; nền kinh tế các nước EU
tuy có triển vọng sáng sủa hơn, song các chỉ tiêu dự báo cũng không cao.
Triển vọng phát triển tại một số thị trường đáng quan tâm đối với Đồng
Tháp như sau:
- Thị trường Trung Quốc: Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, thị
trường Trung Quốc sẽ tiếp tục phát triển nhanh. Đến năm 2010, tổng sản
phẩm quốc nội của Trung Quốc có thể xếp vào hàng ngũ ba quốc gia đứng
đầu thế giới. Trong 10 năm tới, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hoá đi đôi với quá trình đô thị hoá, do đó, trong GDP của Trung
Quốc tỷ trọng của khu vực I sẽ giảm mạnh và khu vực II, III sẽ tiếp tục
tăng nhanh. Vào năm 2010, tỷ trọng giữa các khu vực I, II, III sẽ là: 12,7%;
52,8% và 34,5%. Tiêu dùng của dân cư và cơ cấu tiêu dùng sẽ có những
thay đổi quan trọng. Dự kiến mức tiêu dùng bình quân của dân cư Trung
Quốc sẽ đạt 3.530 NDT vào năm 2010, cao hơn khoảng 6 lần so với năm
1990. Cơ cấu tiêu dùng sẽ thay đổi theo hướng giảm mạnh tỷ trọng tiêu



Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 16

dùng thực phẩm, tăng chi tiêu về nhà ở, y tế và văn hoá. Trong thập kỷ tới,
hướng chủ yếu của quá trình đô thị hoá ở Trung Quốc là xây dựng và phát
triển các thành phố vừa và nhỏ để thu hút lao động dư thừa trong nông
nghiệp. Dự tính đến năm 2010, tỷ lệ dân số đô thị của Trung Quốc có thể
lên tới 50% tổng dân số, so với mức hơn 26% vào năm 1996. Cùng với
việc gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ trở thành nước thu hút đầu tư nước
ngoài lớn nhất thế giới. Ngoại thương của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng
nhanh hơn tốc độ tăng của GDP. Ước tính đến năm 2010, qui mô xuất khẩu
của Trung Quốc có thể vượt 1.700 tỷ USD.
Triển vọng phát triển của thị trường Trung Quốc sẽ mở ra những cơ
hội, nhưng cũng đầy thách thức đối với nhiều khu vực thị trường khác trên
thế giới. Đặc biệt là gần đây, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Trung Quốc
và các nước ASEAN đã phát triển triển mạnh kể từ khi hai bên ký Hiệp
định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện tháng 11/2002. Trong bối cảnh đó,
Việt Nam là nước láng giềng của Trung Quốc, là thành viên của các nước
ASEAN cũng không nằm ngoài những ảnh hưởng của Trung Quốc cả trên
phương diện tích cực và tiêu cực, cả trong quan hệ thương mại song
phương và đa phương. Trong quan hệ thương mại song phương, bên cạnh
những thuận lợi như tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường Trung Quốc để lấp đầy những "lỗ hổng thị trường" do quá trình
công nghiệp hoá, đô thị hoá và sự mở rộng nhu cầu tiêu dùng,…của Trung
Quốc tạo ra. Chẳng hạn, Việt Nam có cơ hội để tăng cường xuất khẩu
những mặt hàng không cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc như thuỷ sản,
rau quả… Mặt khác, sự phát triển nhanh về năng lực cạnh tranh của Trung

Quốc ở cả mức độ nền kinh tế và bản thân những hàng hoá, dịch vụ do
Trung Quốc sản xuất ra sẽ tạo nên nguy cơ làm mất cân bằng trong cán cân
thương mại song phương và ảnh hưởng cả đến khả năng xuất khẩu một số
mặt hàng của Việt Nam sang các thị trường khác. Chẳng hạn, xuất khẩu
hàng may mặc và thị trường EU, Hoa Kỳ; xuất khẩu gạo vào thị trường
Nhật Bản, Hàn Quốc, xuất khẩu sản phẩm gỗ vào thị trường Hoa Kỳ… Do
đó, Việt Nam có thể cần phải thực thi một số biện pháp bảo vệ và làm hạn
chế sự phát triển thương mại song phương nói chung và tại các khu vực cửa
khẩu biên giới phía Bắc nói riêng.
Thị trường các nước ASEAN: Mặc dù, khu vực mậu dịch tự do
ASEAN đã được hình thành và hoàn thành thực hiện vào đầu năm 2003
(với Việt Nam là đầu năm 2006), nhưng tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường này cũng không cao. Bởi vì: Thứ nhất, do Việt Nam đang
thực hiện chính sách đa phương hoá, mở rộng thị trường xuất khẩu sang
các nước và thị trường khác ở Trung Đông, Châu Âu, Châu Úc và Châu
Mỹ. Thứ hai, việc tăng cường xuất khẩu trực tiếp làm giảm kim ngạch xuất
khẩu vào Singapore - chủ yếu nhập khẩu hàng của Việt Nam để tái xuất do đó giảm đáng kể tổng kim ngạch xuất khẩu vào khu vực ASEAN. Thứ
ba, do cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam tương tự các nước trong


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 17

khu vực, thậm chí còn kém sức cạnh tranh về chất lượng và kiểu dáng.
Ngoài ra, do Việt Nam phải cam kết cắt giảm hàng rào thuế quan theo
CEPT, có nghĩa là hàng hoá Việt Nam sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn.
- Thị trường Liên bang Nga và các nước Đông Âu: nhìn chung, trong
thập kỷ vừa qua, mặc dù đã có những động thái tích cực trong việc khôi
phục quan hệ giữa Việt Nam với Liên bang Nga và Đông Âu, nhưng do

nền kinh tế của các nước này chậm phục hồi nên xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam sang khu vực thị trường này chưa có những tiến bộ rõ nét. Xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Nga và các nước Đông Âu
năm 2001 mới đạt 356,0 triệu USD, trong đó riêng thị trường Nga chiếm
54,63%.
Trong thời kỳ 2001 - 2010, triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt
Nam sang thị trường Nga và các nước Đông Âu có thể sẽ khá hơn, do:
Triển vọng kinh tế Nga sẽ ổn định và sẽ đi vào quỹ đạo phát triển. Đồng
thời, nền kinh tế các nước Đông Âu đang phục hồi và tăng trưởng trở lại.
Về chủ quan, Việt Nam và các nước trong khu vực này, đặc biệt là Nga đều
mong muốn khôi phục và phát triển quan hệ kinh tế.
Nhìn chung, thị trường Nga là một thị trường khá dễ tính so với các
thị trường khác về chất lượng và các quy định khác. Nga cũng có nhu cầu
nhập khẩu nhiều sản phẩm mà Việt Nam có thể xuất khẩu.
Ngay khi chuyển đổi cơ chế, các nước như Hungari, Séc, Slovakia đã
dành cho hàng hoá Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) tạo
điều kiện khá thuận lợi để khôi phục và phát triển quan hệ thương mại song
phương.
Dự báo xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang khu vực thị trường
này sẽ phát triển ổn định với mức tăng trưởng 15,0 - 27,7%/năm trong giai
đoạn 2006 - 2010.
Triển vọng xuất khẩu một số mặt hàng có tiềm năng sản xuất của
Việt Nam sang thị trường Nga, như sau:
- Gạo: Mức tiêu thụ gạo theo đầu người của Nga sẽ tăng lên tới mức
3,4kg/năm. Do đó nhu cầu gạo ở Nga hàng năm từ khoảng 500.000 đến
510.000 tấn. Việt Nam có thể xuất khẩu được từ 600 đến 1.000 tấn/năm
sang Nga.
- Thịt đông lạnh: Nga nhập khoảng 300.000 tấn/năm, nhưng vừa qua
do Nga nhập khẩu thịt lợn của Mỹ giá thấp, nên khả năng xuất khẩu sang
Nga gặp khó khăn. Tuy nhiên, trong kỳ dự báo Việt Nam vẫn có triển vọng

xuất khẩu thịt lợn vào thị trường Nga từ 30 - 35 ngàn tấn vào năm 2010.
- Rau quả tươi và chế biến: Nga có nhu cầu tiêu thụ khoảng 600
nghìn tấn chuối/năm, 100 nghìn tấn quýt/năm. Việt Nam có thể xuất đồ hộp
như dứa miếng, dứa khoanh, chuối sấy, dưa chuột, muối, tương ớt sang
Nga với doanh số khoảng 10 triệu USD/năm.


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 18

2.2. Xu hướng phát triển dịch vụ phân phối trên thế giới và ảnh
hưởng của nó đến đến thương mại nội địa tỉnh Đồng Tháp
Thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam được đánh giá có sức
hấp dẫn hàng đầu trên thế giới nên được nhiều tập đoàn và công ty thương
mại bán buôn và bán lẻ trên thế giới nhắm tới. Thị trường Đồng Tháp, với
những lợi thế riêng, sẽ thu hút được các đối tác, điều đó vừa tạo thêm
những yếu tố thuận lợi để phát triển thương mại, vừa báo hiệu những xung
đột sẽ xảy ra giữa các doanh nghiệp thương mại của Đồng Tháp với các
nhà phân phối nước ngoài. Cần có những định hướng về phân công và hợp
tác giữa các cơ cấu này để khai thác mặt thuận lợi và khắc phục những
xung đột có thể xảy ra.
Những cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường dịch vụ phân
phối trong nước sẽ gia tăng những tác động của thị trường dịch vụ phân
phối thế giới đến sự phát triển của thương mại Đồng Tháp. Đến nay, Việt
nam đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ phân phối gồm cả 4 phân ngành
(đại lý uỷ quyền, bán buôn, bán lẻ, nhượng quyền kinh doanh) cho Mỹ theo
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ và cho Nhật Bản theo Hiệp định
bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt - Nhật.
Xu hướng phát triển ngành dịch vụ phân phối của thế giới với những

đặc trưng như mức độ tập trung hơn (nổi lên các doanh nghiệp thương mại
lớn, hoặc nhất thể hoá sản xuất - bán buôn - bán lẻ để tạo mạng lưới phân
phối rộng rãi, xuất hiện các hệ thống siêu thị, trung tâm mua sắm, trung
tâm thương mại), các cửa hàng nhỏ truyền thống được thay thế bằng những
cửa hàng bách hoá lớn hơn, quy mô trung bình của một cửa hàng tăng lên
cả về doanh thu và lao động, mật độ phân bố cửa hàng bán lẻ giảm xuống,
cửa hàng bán lẻ tham gia vào chuỗi cửa hàng hoặc hoạt động theo thoả
thuận nhượng quyền của các công ty lớn hướng tới các phân đoạn chuyên
biệt hơn trên thị trường; Vai trò của các nhà bán buôn truyền thống suy
giảm, nhất là trên thị trường hàng tiêu dùng không bền, do các nhà sản xuất
tự kiểm soát việc phân phối hoặc các nhà bán lẻ mở rộng buôn bán tận gốc,
nhưng vai trò của các nhà bán buôn hiện đại tăng lên, nhất là đối với việc
cung cấp trọn gói hàng tiêu dùng có giá trị cao, hàng vật liệu và sản phẩm
có số lượng lớn,...
Những xu hướng phát triển này cũng cho thấy rõ hơn thách thức của
ngành thương mại Đồng Tháp trong thời gian tới, đặc biệt là những thách
thức trong việc cải cách các nhà thương mại truyền thống sang các doanh
nghiệp bán hàng, mạng lưới bán hàng, các nhà cung cấp dịch vụ phân phối
chuyên nghiệp; trong việc giải quyết những xung đột giữa các doanh
nghiệp thương mại nhỏ của Đồng Tháp với các tập đoàn phân phối nước
ngoài; trong việc tạo môi trường cạnh tranh công bằng cho các nhà phân
phối trên thị trường; trong việc bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 19

Việc Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên đầy đủ của WTO ,
thị trường cho các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của tỉnh Đồng Tháp

như gạo, thủy sản, trái cây, các mặt hàng chế biến nông sản…, có khả năng
mở rộng nhanh chóng về thị trường xuất khẩu, nhưng đồng thời cũng phải
đương đầu sự cạnh tranh gay gắt với các mặt hàng cùng loại khác của các
nước khác.
2.3. Tác động của xu thế phát triển ngành Thương mại cả nước,
của vùng đối với phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp
2.3.1. Những thành tựu phát triển kinh tế, thị trường nước ta trong
giai đoạn vừa qua cùng với yêu cầu chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm tiếp theo đã, đang
và sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển thị trường và các hoạt động
thương mại của tỉnh Đồng Tháp.
- Trong những năm vừa qua, cùng với quá trình phát triển của nền
kinh tế nước ta, các điều kiện cơ bản về cơ sở hạ tầng đã được đầu tư phát
triển khá nhanh trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng
Tháp nói riêng. Trong đó, các tuyến đường quốc lộ chạy qua địa bàn Tỉnh
đã được đầu tư nâng cấp, hệ thống đường giao thông trong Tỉnh, nhất là
giao thông nông thôn được sự hỗ trợ của Nhà nước đã phát triển nhanh
chóng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho giao lưu kinh tế, vận tải, vận chuyển
hàng hoá trong Tỉnh và giữa Tỉnh với các địa phương khác. Việc đầu tư
phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông trên phạm vi cả nước và nối
mạng với các nước, các khu vực trên thế giới đã nâng cao khả năng thu
nhận và phản hồi thông tin kinh tế, thị trường của tỉnh Đồng Tháp với trong
và ngoài nước. Hệ thống lưới điện quốc gia được mở rộng đến tận các thôn,
xóm và với điện áp ổn định đã góp phần phát triển sản xuất, đưa máy móc
thiệt bị vào sản xuất thay thế lao động thủ công, nâng cao năng suất lao
động,... Tất cả những điều đó đã, đang và sẽ thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế, thị trường Đồng Tháp, đồng thời, mang lại sự gắn kết ngày càng
chặt chẽ hơn giữa thị trường Đồng Tháp với thị trường các Tỉnh, các vùng
trong nước và với thị trường nước ngoài.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao của nước ta trong hơn một thập kỷ

qua đã làm tăng nhanh qui mô thị trường trong nước từ cả hai phía cung và
cầu hàng hoá. Đồng thời, cơ cấu của cung và cầu hàng hoá trên thị trường
trong nước không ngừng được mở rộng, phong phú và đa dạng hơn nhờ
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất dựa trên những lợi thế
phát triển khác nhau của mỗi vùng, mỗi tỉnh. Những điều đó đã làm tăng
thêm các dòng lưu chuyển hàng hoá giữa các tỉnh, các vùng và thu hút các
tỉnh vào các dòng lưu chuyển đó. Chẳng hạn, Đồng Tháp hiện đã tham gia
vào mạng cung ứng nông sản các loại, các sản phẩm từ ngành công nghiệp
chế biến thuỷ hải sản cho nhu cầu ở phạm vi ngoài tỉnh,... Công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nước ta được khởi động từ những năm


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 20

vừa qua sẽ có bước phát triển mạnh mẽ trong những năm tiếp theo cùng với
khả năng và xu hướng tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và
toàn cầu của Việt Nam. Điều đó có tác động đến sự phát triển kinh tế và thị
trường của Đồng Tháp trên các khía cạnh, như: Một là, tạo ra khả năng giải
quyết việc làm phi nông nghiệp cho lao động khu vực nông thôn tương đối
dư thừa hiện nay; Hai là, sản xuất công nghiệp luôn đòi hỏi khả năng có
những vùng cung cấp nguyên liệu lớn, do đó, khi các ngành công nghiệp
chế biến các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam phát triển sẽ mở ra khả
năng phát triển vùng nguyên liệu trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp; Ba là, với
việc chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng những năm qua và lực lượng
lao động dồi dào có trình độ giáo dục tương đối tốt, Đồng Tháp sẽ có cơ
hội để thu hút đầu tư trong và ngoài nước cho công cuộc công nghiệp hoá
và hiện đại hoá các ngành sản xuất trên địa bàn Tỉnh.
2.3.2. Tiềm năng trong phát triển thị trường của vùng Đồng bằng

sông Cửu Long trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 là cơ hội lớn để
Đồng Tháp, với vị trí nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng
kinh tế động lực Cần Thơ - An Giang - Cà Mau - Kiên Giang, phát triển thị
trường và các hoạt động thương mại của chính mình.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 13 tỉnh, thành phố với
dân số năm 2006 là 17.415,5 ngàn người, chiếm 20,69% dân số cả nước và
có mức thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình với các vùng khác
trong cả nước. Dự báo, dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm 2010
là 21,28 triệu người với thu nhập bình quân đầu người là 1.116 ngàn
đồng/tháng. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ là thị trường có tiềm năng
tiêu thụ hàng hoá lớn của cả nước và là cơ hội lớn cho các nhà sản xuất nói
chung và của Đồng Tháp nói riêng. Có thể nhận thấy, tiềm năng phát triển
của Đồng bằng sông Cửu Long từ nay đến 2010 và các năm tiếp theo theo
Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị và Quyết định 173 của Chính phủ về phát
triển Đồng bằng sông Cửu Long là cơ hội để phát triển thị trường và hoạt
động thương mại của tỉnh Đồng Tháp.
Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam gồm các tỉnh, thành phố: TP Hồ
Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Tây
Ninh, Long An và Tiền Giang, là vùng kinh tế có vai trò rất quan trọng,
đóng góp lớn nhất cho kinh tế Việt Nam, chiếm gần 60% thu ngân sách,
trên 70% kim ngạch xuất khẩu và là khu vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài
(FDI) hàng đầu cả nước, tỷ lệ dân số đô thị gần 50% (so với mức bình quân
25% của cả nước). Thu nhập bình quân đầu người của vùng này năm 2002
đạt 18,5 triệu đồng, gấp 2,7 lần so với trung bình của cả nước. Với vị trí
liền kề như vậy, Đồng Tháp có nhiều điều kiện để phát triển sản xuất, cung
ứng hàng hoá, dịch vụ cho vùng kinh tế trọng điểm năng động nhất nước
này đồng thời có thể thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp trong vùng.


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020


Trang 21

Trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long có thành phố Cần Thơ là một
trong những trung tâm sản xuất công nghiệp của cả nước. Ngoài ra, các
tỉnh khác trong vùng như Bến Tre, Tiền Giang là những trung tâm về trái
cây các loại của cả nước và có nhiều làng nghề truyền thống,... Nghĩa là,
bên cạnh tính tương đồng về điều kiện tự nhiên, xã hội và điều kiện sản
xuất, giữa các tỉnh trong vùng còn có sự khác biệt nhau về cơ cấu sản xuất,
cơ cấu kinh tế. Đây là yếu tố rất cơ bản để cho các Tỉnh trong vùng có sự
bổ sung lẫn nhau trong quá trình phát triển kinh tế, giữa các Tỉnh vừa có
khả năng phát triển thương mại giữa các ngành sản xuất, vừa phát triển
thương mại trong một ngành sản xuất.
2.3.3. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, bên cạnh những tác
động tích cực trên đây, cũng sẽ có những tác động tiêu cực đến sự phát
triển thị trường và các hoạt động thương mại của Đồng Tháp
Trong giai đoạn tới đây, trên phạm vi cả nước nói chung và khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng vẫn trong tình trạng thiếu vốn đầu tư
cho nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế. Hơn nữa, điều kiện tự nhiên, xã
hội của các Tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long khá tương đồng
nhau, nghĩa là, các hướng đầu tư được lựa chọn cũng tương đối giống nhau.
Do đó, giữa Đồng Tháp với các Tỉnh khác trong vùng sẽ có sự cạnh tranh
mạnh mẽ trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư từ ngoài tỉnh, ngoài nước
và thậm chí, nếu không có chính sách khuyến khích đầu tư trong Tỉnh tốt,
Đồng Tháp sẽ có nguy cơ bị chảy vốn đầu tư ra các Tỉnh lân cận.
Sức phát triển nhanh của khu vực Cần Thơ và các Tỉnh khác như
Tiền Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau... sẽ thu hút đáng kể lực
lượng lao động được đào tạo và có kỹ năng từ các tỉnh khác trong nước. Do
đó, lực lượng lao động này của Đồng Tháp cũng sẽ có nguy cơ bị giảm sút
và gây ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển các ngành kinh tế của

Đồng Tháp.
Xu hướng giảm lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm dựa trên tài
nguyên đất nông nghiệp và nguồn lao động giản đơn rẻ. Do vậy, nếu không
có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thì
hàng hóa của Đồng Tháp sẽ gặp khó khăn trong xuất khẩu cũng như tại tiêu
thụ sân nhà, đặc biệt là khi Việt Nam phải thực hiện cam kết CEPT
(AFTA).
2.4 Tác động của định hướng quy hoạch tổng thể phát triển KTXH Tỉnh đến năm 2020 đối với phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng
Tháp.
2.4.1. Định hướng phát triển chung:
Đến năm 2020 nền kinh tế của Tỉnh sẽ phát triển nhanh, bền vững,
hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc
tế; chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp - Thương
mại dịch vụ - Nông nghiệp kỹ thuật cao.


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 22

Phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, đồng
thời tạo chuyển biến mạnh về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Kết hợp chặt chẽ, hợp lý hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát
triển xã hội và bảo vệ môi trường. Tập trung nguồn lực để đẩy nhanh phát
triển công nghiệp và dịch vụ nhằm đưa hai lĩnh vực này chiếm tỷ trọng cao
trong cơ cấu kinh tế; tiếp tục đầu tư ba thế mạnh kinh tế lúa, kinh tế vườn
và kinh tế thủy sản đi vào chiều sâu.
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Đồng Tháp đến
năm 2020 (PA II), GDP tăng bình quân 14,5%/năm trong giai đoạn 20062010, 15,1%/năm trong giai đoạn 2011-2015, 14%/năm trong giai đoạn
2016-2020, giai đoạn 2006-2020 là 14,5%; Cơ cấu kinh tế đến năm 2010

là: KV I 41,66%, KV II 25,24%, KV III 33,1%. Đến năm 2020, cơ cấu
tương ứng là: 22,01%, 44,01%, 33,98%.
2.4.2. Định hướng phát triển các ngành lĩnh vực liên quan đến
ngành Thương mại:
a. Công nghiệp:
Hoàn chỉnh và mở rộng 3 khu công nghiệp hiện có (Sa Đéc, Trần
Quốc Toản, Sông Hậu), dự kiến mở mới 02 khu công nghiệp ở địa bàn
huyện Cao Lãnh và huyện Tháp Mười dọc tuyến Quốc lộ N 2 và các cụm
công nghiệp là 9.000ha. Đổi mới trang thiết bị và công nghệ để sản xuất
chế biến sản phẩm đạt chất lượng cao; tập trung vào chế biến và xuất khẩu
các sản phẩm từ gạo, thủy sản, rau quả, trang phục quần áo xuất khẩu, lắp
ráp cơ khí - điện - điện tử, công nghiệp phần mềm.
Cơ cấu công nghiệp năm 2020: ngành lương thực - thực phẩm đồ
uống chiếm 49,5%, ngành hóa chất và các sản phẩm từ hóa chất (dược
phẩm) 23,5%, ngành cơ khí 15,3%, ngành thiết bị điện tử 12,8%, ngành
khoáng chất và vật liệu xây dựng 11,9%, ngành nhựa 8,2%, ngành dệt may
da 3,3%, các ngành khác dưới 1%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2020 là: 2,8 triệu tấn
gạo, 20.000 tấn bánh phồng tôm, 60.000 tấn bột, 30.000 tấn trái cây sơ chế,
20 triệu lít nước trái cây giải khát, 25.000 tấn rau quả đóng hộp, 20.000 tấn
thực phẩm đóng hộp, 160.000 tấn thủy sản đông lạnh, 30 triệu sản phẩm
may mặc, 30 triệu đôi giày xuất khẩu, 900.000 sản phẩm điện tử các loại,
sản phẩm nhựa 50.000 tấn, thuốc viên 24.216 triệu viên…
b. Nông nghiệp:
Phát triển nông nghiệp theo hướng kỹ thuật cao làm hạt nhân phát
triển toàn nền nông ngư nghiệp đặc biệt là nuôi cá nước ngọt, giống cây ăn
trái, hoa kiểng, xây dựng khu nông nghiệp kỹ thuật cao.
Ổn định diện tích canh tác lúa 200.000 ha, sản lượng 2,4 đến 2,5
triệu tấn lúa/ năm; cây ăn trái 29.000 ha, sản lượng 406.000 tấn, trong đó
khoảng 67.000 tấn trái cây có múi, 152.000 tấn xoài, 70.000 tấn nhãn; sản



Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 23

lượng heo 84.000 tấn (năm 2020); sản lượng nuôi trồng thủy sản dự kiến
533.500 tấn cá, 16.500 tấn tôm.
c. Đô thị:
Thị xã Cao Lãnh đã được nâng lên thành phố vào cuối năm 2006,
phấn đấu trở thành thành phố loại 2 vào năm 2020; thị xã Sa Đéc hoàn
thành các tiêu chí đô thị loại 3 vào năm 2010 và sẽ hình thành 4 đô thị loại
4 tại Hồng Ngự, Mỹ An, Lấp Vò, Mỹ Thọ. Đồng thời đầu tư nâng cấp các
thị trấn hiện có và một số khu đô thị mới liền kề các khu công nghiệp lên
thi trấn tiêu chuẩn đô thị loại 5. Như vậy hệ thống đô thị của Tỉnh bao gồm
đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh sẽ hình thành đô thị thương mại dịch
vụ và công nghiệp qua mạng lưới thu mua, chế biến, phân phối và tiêu thụ
sản phẩm.
d. Hệ thống kết cấu hạ tầng:
Xây dựng cảng Đồng Tháp thành cảng trung chuyển hàng hóa cho
khu công nghiệp, cảng Hồng Ngự thành cảng trung chuyển hàng hóa với
Campuchia. Nâng cấp và mở rộng các tuyến giao thông huyết mạch, hệ
thống giao thông nối liền các khu công nghiệp với vùng nguyên liệu.
e. Dân số:
Dự báo dân số tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020 là 1.910.100 người,
dân số trong độ tuổi lao động là 1.241.590 người, tỷ lệ lao động có công ăn
việc làm vững chắc chiếm 83,7% dân số trong độ tuổi lao động; tỷ lệ lao
động qua đào tạo 680.460 người chiếm 54,81% dân số trong độ tuổi lao
động. Trình độ đào tạo dự kiến: tỷ lệ sơ cấp truyền nghề chiếm 64,29% dân
số trong độ tuổi lao động; tiếp theo là tỷ lệ công nhân kỹ thuật, nhân viên

nghiệp vụ có bằng (10,82%); trung học chuyên nghiệp (8,74%); cao đẳng,
đại học, sau đại học (16,15%).


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 24

Phần thứ Hai
HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THƯƠNG MẠI
TỈNH ĐỒNG THÁP
1. Vị trí vai trò của ngành Thương mại Đồng Tháp.
1.1. Vị trí, vai trò của ngành Thương mại Tỉnh trong ngành
Thương mại cả nước.
Nhìn chung GDP ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp (giá so sánh
1994) đạt ở mức thấp, năm 2000 chỉ đạt 362,1 tỷ đồng chiếm 0,67% trong
GDP thương mại toàn quốc, đến năm 2007 đạt 980,62 tỷ đồng chiếm 1,3%,
qua đó cho thấy đóng góp của ngành Thương mại Tỉnh trong GDP của
thương mại cả nước mặc dù có tăng lên nhưng tỷ trọng không đáng kể.
Hàng năm ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp tạo thêm hàng chục
ngàn lao động cho Tỉnh, nhưng so với lao động toàn ngành Thương mại,
lao động thương mại Đồng Tháp chiếm tỷ lệ thấp (trên dưới 2%). Chất
lượng lao động không cao, đến năm 2006 trình độ lao động từ cao đẳng, đại
học trở lên chỉ có 1.401 người, chiếm 1,31%/lao động thương mại; trung
học chuyên nghiệp 2.062 người chiếm 1,93%. Nhìn chung chất lượng lao
động ngành Thương mại nói riêng, chất lượng lao động toàn tỉnh Đồng
Tháp nói chung (lao động được đào tạo chính quy) là rất thấp chỉ đạt
7,78%, trong khi đó bình quân vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 11,55%
và cả nước là 19,62%.
Theo quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng Đồng bằng sông

Cửu Long đến năm 2020, với thế mạnh về sản xuất lúa gạo, cây ăn trái,
thủy sản… trong giai đoạn 2001- 2005, ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp
cùng ngành Thương mại của các Tỉnh có nét tương đồng trong vùng, đã có
những đóng góp đáng kể vào tổng mức bán lẻ hàng hoá và kim ngạch xuất
khẩu của Tỉnh cũng như của Vùng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tỉnh Đồng
Tháp tăng trưởng bình quân 15,8%/ năm, góp phần nâng tổng mức bán lẻ
hàng hóa vùng đạt tốc độ tăng bình quân 14,7%/năm; kim ngạch xuất khẩu
Đồng Tháp năm 2005 đạt 167,4 triệu USD, góp phần đưa kim ngạch xuất
khẩu của toàn vùng đạt khoảng 3 tỷ USD, chiếm 8% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân giai đoạn
2001-2005 đạt khoảng 17,6%/năm, xấp xỉ tốc độ tăng chung của cả nước.
1.2. Vị trí vai trò của ngành Thương mại trong nền kinh tế của Tỉnh.
Giá trị tăng thêm (theo giá so sánh 1994) của ngành Thương mại
năm 2001 đạt 404.527 triệu đồng chiếm 8,18%, đến năm 2005 tăng lên
698.570 triệu đồng chiếm 9,42% trong tổng GDP của Tỉnh. Qua đó cho
thấy mức độ đóng góp từ năm 2001 đến năm 2005 đã có mức tăng đáng kể,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP của Tỉnh đạt tốc độ tăng bình quân


Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020

Trang 25

giai đoạn 2001-2005 là 9,93%/năm. Năm 2006, GDP ngành Thương mại
tiếp tục phát triển đạt 814.141 triệu đồng, tăng 16,54 % so với năm 2005,
chiếm 9,6% trong tổng GDP toàn Tỉnh. Năm 2007 GDP ngành Thương mại
đạt 980.621 triệu đồng, tăng 20,45% so với năm 2006 và chiếm 10 % GDP
toàn Tỉnh.
Ngành Thương mại của Tỉnh trong thời kỳ đổi mới đã thực sự phát
huy được chức năng cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, thông qua thương

mại mà sản xuất tạo ra các sản phẩm theo của thị trường cả số lượng chất
lượng, mẫu mã…đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Ngành Thương
mại Tỉnh đã có những đóng góp đáng kể trong việc đổi mới cơ cấu sản
xuất, mở rộng quy mô, cải tiến công nghệ, qua đó đã đóng góp tích cực vào
việc lôi kéo ngành công nghiệp chế biến và ngành nông, thủy sản phát
triển. Doanh số mua bán giai đoạn 2000 - 2005 cho thấy đều tăng qua các
năm. Các mặt hàng nhập là lúa gạo cho xay xát, vật tư máy móc cho sản
xuất nông nghiệp, gỗ sắt thép cho xây dựng, xăng dầu, phân bón cho sản
xuất nông nghiệp, nguyên liệu may, nguyên liệu dược cho ngành may,
ngành dược,… Các mặt hàng xuất quan trọng là gạo, các sản phẩm chế
biến từ gạo, thủy sản đông lạnh, thuốc lá, quần áo may mặc sẵn, thuốc tân
dược các loại, trái cây, rau đậu các loại, hàng thủ công mỹ nghệ... đều tăng
qua các năm. Thông qua hoạt động mua bán, xúc tiến thương mại, khả
năng cạnh tranh hàng hóa nông phẩm của ngành nông nghiệp và ngành
công nghiệp chế biến đã được nâng lên đáng kể.
Cơ cấu lao động khu vực thương mại - dịch vụ năm 2000 là 87.625
người chiếm 9,57% tổng số lao động trong độ tuổi của Tỉnh, trong đó lao
động ngành Thương mại là 65.137 người chiếm 74,34% tổng số lao động
khu vực này. Đến năm 2005, số lao động của khu vực này đã tăng lên
137.939 người chiếm 13,26% tổng số lao động trong độ tuổi và lao động
ngành Thương mại cũng tăng lên 101.134 người chiếm 73,32% tổng số lao
động trong khu vực này; tốc độ tăng lao động trong khu vực thương mại
dịch vụ giai đoạn 2001-2005 là 9,5%, trong đó tốc độ tăng lao động khu
vực thương mại là 9,2%.
Bảng 3: Hiện trạng lao động và cơ cấu lao động tỉnh Đồng Tháp
ĐVT: Người
Tốc độ
TTTBQ
1996-2000


Tốc độ
TTBQ
2001-2005

1.040.139

3,36%

2,57%

31.032

29.097

2,23%

-1,28%

704.541

761.620

862.668

1,57%

2,52%

- Lao động khu vực 1


594.090

627.762

666.738

1,11%

1,21%

- Lao động khu vực 2

40.159

46.233

57.991

2,86%

4,64%

Năm
1995

Năm
2000

776.380


915.983

27.791

- Lao động ngành nghề

Diễn giải
- Lao động trong tuổi
- Lao động gia tăng

Năm
2005


×