Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tóm tắt LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN: XIN LỖI VÀ TIẾP NHẬN LỜI XIN LỖI CỦA NGƯỜI VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.31 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

XIN LỖI VÀ TIẾP NHẬN LỜI XIN LỖI
CỦA NGƯỜI VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ GIỚI
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ HỒNG NGÂN

HÀ NỘI - 2015


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giao tiếp có vai trò vô cùng quan trọng đối với con người. Nó không chỉ là hoạt động trao đổi thông tin, tư
tưởng, tình cảm giữa con người với con người trong xã hội mà còn có thể sử dụng để tạo lập, duy trì và củng cố mối
quan hệ giữa họ. Có nhiều phương tiện giao tiếp khác nhau nhưng giao tiếp bằng ngôn ngữ là hình thức phổ biến và
quan trọng nhất. Nhờ phương tiện ngôn ngữ, con người đã thực hiện rất nhiều hành động khác nhau để thể hiện những
ý định và cảm xúc của mình, trong đó, “xin lỗi” được sử dụng phổ biến và rộng rãi. Nhà văn Nikolai Vasilyevich
Gogol đã từng nói “Không có ai trên đời mà lương tâm không có vài tội lỗi”. Thật vậy, mỗi người chúng ta trong
cuộc sống này để làm đúng tất cả mọi việc mọi lúc, mọi nơi và không làm tổn thương ai là điều không hề dễ dàng.
Có lúc chúng ta cố tình mắc lỗi, sau đó, cảm thấy hổ thẹn. Nhưng cũng có lúc lỗi lầm xảy ra lại do chúng ta vô
tình. Song dù là vô tình hay cố ý thì một lời xin lỗi trong các tình huống đó là hoàn toàn hợp lý. Nhà văn Stephen
Gosson đã từng nói “Một lời xin lỗi vụng về vẫn tốt hơn là im lặng”. Do đó, việc sử dụng lời xin lỗi trong cuộc
sống hàng ngày là vô cùng cần thiết, bởi “xin lỗi” không chỉ đơn giản là giúp chúng ta nhận ra sai lầm của mình


để từ đó sửa sai và hoàn thiện mình hơn mà “xin lỗi” còn góp phần củng cố, tạo lập và cải thiện mối quan hệ với
mọi người xung quanh, đồng thời thể hiện nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt. Như vậy, con người sử
dụng hành vi xin lỗi, ngoài mục đích xin lỗi còn có nhiều những ý định và cảm xúc khác nhau, do đó cũng dẫn đến
những sự tiếp nhận rất khác nhau. Với mỗi giới, việc thực hiện hành vi xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi cũng có nhiều
điểm không giống nhau.
Trong đời sống văn hóa – xã hội, “xin lỗi” không chỉ là một nghi thức giao tiếp cần thiết mà còn là nét văn
hóa ứng xử của người Việt. Nói lời xin lỗi trong giao tiếp không chỉ thể hiện sự hối lỗi của người nói trước một sự
việc không nên do mình gây ra, mà trong nhiều trường hợp, nó còn thể hiện phép lịch sự, sự tôn trọng của người nói
đối với người nghe.
Từ góc độ dụng học, xin lỗi là một hành động ngôn ngữ hướng tới nhu cầu xoa dịu thể diện của
người tiếp nhận và có ý muốn sửa lại cho đúng một sự vi phạm mà người xin lỗi biểu lộ trách nhiệm, giúp tái
thiết sự cân bằng giữa người xin lỗi và người tiếp nhận. Hay nói cách khác, xin lỗi là hành động xin được tha
thứ vì đã biết lỗi.
Từ góc độ ngôn ngữ học xã hội, hành vi xin lỗi được nghiên cứu theo quan hệ tương tác giao tiếp có
sự phân tầng về xã hội. Theo định hướng này, với tư cách là một biến thể, hành vi xin lỗi và tiếp nhận lời xin
lỗi được xem xét dưới tác động của các biến xã hội như tuổi, địa vị, giới, nghề nghiệp, học vấn… của người
xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi.
Như vậy, theo cách nhìn của ngôn ngữ học xã hội, giới là một trong những biến xã hội quan trọng có
tác động mạnh mẽ vào hoạt động giao tiếp của con người, trong đó có hành vi xin lỗi. Và nếu như trong ngôn
ngữ học xã hội có “phong cách ngôn ngữ của mỗi giới” thì tất sẽ có phong cách ngôn ngữ của mỗi giới ở
hành vi xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi.
Có thể nói, hành vi xin lỗi cho đến nay cũng được nghiên cứu nhiều ở góc độ dụng học và văn hóa,
nhưng chưa có công trình nào tìm hiểu, nghiên cứu sâu về sự tác động của nhân tố giới đến hành vi xin lỗi và

1


tiếp nhận lời xin lỗi trong tiếng Việt. Đây chính là lí do khiến tôi lựa chọn vấn đề “Xin lỗi và tiếp nhận lời
xin lỗi của người Việt nhìn từ góc độ giới” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử vấn đề

2.1. Các công trình nghiên cứu về hành vi xin lỗi từ góc độ ngôn ngữ
Vận dụng lý thuyết dụng học vào nghiên cứu các hành vi ngôn ngữ (HVNN) nói chung và hành vi
xin lỗi (HVXL) nói riêng trong khoảng thời gian gần đây cũng bắt đầu được các nhà ngôn ngữ quan tâm
nghiên cứu.
Các HVNN được thực hiện trong thực tiễn giao tiếp vô cùng phong phú và đa dạng như: mời, hỏi,
khen, chê, chào, chúc, tặng, cấm, cám ơn, hứa, cam kết, thề, giới thiệu, cảm thán, khuyên bảo, yêu cầu, tuyên
bố, miêu tả, kể, khẳng định, phủ định, nhận xét, đe dọa, phân tích, đánh giá, phê phán,đề nghị… Đã có rất
nhiều công trình đi sâu nghiên cứu các HVNN này. Hành vi xin lỗi là một trong những hành vi thuộc nghi
thức lời nói, được sử dụng phổ biến đến nhưng nghiên cứu về nó chưa thật đầy đủ và toàn diện. Dưới đây là
một số công trình chúng tôi đã khảo sát được:
Năm 1989, luận văn Thạc sĩ “Bước đầu tìm hiểu nghi thức lời nói tiếng Việt” của Nguyễn Văn Lập
đã đi vào phân loại, miêu tả các HVNN thuộc nghi thức lời nói tiếng Việt theo các phạm vi giao tiếp khác
nhau như phạm vi giao tiếp xã hội hóa; phạm vi giao tiếp của những hành vi bày tỏ thái độ về nhân cách, đạo
đức và phạm vi giao tiếp của những hành vi bày tỏ thái độ cầu khiến. Với hành vi xin lỗi, tác giả đã chia
thành hai loại tương ứng với hai phạm vi giao tiếp là phạm vi giao tiếp xã hội hóa và phạm vi giao tiếp của
những hành vi bày tỏ thái độ về nhân cách, đạo đức.
Ở phạm vi giao tiếp xã hội hóa, tác giả xác định hành vi xin lỗi với động từ “xin lỗi” như một tín
hiệu thu hút sự chú ý của người không quen để thông báo, yêu cầu, hỏi về một điều gì đó với thái độ lịch sự.
Tác giả đã đưa ra công thức ở dạng này như sau:
Xin lỗi B + làm ơn cho A (hỏi)…
Ví dụ:
(1) Xin lỗi, anh làm ơn xem hộ tôi mấy giờ rồi?
Ở phạm vi giao tiếp thứ hai – phạm vi giao tiếp của những hành vi bày tỏ thái độ về nhân cách, đạo
đức, tác giả khái quát những cách biểu hiện của hành vi xin lỗi như sau:
- Xin lỗi bằng động từ ngữ vi “xin lỗi”.
Ví dụ:
(2) Anh xin lỗi em!
- Xin lỗi bằng các động từ tha lỗi, thứ lỗi, tha thứ, lượng thứ.
Ví dụ:
(3) Dạ, thầy thứ lỗi cho con. Xin thầy thứ lỗi cho con!

- Xin lỗi bằng cách từ chối lịch sự.
Ví dụ:
(4) - Ấy! Ông ngồi chơi đã. Đi bây giờ nắng chết.
- Ông tha phép (cho)…! Tôi phải ra tỉnh ngay cho kịp.

2


- Xin lỗi bằng sự nhận lỗi.
Ví dụ:
(5) Bác, cháu thật có lỗi với bác!
Từ đó, tác giả đồng thời cũng đưa ra hai dạng lời đáp cho hành vi xin lỗi trong phạm vi giao tiếp này: Sp2
chấp nhận lời xin lỗi và Sp1 không chấp nhận lời xin lỗi.
Cũng theo hướng nghiên cứu này, Phạm Thị Thành trong luận án của mình (1995) đã đi sâu tìm hiểu
và chia các phát ngôn xin lỗi ra thành hai loại:
- Các phát ngôn xin lỗi được thực hiện một cách tường minh: là các phát ngôn có động từ ngữ vi
“xin lỗi”. Với kiểu HVXL này, tác giả đã kế thừa và phát triển quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Lập.
- Các phát ngôn xin lỗi được thực hiện một cách hàm ẩn: là các phát ngôn không chứa động từ ngữ
vi “xin lỗi”. Với kiểu HVXL này, tác giả bước đầu đưa ra được những cấu trúc xin lỗi gián tiếp. Đây chính là
điểm nổi bật trong công trình của tác giả.
Năm 2007, trong công trình “Hành vi xin lỗi của người Việt”, Trần Thị Kim Oanh dựa vào lý thuyết về
hành vi ngôn ngữ, lý thuyết về phép lịch sự đã phân tích, miêu tả các phát ngôn xin lỗi theo hai hình thức thể hiện
(trực tiếp và gián tiếp) trên các phương diện là cấu trúc, hoàn cảnh sử dụng và lời đáp.
- Với hành vi xin lỗi trực tiếp: Tác giả đưa ra cấu trúc là: dạng đầy đủ và dạng khuyết thiếu. Trong
hai hoàn cảnh sử dụng là: xin lỗi khi có lỗi thực sự và xin lỗi khi thực hiện mục đích khác. Lời hồi đáp được
thực hiện theo hai hướng là: hồi đáp tích cực và hồi đáp tiêu cực.
- Với hành vi xin lỗi gián tiếp: Tác giả đã chỉ ra những hành vi ngôn ngữ có khả năng thực hiện gián
tiếp hành vi xin lỗi là: cầu khiến, hỏi, phân trần, xác tín, ăn năn, phân trần – xác tín, phân trần – cầu khiến,
xác tín – hứa, cám đoan, xác tín – cầu khiến. Với mỗi hành vi cụ thể tác giả lại đưa ra những mô hình cấu
trúc, hoàn cảnh sử dụng và lời đáp tương ứng.

Năm 2009, trong luận văn Thạc sĩ “Xin lỗi, cám ơn – biểu hiện của phép lịch sự trong văn hóa ứng
xử người Việt”, Nguyễn Thị Thủy đã trình bày khái quát về phép lịch sự, về hành vi xin lỗi và hành vi cám
ơn. Đặt hai hành vi xin lỗi và hành vi cám ơn trong mối tương quan với phép lịch sự của người Việt. Tác giả
kết luận hành vi xin lỗi có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt
Nam.
Gần đây nhất, năm 2013, trong khóa luận tốt nghiệp “Sự biến đổi của lời xin lỗi và lời cảm ơn trong
giao tiếp tiếng Việt từ năm 1930 đến nay”, Nguyễn Thị Lành qua khảo sát sự xuất hiện của lời xin lỗi, cảm
ơn trong các tác phẩm văn học từ năm 1930 đến nay đã chỉ ra rằng, lời xin lỗi trong các giai đoạn 1930 –
1954, 1954 – 1975 và từ 1975 đến nay có một số biến đổi nhất định. Theo thời gian, nếu sự biến đổi trong
giai đoạn 1954 – 1975 còn mờ nhạt thì giai đoạn từ năm 1975 đến nay lại có những thay đổi đậm nét hơn.
Nếu ở giai đoạn trước hình thức xin lỗi sử dụng động từ ngữ vi xin lỗi kèm điệu bộ, cử chỉ thì từ năm 1975
đến nay ngoài việc sử dụng hành vi xin lỗi có chứa động từ ngữ vi xin lỗi, còn sử dụng những cái bắt tay, vỗ
vai thân thiện thỉnh cầu sự tha thứ ở người phạm lỗi, có khi là những nụ cười tỏ ý xin lỗi.

3


Như vậy, tuy không nhiều và chưa thật sâu, hành vi xin lỗi cũng đã được tìm hiểu cả ở phương diện
ngữ nghĩa lẫn cấu trúc với những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, hành vi xin lỗi từ góc độ giới cho đến nay
chưa có đề tài, luận văn nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết.
2.2. Các công trình nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ, hành vi xin lỗi từ góc độ giới
Có rất nhiều công trình đi sâu nghiên cứu các HVNN từ các góc độ khác nhau như cấu trúc, tương tác hội
thoại, lịch sự... Chẳng hạn, nghiên cứu HVNN từ góc độ tương tác hội thoại có một số công trình sau: hành vi chê
(Nguyến Thị Hoàng Yến, luận văn thạc sĩ 2000, luận án tiến sĩ 2006), hành vi cam kết (Vũ Tố Nga, 2000), hành
vi thỉnh cầu (Nguyễn Thị Vân Anh, 2001), hành vi điều khiển (Trịnh Thanh Hà, 2001), hành vi trách (Nguyễn
Thu Hạnh, 2004), hành vi khen (Trần Thị Lan Anh, 2005), hành vi mỉa mai (Nguyễn Minh Huệ, 2007), hành vi
xin lỗi (Trần Thị Kim Oanh, 2007)… Song, không có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu HVNN, đặc biệt là
HVXL từ góc độ giới – một biến xã hội rất quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội. Theo khảo sát của
chúng tôi, cho đến nay mới chỉ có một số công trình đi sâu nghiên cứu các hành vi ngôn ngữ từ góc độ giới. Đó là:
Luận án Tiến sĩ “Đặc điểm ngôn ngữ giới trong giao tiếp tiếng Việt (qua hành vi khen và tiếp nhận

lời khen)” của Phạm Thị Hà (2013) đã nghiên cứu hành vi khen theo hướng của ngôn ngữ học xã hội. Tác
giả đã xem hành vi khen như một biến xã hội và việc sử dụng hành vi khen – tiếp nhận lời khen có sự phân
biệt khá rõ giữa các giới. Cụ thể:
- Đối với khen: Tác giả chỉ ra rằng, chiếm tỉ lệ cao là lời khen dành cho nữ, trong đó cao nhất là nam
khen nữ, tiếp đó là nữ khen nữ và nữ khen nam, chiếm tỉ lệ khiêm tốn nhất là nam khen nam. Hình thức khen gián
tiếp xuất hiện chủ yếu khi nam khen nữ và nữ khen nữ. Trong lời khen, khi nam khen nữ và nữ khen nữ rất ưa sử
dụng các tình thái từ làm yếu tố tăng cường cho lời khen. Nữ khen nam ít sử dụng tình thái từ hơn và nam khen
nam là cặp giao tiếp có số lượng tình thái từ được sử dụng hạn chế nhất. Về chủ đề khen, với 13 chủ đề có mặt
trong các lời khen về ngoại hình, nam giới chỉ chiếm ưu thế trong việc nhận được lời khen về ngoại hình nói
chung, phong thái và trang phục. Hầu hết các chủ đề còn lại như: dáng, da, mắt, nụ cười, khuôn mặt… đều dành
cho nữ giới.
Đối với tiếp nhận lời khen, nữ giới sử dụng triệt để 8 chiến lược hồi đáp khen bằng lời gồm: cảm ơn,
chia sẻ kinh nghiệm, khẳng định lời khen, khen phản hồi, hỏi lại, phủ định lời khen, giảm bớt mức độ khen và
không hồi đáp vào nội dung khen. Trong khi đó, nam giới sử dụng ít hơn và nhiều khi lấy sự im lặng để thay
cho trẻ lời.
Đây là những phát hiện khá mới mẻ và là tiền đề cho một chuỗi các công trình nghiên cứu theo
hướng này ra đời.
Trong công trình “Hành vi chê và tiếp nhận lời chê của người Việt nhìn từ góc độ giới khảo sát
trong một số tác phẩm văn học”, Vũ Thị Mai Hương đã tiến hành phân tích làm rõ mối quan hệ giữa hành
động chê và giới tính qua một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam sau 1986 ở các phương diện cụ thể là:
- Cấu trúc – chiến lược chê: Tác giả chỉ ra rằng cấu trúc – chiến lược chê của nam giới thường mang
tính áp đặt, còn nữ giới thường mang tính mềm mỏng, lịch sự.
- Đối tượng bị chê: Tác giả xác định nam giới lấy đối tượng bị chê là bản thân mình nhiều hơn nữ
giới, còn nữ giới lại có xu hướng lựa chọn đối tượng bị chê là ngôi thứ ba nhiều hơn.

4


- Nội dung chê: Tác giả cho rằng nam giới có xu hướng lựa chon nội dung chê là hành động, còn nữ
giới có xu hướng lựa chọn nội dung chê là đạo đức, phẩm chất.

Trong công trình“Hành vi chào và tiếp nhận lời chào của người Việt nhìn từ góc độ giới (khảo sát
trong giới học sinh – sinh viên)”, Dương Thị Minh Hạnh đã tiếp cận hành vi chào trong sự so sánh về cách
sử dụng lời chào giữa các giới. Phạm vi của đề tài được giới hạn trong giới học sinh – sinh viên nên đã được
tác giả tiến hành khá cụ thể, từ đó đưa ra kết quả khảo sát và những nhận xét rất chân thực về cách sử dụng,
tần suất và cấu trúc lời chào theo từng giới ở lứa tuổi này. Cụ thể, tác giả xác định học sinh – sinh viên nam
ưa sử dụng kiểu chào trực tiếp, tích cực, ngắn gọn, ít động chạm tới thể diện, tránh vấn đề liên quan đến đời
tư và bình giá chủ quan. Còn học sinh – sinh viên nữ lại thường sử dụng kiểu chào gián tiếp nhằm đảm bảo
sự tế nhị, kín đáo, mang biểu cảm, cảm xúc.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu trên cơ sở của tư liệu tiếng Việt hoặc theo hướng đối chiếu
(tiếng Việt với các ngôn ngữ khác) đã chỉ ra tác động của giới đối với giao tiếp ngôn ngữ của người Việt:
– Nghiên cứu vấn đề lịch sự gắn với yếu tố giới: Vũ Thị Thanh Hương “Giới tính và lịch sự”; Vũ
Tiến Dũng “Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính(qua một số hành động nói)”.
– Nghiên cứu giao tiếp tiếng Việt của người Việt dưới tác động của nhân tố giới có: Nguyễn Đức Thắng
“Về giới và ngôi ở những từ xưng hô trong giao tiếp tiếng Việt”– Nghiên cứu về sự tác động của yếu tố giới tới
tư duy ngôn ngữ có Nguyễn Trà My “Tác động của nhân tố giới tính đến sự sử dụng ngôn ngữ và tư duy của
người Việt (khảo sát trên đối tượng là sinh viên)”.
– Nghiên cứu đối chiếu sự tác động của nhân tố giới tới sử dụng ngôn ngữ giữa tiếng Việt với các
ngôn ngữ khác. Ví dụ: Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Thị Hải Yến nghiên cứu đối sánh “Đặc trưng ngôn ngữ
- văn hóa trong hành vi chào hỏi Nga – Anh – Việt” và nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Vân về
“Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của hành động chào hỏi trong tiếng Đức và tiếng Việt”.
Một số công trình nghiên cứu quan niệm về giới cũng như sự kì thị về giới nữ được thể hiện trong
ngôn ngữ và qua đó góp phần vào việc kế hoạch hóa ngôn ngữ chống kì thị, tạo ra sự bình đẳng về giới. Ví
dụ: Nguyễn Văn Khang “Kế hoạch hóa ngôn ngữ về chống kì thị giới tính”, Nguyễn Văn Khang “Xã hội học
ngôn ngữ về giới: Kỳ thị và kế hoạch hóa ngôn ngữ chống kì thị đối với nữ giới trong việc sử dụng ngôn
ngữ”.
Mặc dù đã có một số công trình đi sâu vào nghiên cứu các hành vi ngôn ngữ theo hướng của ngôn
ngữ học xã hội xong mới chỉ xuất hiện ở hành vi khen, chê, chào, trong khi hành vi ngôn ngữ còn rất nhiều
kiểu hành vi khác nhau, trong đó có hành vi xin lỗi – được sử dụng thường xuyên cuộc sống hàng ngàylại
chưa được nghiên cứu. Vì vậy, chúng tôi quyết định tiến hành đi sâu nghiên cứu khảo sát hành vi xin lỗi và
tiếp nhận lời xin lỗi dưới sự tác động của nhân tố giới để làm rõ thêm mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu HVXL từ góc độ giới để tìm ra những sự khác nhau khi thực hiện và
tiếp nhận hành vi này giữa giới nam và giới nữ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích như vừa nêu ở trên, luận văn cần hoàn thành những nhiệm vụ sau:

5


- Thứ nhất, đưa ra những kiến thức khái quát về hành vi ngôn ngữ, về ngôn ngữ học xã hội, đặc biệt
là ngôn ngữ và giới.
- Thứ hai, tìm hiểu về hành vi xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi từ góc độ giới.
- Thứ ba, thống kê – khảo sát – điều tra: Chúng tôi tiến hành thống kê, khảo sát ngữ liệu trong các
tác phẩm của một số tác giả là Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan… và trong cuộc sống hàng ngày.
4. Đối tượng và tư liệu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hành vi xin lỗi và hành vi tiếp nhận lời xin lỗi.
- Tư liệu mà chúng tôi thu thập chủ yếu theo bằng hai nguồn là giao tiếp nói và giao tiếp viết.
+ Đối với tư liệu từ giao tiếp nói, luận văn tiến hành thu thập tư liệu bằng cách ghi âm, quan sát ghi
chép và tiến hành phỏng vấn.
+ Luận văn sử dụng tư liệu từ các phim phát sóng trên các chương trình truyền hình của Việt Nam.
+ Đối với tư liệu từ giao tiếp viết, luận văn tiến hành thu thập tư liệu từ một số tác phẩm văn của một số tác
giả là Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… và trong cuộc sống hàng
ngày.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thiện được luận văn này chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phỏng vấn sâu: Sử dụng phương pháp này, chúng tôi tiến hành phỏng vấn theo cách trò chuyện để thu thập
thông tin về lời xin lỗi.
- Nhập thân vào vai giao tiếp: Cách điều tra này đòi hỏi chúng ta tham gia trực tiếp vào cuộc trò

chuyện (trở thành một vai giao tiếp). Khi gặp gỡ, trò chuyện, bản thân mình cố gắng dẫn cuộc trò chuyện có
liên quan đến xin lỗi và hồi đáp xin lỗi để thu thập tư liệu. Chẳng hạn, chúng tôi sử dụng lời xin lỗi kèm theo
việc làm phiền tới người khác: nhờ xem hộ giờ đồng hồ, xin đi nhờ xe… Trong các cuộc bàn bạc như vậy sẽ
xuất hiện các lời xin lỗi và hồi đáp xin lỗi.
- Quan sát: Có thể nói, đi tới đâu, gặp gỡ bất cứ ai chúng ta cũng có thể bắt gặp những cuộc giao tiếp
bắt đầu với lời xin lỗi. Bởi vậy, ta có thể cố gắng quan sát và ghi chép khi lời xin lỗi và hồi đáp lời xin lỗi xuất
hiện.
- Điều tra bằng anket: Chúng tôi xây dựng anket theo hai cách là mở và đóng: ngoài những câu hỏi
có sẵn các phương án trả lời để cộng tác viên lựa chọn còn có những câu hỏi mở để cộng tác viên phát biểu ý
kiến, suy nghĩ của mình.
- Việc chọn mẫu điều tra: trong hai loại mẫu chủ ý và mẫu ngẫu nhiêu, chúng tôi sử dụng chủ yếu là
mẫu ngẫu nhiên. Lí do là phạm vi tư liệu rộng và nhiều, nếu chọn mẫu chú ý sẽ có thể làm hạn chế tư liệu
nên chúng tôi sử dụng mẫu ngẫu nhiên để có cho nguồn tư liệu được phong phú hơn.
- Thủ pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi tiến hành thống kê các ngữ liệu về hành vi xin lỗi và tiếp
nhận lời xin lỗi của cả nam và nữ ở phạm vi rộng, cả trong văn chương và giao tiếp hàng ngày. Sau đó, tiến
hành phân loại chúng theo các nội dung cần phân tích như: hành vi xin lỗi dưới sự tác động của nhân tố giới,
hành vi tiếp nhận lời xin lỗi dưới sự tác động của nhân tố giới, cấu trúc của hành vi xin lỗi, cấu trúc của hành
vi tiếp nhận lời xin lỗi…

6


- Phương pháp phân tích, miêu tả kết hợp với phương pháp so sánh, đối chiếu: Chúng tôi tiến hành
phân tích và miêu tả các ngữ liệu tìm được về hành vi xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi. Từ đó tiến hành so sánh
đối chiếu để tìm ra sự giống và khác nhau giữa nam và nữ trong việc sử dụng lời xin lỗi và tiếp nhận lời xin
lỗi.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa lí luận
Về mặt lí luận, chúng tôi thực hiện luận văn này nhằm góp phần vào việc nghiên cứu để làm sáng tỏ
thêm lí thuyết hành vi ngôn ngữ và lí thuyết của ngôn ngữ học xã hội cụ thể là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và

giới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, chúng tôi thực hiện luận văn này nhằm góp phần vào việc nghiên cứu hành vi xin
lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi của người Việt thông qua giao tiếp dưới tác động của nhân tố giới. Trên cơ sở đó
thấy được những sự khác biệt về lối ứng xử văn hóa – ngôn ngữ từ góc độ giới của người Việt.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tối có cấu trúc như sau: Ngoài phần mở đầu, phần nội dung của luận văn được
chia thành 3 chương là :
Chương 1. Cơ sở lí luận.
Chương 2. Đặc điểm của hành vi xin lỗi của người Việt nhìn từ góc độ giới.
Chương 3. Đặc điểm của hành vi tiếp nhận lời xin lỗi của người Việt nhìn từ góc độ giới.

7


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Lí thuyết chung về ngữ dụng học
1.1.1. Cặp thoại
Khi nghiên cứu hành vi ngôn ngữ không thể tách rời nó với hội thoại, vì thông qua hội thoại, tất cả
các vấn đề thuộc về giao tiếp bằng ngôn ngữ của con người đều được bộc lộ như: hành vi ngôn ngữ, chiếu
vật và chỉ xuất, vấn đề tính lịch sự, lập luận...
Hội thoại là do những đơn vị ở những bậc khác nhau tạo nên, những đơn vị cấu trúc của hội thoại
được chia thành hai nhóm đơn vị sau đây:
- Nhóm 1: Là những đơn vị lưỡng thoại. Những đơn vị này do cả người nói và người nghe tạo nên,
bao gồm: cuộc thoại, đoạn thoại và cặp thoại.
- Nhóm 2: Là những đơn vị đơn thoại do một nhân vật hội thoại tạo ra và nằm trong một lần trao lời,
gồm có: tham thoại và hành vi ngôn ngữ.
Cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại nhỏ nhất, còn gọi là cặp trao đáp hay cặp kế cận, gồm một hành vi
dẫn nhập và một hành vi hồi đáp, hoặc có thể hơn hai hành vi. Đây là đơn vị cơ sở quan trọng cấu thành hội

thoại, nó do các tham thoại của người nói và người nghe đi với nhau tạo nên.
1.1.2. Hành vi ngôn ngữ
1.1.2.1. Định nghĩa, phân loại các hành vi ngôn ngữ
Hành vi ngôn ngữ (speech act): vốn có nhiều cách dịch là hành động ngôn ngữ, hành động ngôn từ,
hành động nói... Với cách dịch là hành vi ngôn ngữ thì hành động này được hiểu là hành vi được thực hiện
bằng phương tiện ngôn ngữ.
Theo J. L Austin, có 3 loại hành vi đó là hành vi tạo lời (act locutoire), hành vi mượn lời (act
perlocutoire) và hành vi ở lời (act illocutoire). Trong đó:
Hành động ở lời lại được phân ra thành nhiều loại khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có sự thống
nhất giữa các nhà nghiên cứu về việc phân loại các hành động này bởi các hành động này có số lượng rất lớn.
Dưới đây chúng tôi chỉ đưa ra một số cách phân loại đáng chú ý như sau:
Trước tiên là Austin, ông đã dựa trên sự liệt kê của Wittgenstein về các hành vi ngôn ngữ trước đó
và phân loại thành 5 phạm trù, đó là:
(1) Phán xử: xử trắng án, miêu tả, phân tích, đánh giá, phân loại…
(2) Hành xử: ra lệnh, chỉ huy, khẩn cầu, xin, khuyến cáo, biện hộ cho và các hành vi ngôn ngữ như:
bổ nhiệm, đặt tên, tuyên bố khai mạc…
(3) Cam kết: hứa hẹn, bày tỏ lòng mong muốn, giao ước, bảo đảm, thề nguyền…
(4) Trình bày: khẳng định, phủ định, chối, trả lời, phản bác…
(5) Ứng xử: xin lỗi, cám ơn, khen ngợi, chào mừng, phê phán, chia buồn, ban phước, nguyền rủa,
thách thức, nghi ngờ…
Như vậy, theo Austin, hành vi xin lỗi thuộc phạm trù Ứng xử.

8


Tiếp theo là cách phân loại của Searle. Ông đã chỉ ra những hạn chế trong cách phân loại của Austin
và đưa ra cách phân loại của bản thân mình dựa trên tiêu chí là “12 điểm khác biệt giữa các hành vi ngôn
ngữ”. Cụ thể ông phân ra thành 5 loại hành vi ở lời như sau:
(1) Tái hiện (representatives):: tán thành, khẳng định, xác nhận, giải thích…
(2) Điều khiển (directives, directifs):: ra lệnh, yêu cầu, đề nghị, cho phép, cấm, khuyên...

(3) Cam kết (commissives, commissifs): thề, hứa hẹn, cam đoan, tặng, biếu…
(4) Biểu cảm (expositives, expossitifs):: chúc mừng, khen ngợi, tán thưởng, cảm ơn, xin lỗi…
(5) Tuyên bố (declarations, declaratifs):: tuyên bố, kết tội, từ chức, khai trừ…
Như vậy, theo Searle, xin lỗi thuộc phạm trù biểu cảm.
Từ cách phân loại của Austn và Searle, chúng tôi nhận thấy, dù hành vi xin lỗi thuộc phạm trù Ứng
xử hay Biểu cảm thì cũng đều hướng tới mục đích để bày tỏ thái độ, tình cảm của người nói đối với người
nghe.
Tuy nhiên, các cách phân loại trên mới chỉ nhằm mục đích là hướng tới các hành động ở lời khi
chúng được sử dụng đúng với biểu thức của hành động ấy và chúng còn được gọi là các hành động ở lời trực
tiếp. Trong thực tế giao tiếp, còn xuất hiện những trường hợp mà hành động ở lời được sử dụng thông qua
một hành động ở lời khác. Từ đó dẫn đến quan điểm phân chia hành động ở lời thành hai loại đó là hành
động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp.
1.1.1.2. Biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi
(1) Biểu thức ngữ vi
Biểu thức ngữ vi là một kiểu cấu trúc biểu thị một hành vi ở lời. Biểu thức ngữ vi là dấu hiệu
ngữ pháp – ngữ nghĩa của các hành vi ở lời. Nhờ các biểu thức ngữ vi chúng ta nhận biết được các hành
vi ở lời. Austin đã dựa vào sự có mặt hay vắng mặt của động từ ngữ vi để chia biểu thức ngữ vi làm 2
loại:
1) Biểu thức ngữ vi tường minh (trực tiếp): là những biểu thức có chứa động từ ngữ vi có chức năng
ngữ vi.
2) Biểu thức ngữ vi nguyên cấp (hàm ẩn, gián tiếp): là biểu thức ngữ vi không chứa động từ ngữ vi
có chức năng ngữ vi.
(2) Động từ ngữ vi
Theo GS.TS Đỗ Hữu Châu: “Động từ ngữ vi là những động từ mà khi phát âm chúng ra cùng với
biểu thức ngữ vi (có khi không cần có biểu thức ngữ vi đi kèm) là người nói thực hiện luôn cái hành vi ở lời
do chúng biểu thị”. Ví dụ: mời, yêu cầu, ra lệnh, cấm, khuyên, chào hỏi, tuyên bố, khẳng định, xin lỗi, cam
kết, phê bình….
1.1.2. Hành vi xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi
1.1.2.1. Hành vi xin lỗi
Theo lí thuyết chung về hành vi ngôn ngữ, “xin lỗi” thuộc vào nhóm hành vi ở lời, nghĩa là khi phát

ngôn kết thúc thì cũng là lúc người nói thực hiện xong HVXL của mình.
Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, “xin lỗi” được hiểu là:
1. Xin được tha thứ vì đã biết lỗi.
2. Dùng để mở đầu lời nói một cách lịch sự khi có việc phải làm phiền tới người khác. [29, 1470]

9


Như vậy, đối với người Việt, “xin lỗi” không chỉ là một hành động để người thực hiện hành vi đó
nhận ra lỗi lầm của mình để sửa chữa và trở nên tốt đẹp hơn. “Xin lỗi” còn là biểu hiện của truyền thống ứng
xử văn hóa, là hành vi lịch sự trong các mối quan hệ xã hội.
HVXL có nhiều biểu hiện khác nhau nhưng xét về cách thức, nó được chia thành hai kiểu: xin lỗi
trực tiếp và xin lỗi gián tiếp.
- HVXL trực tiếp là hành vi có chứa ĐTNV xin lỗi và có BTNV xin lỗi. Ở dạng đầy đủ, hành vi xin
lỗi chứa cả 3 yếu tố là: chủ thể thực hiện hành vi xin lỗi Sp1, động từ ngữ vi thể hiện hành vi xin lỗi và chủ
thể tiếp nhận hành vi xin lỗi Sp2. Dạng này có cấu trúc là:
SP1+ ĐTNV (xin lỗi/cáo lỗi/tạ lỗi) + SP2.
- HVXL gián tiếp là hành vi không chứa ĐTNV xin lỗi mà mượn các HVNN khác như hỏi, cầu
khiến, xác tín,… để đưa ra lời xin lỗi ở dạng hàm ẩn, phụ thuộc vào ngữ cảnh.
1.1.2.2. Điều kiện sử dụng hành vi xin lỗi
Searle trên cơ sở phân tích một hành vi ở lời đó là hành vi “hứa” (tiếng Anh là “promise”) đã bổ
sung vào những điều kiện may mắn mà Austin đưa ra trước đó khiến cho chúng hoàn thiện hơn, ông gọi
chúng là điều kiện sử dụng, cụ thể là bốn điều kiện sau:
(1) Điều kiện nội dung mệnh đề.
(2) Điều kiện chuẩn bị.
(3) Điều kiện chân thành.
(4) Điều kiện căn bản.
Theo bốn điều kiện nói trên, chúng tôi có thể đưa ra các điều kiện sử dụng mà hành vi xin lỗi phải
đáp ứng là:
- Điều kiện nội dung mệnh đề: Hành động X do SP1 thực hiện có thể diễn ra trong quá khứ, hiện tại

hoặc tương lai.
- Điều kiện chuẩn bị: SP1 nghĩ rằng hành động X đã, sẽ, đang ảnh hưởng tiêu cực tới SP2.
- Điều kiện chân thành: SP1 thực sự hối hận vì hành động X của mình.
- Điều kiện căn bản: SP1 thực hiện hành vi xin lỗi nhằm mong SP2 tha thứ cho lỗi lầm của mình.
1.1.2.3. Động từ ngữ vi xin lỗi – biểu thức ngữ vi xin lỗi
(1) Động từ ngữ vi xin lỗi
Theo kết quả khảo sát của các nhà nghiên cứu đi trước, các động từ thuộc nhóm xin lỗi là: xin, tha,
xin lỗi, tha lỗi, thứ lỗi, tạ lỗi, cáo lỗi, lượng thứ, dung thứ, tha thứ, bỏ qua, bỏ quá, tha tội, thông cảm, xá tội,
đại xá… Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu có 3 động từ được sử dụng đúng với chức năng ngữ vi khi
chúng được sử dụng làm phương tiện thể hiện hành vi xin lỗi trực tiếp, nghĩa là người nói đồng thời thực
hiện hành vi xin lỗi mà động từ đó biểu thị. Đó là:
- Xin lỗi: là “xin được tha thứ vì đã biết lỗi” hay “dùng để mở đầu lời nói một cách lịch sự khi có
việc phải làm phiền tới người khác” [34,1470].
- Tạ lỗi: là “bày tỏ lòng biết ơn hay xin lỗi một cách trân trọng” [34,1136].
- Cáo lỗi: là “xin lỗi, xin thứ lỗi” [34,157].

10


Khi khảo sát ngữ liệu, chúng tôi dựa theo tiêu chí của ba động từ này để xác định hành vi xin lỗi từ
đó phân tích mục đích, cách sử dụng hành vi xin lỗi theo từng giới.
(2) Biểu thức ngữ vi xin lỗi
Căn cứ vào sự phân loại biểu thức ngữ vi, biểu thức ngữ vi xin lỗi cũng được chia ra thành hai loại
là:
- Biểu thức xin lỗi tường minh (trực tiếp): là những biểu thức có chứa một trong các động từ ngữ vi
thuộc nhóm xin lỗi động từ ngữ vi là xin lỗi, tạ lỗi, cáo lỗi…
- Biểu thức ngữ vi xin lỗi nguyên cấp (hàm ẩn, gián tiếp): Sử dụng biểu thức của hành vi khác để
thực hiện hành vi xin lỗi.
1.1.2.1. Hành vi tiếp nhận lời xin lỗi
Mọi HVNN đều đòi hỏi sự hồi đáp. Ngay như hành vi cảm thán người nói cũng mong muốn sự chia

sẻ, cảm thông. Đáng sợ nhất là lời nói bị rơi vào khoảng trống.
Khi nhận được một hành vi xin lỗi từ người khác thì người tiếp nhận sẽ tùy vào những trường hợp
khác nhau mà có những phản ứng tương thích với hành vi ngôn ngữ ấy. Do vậy, tương thích với HVXL trực
tiếp và gián tiếp cũng có các hành vi tiếp nhận lời xin lỗi (HVTNLXL) trực tiếp và gián tiếp.
1.2. Vấn đề giới
1.2.1. Phân biệt giới – giới tính
Trong đời sống xã hội hiện nay, có rất nhiều người nhầm lẫn giới và giới tính, thậm chí đánh đồng hai
thuật ngữ ấy là một. Tuy nhiên, chúng là hai thuật ngữ mang ý nghĩa hoàn toàn khác nhau và được phân biệt một
cách rõ ràng.
Tổ chức Y tế thế giới WHO phân biệt:
+ Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học và sinh lí học giúp phân biệt được đàn ông và phụ nữ. Ví dụ: hệ
xương của đàn ông phát triển hơn phụ nữ…
+ Giới chỉ các vai trò, hành vi, các hoạt động và các thuộc tính do quan niệm xã hội hình thành nên được
gọi là chuẩn mực của nam giới và nữ giới. Giới chỉ các quan niệm, mong đợi, và các chuẩn mực được công nhận
rộng rãi liên quan đến phụ nữ và đàn ông. Ví dụ: Ở Việt Nam, đàn ông thường tập trung vào vai trò sản xuất
(chẳng hạn: lao động kiếm sống, làm kinh tế…). phụ nữ thường đảm nhận vai trò tái sản xuất như việc nội trợ,
việc chăm con cái…).
Hoàng Phê trong cuốn Từ điển tiếng Việt chỉ ra rằng:
+ Giới tính là “ những đặc điểm chung phân biệt nam và nữ, giống đực với giống cái”.
+ Giới là “những lớp người trong xã hội được phân theo một đặc điểm rất chung nào đó như nghề nghiệp,
địa vị xã hội (giới báo chí, giới trí thức, giới quân sự)… đơn vị phân loại sinh học lớn nhất, trên ngành (giới thực
vật)”.
Trong tiếng Anh có hai từ tương đương với giới tính và giới là sex và gender. Sex được giải thích là “tình trạng
là đực hay là cái”. Gender được giải thích là “(i) Sự phân chia danh từ hay đại từ thành giống đực và giống cái; (ii) Sự
phân chia về giới tính”.

11


Như vậy, hiểu một cách khái quát, giới tính là thuật ngữ bao hàm những đặc điểm sinh học để phân

biệt giữa nam và nữ, giống đực và giống cái. Còn giới là thuật ngữ bao hàm những đặc điểm, vị trí, vai trò,
mối quan hệ về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ để phân biệt những lớp người khác nhau trong xã hội.
1.2.2. Giới với tư cách là biến xã hội trong nghiên cứu ngôn ngữ
Giới liên quan đến nhiều mặt, nếu không muốn nói là mọi mặt của đời sống con người. Vì thế chúng trở
thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành, trong đó đáng chú ý là các ngành như nhân chủng học, xã hội học,
dân tộc học, ngôn ngữ học. Có bao nhiêu nhóm xã hội trong xã hội thì tương ứng với chúng là bấy nhiêu phương
ngữ xã hội (sociatal dialect). Cùng với nghề nghiệp, tuổi tác, giới trở thành 1 trong 3 biến xã hội (variable) quan
trọng đối với nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội. Mối quan hệ giữa giới với ngôn ngữ được xem xét.
Thứ nhất, ngôn ngữ có chức năng phản ánh thực tại xã hội mà cụ thể ở đây là phản ánh cách nhìn
nhận về giới của con người, vì thế, những đặc điểm về giới sẽ được thể hiện trong ngôn ngữ, đó là sự khác
nhau về ngôn ngữ của mỗi giới
Thứ hai, ngôn ngữ có chức năng tác động vào tư duy, theo đó, ngôn ngữ có thể tác động, góp phần
vào thay đổi nhận thức của con người về giới. Đó chính là vai trò của ngôn ngữ đối với việc chống kì thị về
giới, nhằm tạo ra sự bình đẳng giới.
Robin Lakoff là người tiên phong trong những nghiên cứu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới.
Thứ nhất, nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn và giới, R.Lakoff tập trung vào phong cách ngôn ngữ
giới nữ. Đương nhiên, khi nói đến phong cách ngôn ngữ của nữ giới cũng là ngầm so sánh với phong cách
ngôn ngữ của nam giới.
Thứ hai, nghiên cứu sự kì thị giới trong ngôn ngữ từ đó mong muốn góp phần vào phong trào nữ quyền
(chống kì thị), R. Lakoff đã chứng minh rằng, sự kì thị về nữ giới thể hiện trong ngôn ngữ.
Theo hướng nghiên cứu của R.Lakoff, các nghiên cứu ngôn ngữ về giới sau này đã phát triển rất
mạnh. Dưới đây, tạm gác lại vấn đề thứ 2 (sự kì thị về giới thể hiện trong ngôn ngữ, vì không liên quan đến
khóa luận), chúng tôi tập trung điểm lại một số nghiên cứu tiếp theo về nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn
ngữ và giới, hay nói một cách cụ thể hơn theo cách nhìn của ngôn ngữ học xã hội, đó là, giới như một biến
xã hội trong nghiên cứu ngôn ngữ.
Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới ở Việt Nam cũng sớm được chú ý,tuy nhiên, theo Nguyễn Thị
Thanh Bình (2003), người đặt vấn đề và nghiên cứu một cách có hệ thống phải kể đến tác giả Nguyễn Văn
Khang. Trong bài “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ (trên cứ liệu gia đình người Việt)”, Nguyễn
Văn Khang (1996) cho rằng: “yếu tố giới tính là sự tồn tại có thực trong giao tiếp ngôn ngữ. Nó tồn tại từ hai
chiều: chiều tác động của giới tính đến việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ để giao tiếp và chiều thông qua

giao tiếp thì giới tính được bộc lộ” .Vấn đề này đã được tác giả trình bày một cách hệ thống thành một chương
và chuyên sâu tại ba cuốn sách về ngôn ngữ học xã hội.
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung xem xét việc sử dụng lời xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi của
nam giới và nữ giới trong tương quan so sánh, đối chiếu để thấy rõ sự khác biệt. Nói cách khác, luận văn đi
sâu nghiên cứu ngôn ngữ của giới, tức là, từng giới sẽ có cách sử dụng, mức độ, mục đích... lời xin lỗi và tiếp
nhận lời xin lỗi như thế nào.

12


Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, chúng tôi chủ yếu tập trung đưa ra những kiến thức khái quát về lí thuyết hành vi
ngôn ngữ, về hành vi xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi trong tiếng Việt và về vấn đề giới trong ngôn ngữ. Cụ
thể:
Về lí thuyết hành vi ngôn ngữ, chúng tôi đã đưa ra những phần kiến thức chung nhất, khái quát nhất
làm cơ sở cho việc phân tích hành vi xin lỗi và tiếp nhận xin lỗi như các loại hành vi ngôn ngữ, động từ ngữ
vi, biểu thức ngữ vi... Từ phần kiến thức chung này lại chỉ ra những phần kiến thức cụ thể có ý nghĩa quan
trọng nhất trong việc đi sâu nghiên cứu tìm hiểu hành vi xin lỗi và tiếp nhận xin lỗi, đó là hành vi ở lời, hành
động ngôn ngữ trực tiếp, hành động ngôn ngữ gián tiếp, biểu thức ngữ vi tường minh, biểu thức ngữ vi
nguyên cấp…
Về hành vi xin lỗi và tiếp nhận xin lỗi nói chung, vì đã được nghiên cứu bởi nhiều nhà nghiên cứu
nên chúng tôi chỉ tập trung chỉ ra hành vi xin lỗi và tiếp nhận xin lỗi trong giao tiếp tiếng Việt.
Về vấn đề giới trong ngôn ngữ, chúng tôi cũng đứng trên quan điểm của ngôn ngữ học xã hội như
một số nhà nghiên cứu trước đó, coi giới là biến tác động đến việc sử dụng ngôn ngữ của con người trong
mối quan hệ với các biến khác như: tuổi tác, địa vị, học vấn, nghề nghiệp… để tiến hành khảo cứu một cặp
hành vi ngôn ngữ cụ thể trong giao tiếp tiếng Việt, đó là hành vi xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi.

13



CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÀNH VI XIN LỖI
CỦA NGƯỜI VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ GIỚI
2.1. Đối tượng, phương pháp và kết quả khảo sát
2.1.1. Đối tượng khảo sát
Có nhiều cách thức khác nhau để thực hiện lời xin lỗi nhưng đối tượng khảo sát của chúng tôi trong
luận này là HVXL được thực hiện bằng lời.
2.1.2. Phương pháp và kết quả khảo sát
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát về cách sử dụng HVXL bằng các phương pháp là phỏng vấn và
anket, với các đối tượng sau:
350 em học sinh trường trung học phổ thông Nguyễn Trung Ngạn, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên –
có độ tuổi từ 15 đến 18. Trong nhà trường, từ nhỏ các em đã được học những phép tắc ứng xử tối thiểu là
chào, cảm ơn, xin lỗi... Vì vậy, các em là những người trưởng thành đủ để hiểu được nội dung các câu hỏi
trong bảng anket và trả lời các câu phỏng vấn của chúng tôi.
60 hộ dân (380 người) thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Các hộ này chủ yếu làm nông nghiệp,
một số hộ là gia đình công chức và buôn bán nhỏ. Các thành viên mà chúng tôi là những người từ 15 tuổi trở
lên, hoàn toàn khỏe mạnh và minh mẫn đủ khả năng trả lời phỏng vấn và các câu hỏi trong bảng anket.
40 hộ dân (270 người) thuộc quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Các hộ này chủ yếu là công chức,
một số là gia đình quan chức và buôn bán nhỏ. Các thành viên mà chúng tôi khảo sát cũng ở lứa tuổi từ 15
trở lên và đáp ứng được các điều kiệt về thể chất và tinh thần đủ để trả lời phỏng vấn và các câu hỏi trong
bảng anket.
Chúng tôi đã phát ra 1000 phiếu và thu về 860 phiếu, trong đó đã chọn lọc được số lượng phiếu của
nam là 430 và của nữ là 430.
Dưới đây là kết quả khảo sát tổng quát các kiểu xin lỗi trực tiếp và gián tiếp theo tiêu chí giới:
Kiểu xin lỗi

Xin lỗi trực tiếp

Xin lỗi gián tiếp

Giới

Nam (430)

63% (270/430)

32% (137/430)

Nữ (430)

37% (159/430)

68% (292/430)

Bảng 2.2. Kết quả khảo sát tổng quát các kiểu xin lỗi theo tiêu chí Giới
2.2. Một vài nhận xét về hành vi xin lỗi trong tiếng Việt từ góc độ giới
2.2.1. Mục đích của hành vi xin lỗi trong tiếng Việt
Đối tượng mà chúng tôi khảo sát trong luận văn là HVXL và nhân tố tác động là nhân tố giới. Người
được khảo sát phải trả lời các câu hỏi trong bảng hỏi của chúng tôi. Kết quả phần này liên quan đến mục đích
của mỗi giới khi thực hiện HVXL. Từ kết quả khảo sát thu được, chúng tôi có thể chỉ ra một số mục đích và
chức năng của HVXL trong tiếng Việt từ góc độ giới như sau:
- Mục đích thứ nhất, HVXL thể hiện sự ăn năn, hối lỗi và xin được tha thứ của người nói đối với
người nghe.

14


- Mục đích thứ hai, HVXL dùng để tạo lập, duy trì và củng cố mối quan hệ giữa người nói với người
nghe hoặc thay thế nghi thức gặp mặt.
- Mục đích thứ ba, HVXL dùng để mở đầu lời nói một cách lịch sự khi có việc phải làm phiền người
khác.
2.2.2. Mức độ xin lỗi giữa các giới

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát và sử dụng anket điều tra về mức độ sử dụng lời xin lỗi giữa hai giới
và thu được kết quả như sau:
Giới

Giới
Nam

Rất hay xin lỗi
Hay xin lỗi
Bình thường
Hiếm khi xin lỗi

Nữ
7% (30/430)
8% (34/430)
48% (206/430)
51% (219/430)
33% (142/430)
35% (151/430)
12% (52/430)
6% (25/430)
Bảng 2.3. Mức độ sử dụng lời xin lỗi giữa hai giới

Tiếp tục đi sâu vào khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy, với mỗi mục đích xin lỗi, mức độ sử dụng
lời xin lỗi giữa các giới lại khác nhau. Có thể hiểu rõ hơn thông qua bảng sau:
Mục đích
Thể hiện sự xin
được tha thứ

Tạo lập, duy trì và

củng cố mối quan

Mở đầu lời nói
một cách lịch sự

Giới

Mức độ
Nam

Nữ

Rất hay xin lỗi

21% (29/140)

23% (32/140)

Hay xin lỗi

56% (78/140)

61% (85/140)

Bình thường

19% (27/140)

14% (20/140)


Hiếm khi xin lỗi

4% (6/140)

2% (3/140)

Rất hay xin lỗi

15% (21/140)

10% (14/140)

Hay xin lỗi

62% (86/140)

53% (74/140)

Bình thường

19% (27/140)

26% (36/140)

Hiếm khi xin lỗi

4% (6/140)

11% (16/140)


Rất hay xin lỗi

19% (27/140)

17% (24/140)

Hay xin lỗi

58% (81/140)

53% (74/140)

Bình thường

20% (28/140)

26% (36/140)

Hiếm khi xin lỗi

3% (4/140)

4% (6/140)

Bảng 2.4. Mức độ sử dụng lời xin lỗi giữa hai giới đối với mỗi mục đích xin lỗi
2.2.3. Các kiểu cấu trúc – chiến lược xin lỗi nhìn từ góc độ giới
Tùy thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp, mức độ lỗi và mối quan hệ thân sơ mà mỗi
giới sử dụng các kiểu cấu trúc – chiến lược xin lỗi khác nhau. Tuy nhiên, sau khi khảo sát, chúng tôi nhận
thấy có hai kiểu cấu trúc – chiến lược phổ biến mà cả hai giới thường dùng là: kiểu cấu trúc – chiến lược xin
lỗi trực tiếp và kiểu cấu trúc – chiến lược xin lỗi gián tiếp.


15


Dưới đây, chúng tôi xin trình bày một cách cụ thể và rõ ràng hơn về các kiểu cấu trúc – chiến lược
này.
2.2.3.1. Các kiểu cấu trúc – chiến lược xin lỗi trực tiếp
Như đã trình bày ở chương 1, cấu trúc – chiến lược xin lỗi trực tiếp có thể tồn tại ở ba dạng là: dạng
đầy đủ, dạng khuyết thiếu và dạng mở rộng:
(1) Dạng đầy đủ
Ở dạng này, biểu thức ngữ vi gồm đầy đủ các thành phần trong cấu trúc là: chủ thể giao tiếp Sp1, đối
tượng giao tiếp Sp2 và động từ ngữ vi xin lỗi.
Dạng cấu trúc đầy đủ được mô hình hóa như sau:
Động từ ngữ vi
Sp1

(xin lỗi/xin… tạ lỗi/xin… cáo lỗi)

Sp2 (!)

Theo khảo sát của chúng tôi, ở dạng cấu trúc – chiến lược này, nữ giới sử dụng nhiều hơn nam giới:
nữ chiếm 91% (69/76) và so với nam giới chiếm 86% (65/76). Sở dĩ như vậy là do chịu sự ảnh hưởng của
truyền thống văn hóa Việt, người phụ nữ Việt từ nhỏ đã được dạy dỗ ăn nói nhẹ nhàng, tế nhị, kín đáo, chỉn
chu, còn đàn ông Việt từ nhỏ được dạy dỗ ăn to, nói lớn, thẳng thắn, gọn gàng, cô đọng
(2) Dạng khuyết thiếu
Theo khảo sát của chúng tôi, cấu trúc HVXL ở dạng khuyết thiếu có thể thiếu chủ thể xin lỗi Sp1;
đối thể xin lỗi Sp2 hoặc khuyết thiếu cả chủ thể và đối thể. Riêng động từ ngữ vi xin lỗi không thể vắng mặt
trong cả ba trường hợp trên.
Dạng này được mô hình hóa như sau:
Khuyết thiếu Sp1


Khuyết thiếu Sp2

Sp1
(Đại từ nhân xưng
hoặc tên gọi)

Khuyết thiếu cả Sp1
và Sp2

Động từ ngữ vi
(xin lỗi/xin… tạ lỗi/xin…
cáo lỗi)
Động từ ngữ vi
(xin lỗi/xin… tạ lỗi/xin…
cáo lỗi)
Động từ ngữ vi
(xin lỗi/xin… tạ lỗi/xin…
cáo lỗi)

Sp2
(Đại từ nhân xưng hoặc
tên gọi)

(3) Dạng mở rộng
a. Sử dụng thêm các từ chỉ mức độ: chân thành, thành thật, hết sức, ngàn lần…
Mô hình:
Sp1 + thành phần mở rộng (chân thành…) + ĐTNV xin lỗi + Sp2 (!)
b. Sử dụng thêm các tiểu từ tình thái: ạ, nhé…
Mô hình:

Sp1+ ĐTNV xin lỗi + Sp2 + thành phần mở rộng ạ, nhé (!)...
Xem xét dưới góc độ giới, chúng tôi nhận thấy cả nam giới và nữ giới đều sử dụng được hai mô hình
xin lỗi trên, tuy nhiên ở mô hình (a) thì nam giới hay sử dụng hơn nữ giới, còn mô hình (b) thì nữ giới lại hay
sử dụng hơn nam giới. Sở dĩ có kết quả như vậy vì đa số nam giới Việt Nam cho rằng họ là người đàn ông,

16


đối với đối tượng giao tiếp họ luôn muốn thẳng thắn bày tỏ cảm xúc của mình, đặc biệt là giữa những người
cùng giới với nhau, còn đối với những người khác giới thì ngoài việc bày tỏ cảm xúc thẳng thắn của mình họ còn
muốn sử dụng thêm một số từ đánh giá mức độ để thể hiện sự chân thành. Ngược lại, nữ giới thường tế nhị, và
thường ở vai thấp hơn nam giới nên hay sử dụng kèm theo các tiểu từ tình thái “ạ, nhé” để bày tỏ phép lịch sự và
sự nể trọng của mình đối với những người giao tiếp ở vai cao hơn. Kiểu cấu trúc này cũng thường xuất hiện khi
người vai thấp nói với người vai cao, trong những ngữ cảnh mang tính qui thức.
Chúng tôi có bảng tỉ lệ cụ thể sau:
Giới

Các trường hợp

Dạng mở rộng

Sử dụng các từ chỉ mức độ (chân
thành, ngàn lần, hết sức…)
Sử dụng các tiểu từ tình thái (ạ, nhé…)

Nam

Nữ

83% (76/92)


74% (68/92)

71% (65/92)

88% (81/92)

2.2.3.2. Các kiểu cấu trúc – chiến lược xin lỗi gián tiếp
Trên thực tế, cách xin lỗi trong giao tiếp vô cùng đa dạng và phong phú. Qua việc khảo sát thực tế sử
dụng lời xin lỗi trong giao tiếp hàng ngày, bên cạnh các kiểu cấu trúc xin lỗi trực tiếp như đã trình bày ở
phần 2.2.3.1, chúng tôi đã thống kê được 5 kiểu xin lỗi gián tiếp được sử dụng phổ biến nhất trong tiếng Việt
là :
Các kiểu cấu trúc – chiến lược xin lỗi
gián tiếp
(1) Cầu khiến để xin lỗi
(2) Hỏi để xin lỗi
(3) Trình bày để xin lỗi.
(4) Xác tín để xin lỗi
(5) Xác tín – hứa, cam đoan để xin lỗi

Nam
85% (81/95)
83% (79/95)
78% (74/95)
80% (76/95)
81% (77/95)

Giới
Nữ
87% (83/95)

71% (67/95)
90% (86/95)
82% (78/95)
89% (85/95)

Bảng 2.5. Bảng kết quả khảo sát các kiểu cấu trúc – chiến lược xin lỗi gián tiếp giữa hai giới
Như đã biết, kiểu cấu trúc – chiến lược xin lỗi trực tiếp là kiểu cấu trúc mà dù ở dạng đầy đủ hay khuyết
thiếu đều có chứa động từ ngữ vi xin lỗi, bởi khi người nói thực hiện một hành vi xin lỗi thì hành động do động từ
xin lỗi biểu thị cũng được thực hiện. Ngược lại, kiểu cấu trúc – chiến lược xin lỗi gián tiếp không tồn tại động từ
ngữ vi xin lỗi mà mượn các hành vi ngôn ngữ khác như cầu khiến, hỏi, van, lạy, đề nghị, trình bày, xác tín… để
thực hiện hành vi xin lỗi.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu, khảo sát từng đặc điểm cơ bản của hành vi xin
lỗi trong tiếng Việt, cụ thể là các đặc điểm: mục đích, chức năng, mức độ sử dụng, cấu trúc – chiến lược của
lời xin lỗi trực tiếp và cấu trúc – chiến lược của lời xin lỗi gián tiếp.
Qua việc nghiên cứu, khảo sát thực tế, chúng tôi cũng đưa ra một số nhận xét và kết luận về đặc
điểm của hành vi xin lỗi giữa mỗi giới với người cùng giới, khác giới và với từng đối tượng trong nhóm xã
hội. Cụ thể như sau:
(1) Nhìn từ góc độ ngôn ngữ, chúng tôi đã khảo sát và đưa ra một số kiểu cấu trúc – chiến lược xin
lỗi ở cả dạng trực tiếp và gián tiếp, đồng thời đưa ra ví dụ để cả trong cuộc sống thường ngày và trong văn

17


học để xem xét. Từ những ví dụ dẫn chứng có thể thấy xin lỗi là những hành vi ngôn ngữ thể hiện nét đẹp
trong văn hóa ứng xử, nó không chỉ được ứng dụng trong cuộc sống thường ngày mà cả trong văn học cũng
được sử dụng khá phong phú, đa dạng. Trong mối quan hệ liên cá nhân, người Việt rất có ý thức tôn trọng
thể diện của đối tác (tăng thể diện của người nghe), tế nhị, khiêm tốn, khéo léo nhận phần thiệt về mình.
(2) Nhìn từ góc độ giới, chúng tôi nhận thấy, mức độ sử dụng lời xin lỗi của hai giới đều cao, có lẽ là
do văn hóa ứng xử người Việt, lịch sự tôn trọng người khác. Cả hai giới đều sử dụng hành vi xin lỗi với mục

đích chủ yếu là xin người khác tha thứ cho mình. Bên cạnh đó, do nam nam giới có xu hướng thích quảng
giao, hướng ngoại, còn nữ giới có xu hướng sống khép kín, hướng nội nên tỉ lệ sử dụng hành vi xin lỗi với
mục đích thể hiện phép lịch sự và tạo mối quan hệ cao hơn nữ giới. Đồng thời, hai giới cũng sử dụng cả hai
kiểu cấu trúc xin lỗi là xin lỗi trực tiếp và xin lỗi gián tiếp. Trong đó, đối với hành vi xin lỗi trực tiếp, nữ giới
hay sử dụng cấu trúc xin lỗi trực tiếp ở dạng đầy đủ và mở rộng, còn nam giới hay sử dụng hành vi xin lỗi
trực tiếp ở dạng khuyết thiếu. Đối với hành vi xin lỗi gián tiếp, nữ giới hay sử dụng các kiểu xin lỗi gián tiếp
là cầu khiến để xin lỗi, trình bày để xin lỗi, xác tín để xin lỗi, còn nam giới hay sử dụng kiểu xin lỗi gián tiếp
là hỏi để xin lỗi. Sở dĩ như vậy, phần nhiều là do nam giới có bản tính thẳng thắn, chín chắn nên thường
dùng kiểu cấu trúc xin lỗi, đơn giản, ngắn gọn, cô đọng. Còn nữ giới tế nhị, khéo léo, chỉn chu nên thường
dùng kiểu cấu trúc xin lỗi đầy đủ, dài dòng.
(3) Trong truyền thống văn hóa ứng xử, người Việt vốn ít xin lỗi, nhưng ngày nay lời xin lỗi đang
dần trở nên quen thuộc với nhiều dạng thức phong phú, đa dạng. Với tùy từng hoàn cảnh, đối tượng giao tiếp
mà chủ thể giao tiếp chọn ra cho mình một kiểu xin lỗi phù hợp nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp tốt nhất.

18


CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÀNH VI TIẾP NHẬN
LỜI XIN LỖI NHÌN TỪ GÓC ĐỘ GIỚI
3.1. Đối tượng, phương pháp và kết quả khảo sát
3.1.1. Đối tượng
Có nhiều cách phản hồi lại lời xin lỗi nhưng đối tượng khảo sát của chúng tôi là HVTNLXL được
thực hiện bằng lời.
3.1.2. Phương pháp và kết quả khảo sát
Chúng tôi tiếp tục tiến hành khảo sát về HVTNLXL bằng các phương pháp là phỏng vấn và anket,
với các đối tượng khảo sát như ở chương 2.
Chúng tôi cũng phát ra 1000 phiếu và thu về 720 phiếu, trong đó đã chọn lọc được số lượng phiếu
của nam là 360 và của nữ là 360.
Dưới đây là kết quả khảo sát tổng quát các kiểu tiếp nhận lời xin lỗi tích cực, tiêu cực, trung gian
theo tiêu chí giới:

Kiểu tiếp nhận xin lỗi
Giới
Nam
Nữ

Tiếp nhận tích cực

Tiếp nhận tiêu cực

Tiếp nhận trung gian

62% (223/360)
30% (108/360)
8% (29/360)
66% (238/360)
25% (90/360)
9% (32/360)
Bảng 3.1. Tổng quát các kiểu tiếp nhận lời xin lỗi tích cực, tiêu cực, trung gian theo tiêu chí
giới
3.2. Một vài nhận xét về hành vi tiếp nhận xin lỗi trong tiếng Việt từ góc độ giới
3.2.1. Cách thức tiếp nhận lời xin lỗi giữa các giới
Khi người nói thực hiện một hành vi xin lỗi thì người nhận sẽ tùy vào từng trường hợp khác nhau mà

có những phản ứng tương thích với hành vi xin lỗi ấy, đó có thể là những phản ứng vật lí như gật đầu, lắc
đầu, đó có thể là sự im lặng, đó cũng có thể là sự đồng ý hoặc không đồng ý. Tuy nhiên, vì ở luận văn này
chúng tôi chỉ xem xét đối tượng là HVTNLXL bằng lời nên đưa ra ba cách thức tiếp nhận lời xin lỗi cơ bản
là:
3.2.1.1. Người nghe tha thứ cho người mắc lỗi. .
3.2.1.2. Người nghe không tha thứ cho người mắc lỗi
3.2.1.3. Người nghe im lặng

3.2.2. Các kiểu tiếp nhận lời xin lỗi nhìn từ góc độ giới

19


Tiếp nhận lời xin lỗi chính là những phản ứng của đối tượng giao tiếp khi nhận được một lời xin lỗi của
chủ thể giao tiếp nào đó trong quá trình giao tiếp. Tuy nhiên, không phải tất cả các đối tượng giao tiếp đều có
cùng phản ứng mà còn tùy thuộc vào các nhân tố như đã nói là mức độ lỗi mà Sp1 gây ra cho Sp2, thái độ xin lỗi
của Sp1 đối với Sp2, hình thức xin lỗi của Sp1, tính cách, tâm lí của Sp2... mà Sp2 có sự hồi đáp tương thích.
Hướng tiếp nhận của Sp2 thường được thể hiện theo ba hướng sau đây:
3.2.2.1 Các kiểu tiếp nhận lời xin lỗi tích cực
(1) Kiểu tiếp nhận lời xin lỗi trực tiếp mang ý nghĩa tích cực
(2) Kiểu tiếp nhận lời xin lỗi gián tiếp mang ý nghĩa tích cực
(i) Sp2 tha thứ, nhận lỗi về mình và xin lỗi lại Sp1
(ii) Sp2 cho rằng lỗi của Sp1 là lỗi nhỏ, không đáng kể
3.2.2.2 Các kiểu tiếp nhận xin lỗi tiêu cực
(1) Kiểu tiếp nhận lời xin lỗi trực tiếp mang ý nghĩa tiêu cực
Sp2 không chấp nhận lời xin lỗi của sp1
(2) Kiểu tiếp nhận lời xin lỗi gián tiếp mang ý nghĩa tiêu cực
Sp2 lưỡng lự, băn khoăn, phân vân, có thể tha thứ, có thể không tha thứ cho Sp1 .
3.2.2.3. Kiểu tiếp nhận lời xin lỗi trung gian
Bên cạnh kiểu cấu trúc chiến lược hồi đáp tích cực, tiêu cực. Chúng tôi xem xét thêm một kiểu nữa
là hồi đáp trung gian, tức người nghe im lặng trước lời xin lỗi của Sp1. Im lặng vốn là một hành vi rất khó
nắm bắt, bởi nó phụ thuộc sâu sắc vào ngữ cảnh. Nó khác với sự trì hoãn, sự lưỡng lự, phân như ở mục (ii).
Im lặng là kiểu hành vi khó lí giải nên số lượng nam, nữ chọn sự tiếp nhận im lặng cho hành vi xin lỗi chiếm
tỉ lệ không cao. Do phép lịch sự và do yêu cầu của giao tiếp: mọi hành vi ngôn ngữ đều đòi hỏi sự phản hồi
dù là tích cực hay tiêu cực.
Với kiểu tiếp nhận này thì nữ giới hay sử dụng hơn nam giới. Theo khảo sát của chúng tôi: nam
chiếm so 46% (12/25) với nữ chiếm 54% (13/25).
Tiểu kết chương 3

Trong chương 3, chúng tôi tiếp tục tập trung đi sâu vào nghiên cứu, khảo sát đối tượng thứ hai của luận
văn đó là hành vi tiếp nhận lời xin lỗi trong tiếng Việt và cụ thể là những đặc điểm cơ bản của hành vi tiếp nhận
lời xin lỗi trong tiếng Việt: mức độ tiếp nhận lời xin lỗi, các kiểu tiếp nhận lời xin lỗi theo hai hướng là tích cực và
tiêu cực. Cũng qua việc nghiên cứu, khảo sát và thu thập tư liệu, chúng tôi đưa ra một số nhận xét và kết luận về
đặc điểm của hành vi tiếp nhận lời xin lỗi giữa mỗi giới với người cùng giới, khác giới và với từng đối tượng
trong nhóm xã hội. Cụ thể như sau:
(1) Nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, như đã trình bày ở các phần trước, thường mỗi khi người nói phát
ngôn ra một biểu thức xin lỗi thì người nhận sẽ tùy vào những trường hợp khác nhau mà có những phản ứng
tương thích với hành vi ngôn ngữ ấy, do vậy các kiểu tiếp nhận lời xin lỗi được phát sinh từ mối quan hệ
tương tác với lời xin lỗi. Tùy vào kiểu cấu trúc – chiến lược xin lỗi mà có kiểu tiếp nhận lời xin lỗi tương
ứng. Tuy nhiên, ở luận văn này, chúng tôi mới chỉ nghiên cứu được một số kiểu tiếp nhận lời xin lỗi tiêu
biểu.

20


(2) Nhìn từ góc độ giới, từ kết quả khảo sát có thể nhận thấy, tương ứng với mỗi lời xin lỗi thì mỗi
giới đều đưa ra cách tiếp nhận phù hợp với lời xin lỗi ấy; với người cùng giới, khác giới và với các đặc điểm
xã hội khác (tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội…). Kết quả là dù cả nam giới và nữ giới đều sẵn sàng tha
thứ cho đối tượng giao tiếp khi họ đã nhận ra lỗi lầm của mình và hạ mình xin lỗi, song nam giới thường ưa
sử dụng các kiểu tiếp nhận ngắn gọn như chấp nhận hoặc không chấp nhận lời xin lỗi của đối tượng giao
tiếp, ít mang tính biểu cảm hơn. Còn nữ giới lại ưa sử dụng các kiểu tiếp nhận lời xin lỗi mang tính biểu cảm,
trình bày cao do bị chi phối nhiều bởi tình cảm, cảm xúc của bản thân. Đồng thời cả hai giới đều có tỉ lệ tiếp
nhận lời xin lỗi mang tích tích cực nhiều nhất, sau đó đến tiếp nhận tiêu cực và tỉ lệ tiếp nhận trung gian là ít
nhất. Sở dĩ như vậy là do phép lịch sự, yêu cầu của giao tiếp và truyền thống văn hóa ứng xử người Việt.
(3) Trong truyền thống văn hóa ứng xử, người Việt vị tha, không chỉ riêng đối với phái nữ mà cả đối
với những người đàn ông vốn bản tính mạnh mẽ như nam giới cũng rất giàu lòng nhân ái, có lẽ phần nhiều
do ảnh hưởng bởi nền văn hóa phương Đông. Cho nên khi nhận được lời xin lỗi kể cả lời xin lỗi từ người
nước ngoài thì người Việt dù là nam hay nữ phần nhiều cũng sẵn lòng tha thứ nếu lỗi lầm của đối phương
không phải quá lớn đến mức không thể tha thứ được.


21


PHẦN KẾT LUẬN
1. Trong truyền thống ứng xử văn hóa người Việt, “xin lỗi” được xem như là hành vi ngôn ngữ thể
hiện nét đẹp trong văn hóa ứng xử giúp hàn gắn các mối quan hệ cá nhân. Cùng với các hành vi khác như
chào, cám ơn, khen… thì hành vi xin lỗi cũng nhằm mục đích tôn vinh thể diện của người nghe. Đây chính là
một trong những nét văn hóa ứng xử lâu đời của người Việt trong giao tiếp: khiêm tốn, chân thành, tôn trọng
người đối thoại với mình. Không chỉ xưa mà nay nét văn hóa này vẫn ngày càng được coi trọng và phát huy,
đặc biệt là thông qua công tác giáo dục như giáo dục trong gia đình, giáo dục trong nhà trường, ngoài xã
hội… Thêm nữa, trong các dạng hồi đáp thì lời xin lỗi của người Việt từ truyền thống đến hiện đại đều rất ít
khi sử dụng các kiểu hồi đáp tiêu cực và trung gian. Có thể thấy, mặc dù ngày càng có rất nhiều kiểu cấu trúc
– chiến lược xin lỗi khác nhau, tuy nhiên mỗi người trong giao tiếp đều biết cách lựa chọn cho mình một
kiểu xin lỗi sao cho vừa phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp lại vừa đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.
2. Từ góc độ ngôn ngữ học, luận văn chủ yếu đi vào nghiên cứu, khảo sát hành vi xin lỗi. Từ đó,
chúng tôi đã chỉ ra những điều kiện sử dụng hành vi xin lỗi, biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi… Chúng tôi
phân biệt rõ ràng hai kiểu cấu trúc – chiến lược là xin lỗi trực tiếp và xin lỗi gián tiếp với các mô hình cấu
trúc khu biệt.
3. Từ góc nhìn của ngôn ngữ học xã hội, hành vi xin lỗi cũng như nhiều hành vi ngôn ngữ khác như
chào, cám ơn, khen… đều chịu sự tác động của một loạt nhân tố xã hội, trong đó có nhân tố giới. Hay cụ thể
hơn thì giới là một trong những biến xã hội mạnh tác động vào hành vi xin lỗi ở các nội dung như mục đích
xin lỗi, cách xin lỗi, việc giải thích hành vi xin lỗi cũng như việc tiếp nhận lời xin lỗi và được thể hiện bằng
ngôn từ trong lời xin lỗi. Tách giới ra thành một nhân tố độc lập để nghiên cứu hành vi xin lỗi nhằm nhằm
mục đích tập trung làm rõ mối quan hệ giữa giới với hành vi xin lỗi. Điều đó cũng không có nghĩa là tách giới ra
khỏi các biến xã hội, văn hoá khác như địa vị, nghề nghiệp, tuổi tác, nền văn hoá... mà chúng là một tổng thể hoà
quyện vào nhau theo kiểu nhân tố này là tiền đề của nhân tố kia, nhân tố kia hỗ trợ nhưng đồng thời ràng buộc,
hạn chế nhân tố này.
Chúng tôi nhận thấy cả nam giới và nữ giới đều mạnh dạn sử dụng lời xin lỗi khi bản thân mắc lỗi hoặc
để thể hiện phép lịch sự với đối tượng giao tiếp. Tuy nhiên, việc lựa chọn kiểu xin lỗi giữa hai giới là không giống

nhau. Nam giới ưa sử dụng kiểu xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi một cách trực tiếp với mẫu câu ngắn gọn, đơn giản
tránh dài dòng và mang tính biểu cảm, cảm xúc. Còn nữ giới lại ưa sử dụng kiểu xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi
một cách gián tiếp, hơi dài dòng và mang tính biểu cảm, cảm xúc. Có lẽ điều này là do nam giới có bản tính mạnh
mẽ, thẳng thắn; còn nữ giới lại có bản tính nhẹ nhàng, tế nhị, kín đáo, giàu tình cảm, cảm xúc hơn nam giới.
4. Có thể coi hành vi xin lỗi và tiếp nhận lời xin lỗi như một tấm gương phản chiếu các giá trị văn
hóa - ngôn ngữ dân tộc. Vì thế, việc thực hiện hành vi xin lỗi phù hợp và nhận diện được hành vi xin lỗi một
cách chính xác để hồi đáp là một khía cạnh trong khả năng giao tiếp, nhất là giữa các nền văn hóa khác nhau.
Hơn nữa, thông qua việc thay đổi hành vi xin lỗi, tiếp nhận lời xin lỗi của một cộng đồng có thể thấy được sự
vận hành về văn hóa - xã hội - ngôn ngữ đang thay đổi, trong đó có sự thay đổi đối với cách nhìn về giới và
mối quan hệ giữa giới và ngôn ngữ. Đây cũng là hướng mà đề tài sẽ tiếp tục triển khai nghiên cứu.

22



×