Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Câu đố dân gian của người việt nhìn từ góc độ ngôn ngữ học.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.05 KB, 126 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
--------------------



BÙI THỊ THU HUYỀN



CÂU ĐỐ DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC








THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


--------------------



BÙI THỊ THU HUYỀN


CÂU ĐỐ DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ
Mã số: 66 22 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐÀO THỊ VÂN





THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa ai công
bố trong các công trình khác.




Thái Nguyên, tháng 9 năm 2009
Tác giả




BÙI THỊ THU HUYỀN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ........................................................................................................ i
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................... 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 5
4.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................ 5
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 5
5.1. Phương pháp thống kê phân loại ...................................................... 5
5.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp ................................................... 5
6. Đóng góp mới của luận văn ...................................................................... 5

7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................. 7
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÂU ĐỐ DÂN GIAN .............................................. 7
1.1.1. Khái niệm câu đố ........................................................................... 7
1.1.2. Phân loại câu đố ............................................................................. 9
1.1.3. Hoàn cảnh sử dụng câu đố .......................................................... 10
1.2. SƠ LƢỢC VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ ................................... 11
1.2.1. Biện pháp tu từ nhân hoá ............................................................ 11
1.2.2. Biện pháp tu từ ẩn dụ .................................................................. 13
1.2.3. Biện pháp tu từ so sánh ............................................................... 14
1.3. KHÁI QUÁT VỀ LÝ THUYẾT NGỮ DỤNG HỌC ......................... 15
1.3.1. Chiếu vật và các phƣơng thức chiếu vật..................................... 15
1.3.2. Hành vi ngôn ngữ ........................................................................ 18
1.3.3. Khái quát về hội thoại ................................................................. 20
1.3.4. Khái quát về lập luận .................................................................. 22
1.3.5. Lý thuyết về tiền giả định ............................................................ 25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.4. KẾT LUẬN CHƢƠNG ....................................................................... 27
CHƢƠNG II: CÂU ĐỐ DÂN GIAN CỦA NGƢỜI VIỆT ....................... 28
NHÌN TỪ BÌNH DIỆN HÌNH THỨC ....................................................... 28
2.1. CÂU ĐỐ XÉT THEO THỂ LOẠI VĂN BẢN ................................... 28
2.1.1. Câu đố có dạng thơ ...................................................................... 28
2.1.2. Câu đố có dạng lời nói thông thƣờng ......................................... 37
2.2. CÂU ĐỐ XÉT THEO LÝ THUYẾT CẦU TRÚC HỘI THOẠI ...... 39
2.2.1. Câu đố có dạng một cặp trao - đáp ............................................. 39
2.2.2. Câu đố có dạng đoạn thoại .......................................................... 41
2.3. CÂU ĐỐ XÉT THEO LÝ THUYẾT LẬP LUẬN ............................. 43
2.3.1. Câu đố có luận cứ tƣờng minh và câu đố có luận cứ hàm ẩn .... 43
2.3.2. Câu đố có kết luận tƣờng minh và câu đố có luận cứ hàm ẩn .. 45
2.3.3. Số lƣợng luận cứ , kết luận trong một lập luận .......................... 47

2.3.4. Hiện tƣợng luận cứ đồng hƣớng lập luận trong câu đố..............45
2.3.5. Vai trò của luận cứ trọng tâm trong lời đố có môtip giống nhau ... 50
2.4. KẾT LUẬN CHƢƠNG ....................................................................... 52
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ CĂN CỨ VÀ PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG ... 53
CÂU ĐỐ DÂN GIAN NGƢỜI VIỆT ........................................................ 53
3.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG CÂU ĐỐ......................................................... 53
3.1.1.Căn cứ vào tri thức ngôn ngữ và tri thức về cuộc sống .............. 53
3.1.2. Căn cứ vào những tri thức nền khác .......................................... 62
3.2. PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG CÂU ĐỐ .......................................... 94
3.2.1. Phƣơng thức đánh lạc hƣớng chiếu vật ..................................... 95
3.2.2. Phƣơng thức thay thế bổ sung .................................................. 108
3.3. KẾT LUẬN CHƢƠNG .................................................................... 112
KẾT LUẬN ............................................................................................... 113
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Câu đố là một thể loại của văn học dân gian. Đã từ lâu, trong đời
sống tinh thần của người lao động, câu đố chiếm một vị trí đáng kể. Như mọi
loại hình dân gian, câu đố len vào từng nhà, đi vào tư duy của mọi lứa tuổi, từ
những em bé ngây thơ cho đến các cụ già đầu bạc. Có thể nói, hoạt động đố -
đáp được người lao động hưởng ứng và trở nên phổ biến ở mọi vùng miền,
nhất là ở vùng nông thôn. Từ Bắc chí Nam, ai ai cùng biết vài ba câu đố và
không ít lần tham gia vào trò chơi đố giải.
1.2. Câu đố có một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội.
Đố - đáp không đơn thuần chỉ là một trò chơi giải trí thông thường mà còn là
một sân chơi trí tuệ bổ ích bằng ngôn từ (chúng tôi nhấn mạnh chất trí tuệ
trong câu đố). Trên sân chơi ấy, người tham gia chơi được mài sắc năng lực tư
duy, óc phán đoán đồng thời được rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ linh
hoạt trong mọi hoàn cảnh. Đặc biệt đối với trẻ em, câu đố là những một trong

những phương tiện đắc lực giúp trẻ có được một bộ não phát triển toàn diện.
Việc đưa câu đố đến cho trẻ là cách làm tốt để chúng có điều kiện phát triển
nhanh về trí tuệ.
1.3. Câu đố có tác dụng sư phạm, giáo dục. Câu đố giúp thoả mãn óc tò
mò, lòng khao khát ham hiểu biết của trẻ nhỏ. Câu đố được người lớn dùng để
giáo dục các em, dạy cho các em những hiểu biết thường thức trong sinh hoạt
hàng ngày, trong học tập, vui chơi. Hơn thế nữa, câu đố là một phương tiện
hữu ích cho trẻ nhỏ và người nước ngoài học tiếng Việt. Sở dĩ như vậy vì
bằng việc sử dụng những hình ảnh kiểu ví von trong loại đố chữ giúp người
học dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ mặt chữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.4. Đã có không ít công trình nghiên cứu về câu đố song phần lớn các
công trình này mới chỉ dừng lại ở việc sưu tầm câu đố rồi giải đáp ẩn số.
Cũng có một số tài liệu nghiên cứu về câu đố nhưng ở mức khái quát. Chưa
thấy có công trình nghiên cứu câu đố dân gian, đặc biệt nghiên cứu về câu đố
dân gian của người Việt dưới góc nhìn ngôn ngữ học một cách bài bản.
Với những căn cứ trên, chọn đề tài “Câu đố dân gian người Việt nhìn
từ góc độ ngôn ngữ học” để nghiên cứu người viết mong muốn góp thêm một
cách nhìn về câu đố dưới ánh sáng của một số lý thuyết ngôn ngữ học.
2. Lịch sử vấn đề
Câu đố ra đời từ rất sớm. Khó có thể ấn định một thời gian cụ thể để
đánh dấu sự ra đời của câu đố. Nhưng có thể khẳng định một điều rằng, khi
con người lấy lao động làm lẽ sống, khi ngôn ngữ phát triển, khi nhu cầu hiểu
biết thế giới xung quanh trở thành một đòi hỏi thường ngày thì khi đó câu đố
ra đời.
Điểm lại tình hình nghiên cứu, tư liệu của chúng tôi cho thấy có khoảng
hơn 40 công trình nghiên cứu về câu đố, trong đó có 11 công trình mang tích
chất sưu tập, tuyển chọn và biên soạn lại tuỳ theo mục đích của người biên
soạn. Số còn lại là những công trình, những bài nghiên cứu về một góc nào đó
của câu đố.

Có thể kể ra dưới đây một số công trình sưu tập về câu đố tiêu biểu:

1) Câu đố Việt Nam (Thiên Lữ, Võ Hồng sưu tầm), Nxb Thanh Hoá, 2000.
2) Câu đố Việt Nam (Hồ Anh Thái biên soạn), Nxb Hải Phòng, 2004.
3) Câu đố dân gian (Lữ Huy Nguyên, Trần Gia Linh, Nguyễn Đình Chỉnh
sưu tầm), Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 1989.
4) Câu đố dân gian Việt Nam (Xuân Thu sưu tầm), Nxb Thanh Niên, Hà
Nội, 1998.
5) Câu đố Việt Nam (Ninh Viết Giao sưu tầm), Nxb Khoa học Xã hội, 1990.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6) Câu đố Việt Nam (Nguyễn Văn Trung biên soạn), Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1986.
7) Câu đố người Việt (Triều Nguyên biên soạn), Nxb Thuận Hoá, 2007.
Trong số các công trình kể trên có ba công trình được chú ý nhiều hơn
cả là công trình của các tác giả Triều Nguyên, Nguyễn Văn Trung và Ninh
Viết Giao. Bên cạnh việc tập hợp một số lượng khá lớn câu đố, tác giả
Nguyễn Văn Trung, còn giới thiệu xuất xứ, nguồn gốc; hoàn cảnh sử dụng,
mục đích, chức năng câu đố; cách cấu tạo câu đố về mặt ngữ pháp, ngữ điệu,
ngữ nghĩa...Với tác giả Triều Nguyên, phần khái luận về câu đố người Việt
cho thấy cách tiếp cận câu đố ở bình diện thể loại khá toàn diện và có những
kiến giải thấu đáo. Có nhiều vấn đề được đặt ra lần đầu như:“ trường và hiện
tượng xuất nhập trường trong câu đố”,“mô hình câu đố”,“câu đố tá ý”v.v...
Một số tài liệu có bàn đến câu đố nhưng hết sức sơ lược dưới dạng
chương, mục, ví dụ: 1) Văn học dân gian Việt Nam của Đinh Gia Khánh (chủ
biên)[32]; 2) Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian của
Đỗ Bình Trị [60]; 3) Văn học dân gian Việt Nam của Hoàng Tiến Tựu [64];
4) Tổng tập văn học dân gian người Việt (tập 3) do Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam biên soạn [65]. Ngoài ra cũng thấy đây đó một số bài nghiên cứu về
câu đố như: 1) “Hiện tượng đồng dạng khác nghĩa và đồng nghĩa khác dạng
của câu đố” của tác giả Phạm Văn Tình [58]; 2)“Các hình thức chơi chữ
trong câu đố”- tác giả Triều Nguyên [42]; 3)“Câu đố và tư duy nghệ thuật”

của Hồ Quốc Hùng [27]; 4)“Câu đố và văn chương bình dân” của Phạm Văn
Đang [18]. Đặc biệt, theo chúng tôi được biết những khoá luận, luận văn hay
luận án tiến sĩ nghiên cứu về câu đố có số lượng rất ít. Mới chỉ thấy một số
công trình nghiên cứu như: “Một số vấn đề về bản chất thể loại câu đố Việt
Nam với trẻ em” - Luận văn thạc sĩ Ngữ văn của tác giả Trần Thị Lan [34], đề
tài nghiên cứu khoa học:“Tìm hiểu về câu đố trong chương trình tiếng Việt
Tiểu học” của tác giả Đặng Thị Quỳnh [47]; Luận văn thạc sĩ “Bước đầu tìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hiểu cách tri nhận thế giới của người Việt (trên ngữ liệu câu đố)” của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Huyền [29].
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về câu đố thường nặng về sưu
tầm, tuy đưa ra nhận xét song đó chỉ là những gợi ý đối với người đọc. Có
những công trình nghiên cứu chỉ chọn một số câu đố tiêu biểu để tìm hiểu,
phân tích về một phương diện nào đó. Ba công trình chúng tôi vừa nhấn mạnh
là có chiều sâu hơn cả.
Tóm lại, tư liệu điều tra của chúng tôi cho thấy những công trình về câu
đố theo cách nhìn của ngôn ngữ học không nhiều. Đặc biệt, nghiên cứu câu đố
dưới ánh sáng của lý thuyết ngữ dụng học lại càng hiếm. Chọn đề tài này để
nghiên cứu, chúng tôi muốn hiểu thêm câu đố về các phương diện như hình
thức câu đố, căn cứ cũng như phương tiện xây dựng câu đố. Hy vọng kết quả
nghiên cứu sẽ đóng góp một phần bé nhỏ vào chặng đường nghiên cứu một
thể loại hấp dẫn của văn học dân gian.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là câu đố dân gian người Việt đã được
biên tập, tuyển chọn trong cuốn Tổng tập văn học dân gian người Việt (tập 3)
của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 2005 và cuốn
Câu đố Việt Nam của Nguyễn Văn Trung, Nxb TP HCM, 1986.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ góc nhìn của ngôn ngữ học, có thể nghiên cứu câu đố về nhiều

phương diện, song luận văn chỉ tập trung vào ba phương diện, đó là:
- Hình thức của câu đố
- Căn cứ xây dựng câu đố
- Phương thức xây dựng câu đố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu câu đố về các phương diện trên, luận văn muốn làm rõ
thêm các kiểu câu đố xét từ phương diện hình thức và nội dung, đồng thời chỉ
ra những căn cứ cũng như phương thức xây dựng câu đố. Qua đó gián tiếp
giúp người đọc thấy được điều kiện để giải đáp câu đố đúng, chính xác.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đặt ra một số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Khảo sát, phân loại câu đố căn cứ vào cấu tạo hình thức và phương
thức tạo lập của chúng.
- Miêu tả, phân tích các loại các kiểu câu đố đã được phân loại ở trên.
- Tổng kết các kết quả nghiên cứu bằng bảng biểu hoặc bằng lời.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chủ yếu sau đây:
5.1. Phương pháp thống kê phân loại
Sử dụng phương pháp nghiên cứu này để thống kê các kiểu câu đố theo
các tiêu chí đã định trước.
5.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phương pháp nghiên cứu này được vận dụng để phân tích tư liệu thống
kê và tổng kết lại các kết quả phân tích.
6. Đóng góp mới của luận văn
Nếu đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, về mặt lý luận sẽ góp thêm
một cái nhìn mới về câu đố dân gian người Việt. Đó là cách nhìn theo quan
điểm của ngữ dụng học.

Về mặt thực tiễn, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai muốn
tìm hiểu thêm về câu đố.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của luận văn chia làm
3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết
1.1. Khái quát về câu đố dân gian
1.2. Sơ lược về một số biện pháp tu từ
1.3. Khái quát lý thuyết ngữ dụng học
1.4. Kết luận chương
Chƣơng 2: Câu đố dân gian ngƣời Việt nhìn từ bình diện hình thức
2.1. Câu đố xét theo thể loại văn bản
2.2. Câu đố xét theo lý thuyết cấu trúc hội thoại
2.3. Câu đố xét theo lý thuyết lập luận
2.4. Kết luận chương
Chƣơng 3: Một số căn cứ và phƣơng thức xây dựng câu đố dân gian
ngƣời Việt
3.1.Căn cứ xây dựng câu đố
3.1.1. Căn cứ vào tri thức ngôn ngữ
3.1.2. Căn cứ vào các tri thức nền khác
3.2. Phương thức xây dựng câu đố
3.2.1. Phương thức đánh lạc hướng chiếu vật
3.2.2. Phương thức thay thế - bổ sung
3.3. Kết luận chương

Kết luận
Tài liệu tham khảo



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

Để làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu hình thức, những căn cứ
cũng như phương thức xây dựng câu đố, luận văn sẽ trình bày khái quát về
câu đố dân gian và sơ lược về một số biện pháp tu từ, lý thuyết ngữ dụng học
có liên quan.
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÂU ĐỐ DÂN GIAN
1.1.1. Khái niệm câu đố
1.1.1.1. Khái niệm
Câu đố là một thể loại của văn học dân gian. Thuật ngữ câu đố được
dùng từ lâu và phổ biến trong dân gian với hàm nghĩa chỉ một loại hình sáng
tác của folklore. Câu đố không đơn thuần là một hiện tượng ngôn ngữ, nó
cũng không phải là một tác phẩm (tác phẩm hiểu theo nghĩa là một cấu trúc
nghệ thuật) có các yếu tố được sắp xếp theo bố cục, diễn biến nhất định nhằm
thể hiện một tư tưởng chủ đề nào đó, nhưng mỗi câu đố đều có một nội dung
hoàn chỉnh, được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng. Từ xưa,
Aristôt đã xếp câu đố vào lĩnh vực“sự bắt chước có tính nghệ thuật”(dẫn theo
[44,244]). Do vậy Aristôt đã định nghĩa:“Câu đố là một kiểu ẩn dụ hay” và
coi cái hay đặc biệt của câu đố ở chỗ “trong khi nói về cái tồn tại thực tế, câu
đố đồng thời kết hợp với cả cái hoàn toàn không thể có được”(dẫn theo
[44,244]).
Về phía các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam, quan niệm về
câu đố của họ cũng không đi chệch hướng nghiên cứu của các bậc tiền bối.
Theo tác giả Vũ Ngọc Phan:“Câu đố là một loại hình sáng tác phản ánh các
sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan theo lối nói chệch (nói một đằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hiểu một nẻo)” [44,257]. Quan niệm này nhấn mạnh cách nói chệch trong câu
đố. Tác giả Triều Nguyên trong công trình nghiên cứu Câu đố người Việt của

mình lại chú ý đến mặt cấu tạo của câu đố. Ông đưa ra một cách nhìn về câu
đố như sau:“Câu đố là một thể loại văn học dân gian, gồm hai bộ phận, bộ
phận lời đố và bộ phận lời giải (vật đố); lời đố bằng văn vần, nhằm miêu tả
vật đố một cách xác thực, hợp lẽ nhưng làm cho lạ hoá để khó đoán nhận; lời
giải nêu tên vật đố, là những sự vật, hiện tượng phổ biến, ai cũng từng biết,
từng hay” [40,28] . Còn theo GS. Nguyễn Văn Trung [61], quan niệm về câu
đố của tác giả dựa trên hai mặt: mặt cấu tạo và mặt xã hội. Về mặt cấu tạo,
câu đố có cấu trúc của một đối thoại gồm hai phần: lời đố và lời giải. Lời đố
là một câu hỏi dưới hình thức: tên vật có những hình dáng, đặc điểm, công
dụng này hay tên vật giống như vật được nói ra là gì? Như vậy câu đố là một
định nghĩa, xét theo nội dung dựa trên khái niệm căn bản: tương tự .Về mặt xã
hội, câu đố là một cuộc chơi sử dụng đồ chơi là hình ảnh, từ và ý nghĩa, là
một chơi chữ nhằm mục đích giải trí tinh thần vui vẻ. Thay vì chỉ đưa ra một
định nghĩa, ông đề nghị đưa ra nhiều định nghĩa tuỳ theo phương diện nhìn
vấn đề hoặc nhiều chiều cạnh của đối tượng. Bởi theo ông những định nghĩa
này không nhằm bày tỏ thực chất hay yếu tính của câu đố vì bản chất hay yếu
tính của câu đố là siêu hình không ai kiểm nghiệm được. Cái có thể kiểm
nghiệm và quan sát được ở đây chỉ có thể là những sự mô tả yếu tố cấu tạo
của câu đố mà thôi.
1.1.1.2. Đặc điểm lời đố và vật đố
Có thể thấy các định nghĩa trên đều chú ý tới đặc điểm cấu tạo của câu
đố. Câu đố bao gồm hai bộ phận: lời đố và vật đố.
a) Lời đố
Lời đố nêu đặc điểm, thuộc tính hay phẩm chất của vật đố một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp. Có lời đố miêu tả hình dáng của sự vật, ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
(1) Trong nhà có bà hai đầu. (Cái võng)[66,537]
Có lời đố nêu nguồn gốc của sự vật:
(2) Thân em xưa ở bụi tre
Mùa đông xếp lại, mùa hè mở ra.(Cái quạt)[66,529]

Có lời đố nêu chức năng của vật:
(3) Đem thân che nắng cho người
Chẳng thương thì chớ lại cười không khôn.
( Cái giại) [50,314]
Cũng có khi một vật đố có nhiều lời đố. Mỗi lời đố lại chú ý tới đặc
điểm khác nhau của sự vật.
b) Vật đố
Vật đố - đối tượng phản ánh của câu đố, là các sự vật, hiện tượng của
thế giới khách quan và phần lớn là ở nông thôn có liên quan mật thiết đến
công việc lao động, sinh hoạt hàng ngày của người lao động. Chẳng hạn như
cái cày, bừa, hái, liềm, trâu, bò, cối xay lúa, cái vó, cái nơm v.v…Trong thiên
nhiên, đối tượng quan sát của câu đố là các thực thể tự nhiên như trăng, sao,
mặt trời; các loài động thực vật…Tất cả đối tượng quan sát của câu đố đều có
tính chất hiện thực – cụ thể, trực quan.
Đi theo cách tiếp cận câu đố của tác giả Nguyễn Văn Trung, chúng tôi
muốn làm rõ hơn nữa đặc điểm của lời đố và tính chất xã hội của câu đố.
1.1.2. Phân loại câu đố
Các nhà khảo cứu thường phân biệt ba loại câu đố: câu đố bằng hình
vẽ, câu đố bằng hành động và câu đố bằng lời (tiếng, chữ). Nghiên cứu của
Nguyễn Văn Trung cho thấy ở Việt Nam ít thấy hai loại câu đố bằng hành
động và câu đố bằng hình vẽ mà chỉ thịnh hành câu đố bằng lời.
Về phân loại câu đố, dựa vào kỹ thuật tạo câu đố chúng tôi nhấn mạnh
đến hai loại câu đố: Câu đố trực tiếp và câu đố gián tiếp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.1.2.1. Câu đố trực tiếp
Câu đố trực tiếp là loại câu đố không sử dụng đến kỹ thuật so sánh, ẩn
dụ hay bất cứ một phương tiện tu từ nào khác ngoài việc miêu tả sự vật đúng
với những gì nó có. Chẳng hạn đố về cây rau sam:
(4) Lá xanh cành đỏ hoa vàng
Hạt đen, rễ trắng, đố chàng biết chi?

(Rau sam)[66,176]
Hay đố về trạng thái đang hoạt động của con chuồn chuồn:
(5) Con gì cánh mỏng đuôi dài
Lúc bay, lúc đậu cánh thời đều giương.
(Con chuồn chuồn)[66,275]
câu đố đều dùng phương pháp miêu tả trực tiếp.
b) Câu đố gián tiếp
Câu đố gián tiếp là câu đố sử dụng các kỹ thuật ví, so sánh, ẩn dụ trong
việc xây dựng hình ảnh đố của vật đố.
Ví dụ so sánh dùng các từ: như, là, bằng, vừa bằng…
(6) Vừa bằng lá tre, le the mặt nước.(Con đỉa)[66, 261]
So sánh không dùng từ: như, là, bằng…Đây là những ẩn dụ:
(7) Bốn cột đình rinh tảng đá
Hai ông tướng tá đi trước vung gươm
Hai bà đi sau quạt hầu lia lịa.
(Con trâu)[66,247]
Có khi vừa ẩn dụ, vừa so sánh:
(8) Mình đen như quạ, da trắng như bông
Giữa thắt cổ bồng, đít đeo nồi nước.
(Chõ xôi)[66,485]
1.1.3. Hoàn cảnh sử dụng câu đố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tác giả Nguyễn Văn Trung nhấn mạnh ba nhân tố của hoàn cảnh sử
dụng câu đố là: con người, không gian và thời gian sử dụng. Dựa vào 3 nhân
tố này, người ta chia hoàn cảnh sử dụng câu đố thành hai loại: loại không có
tổ chức và loại có tổ chức.
Loại không có tổ chức muốn nói tới số lượng người tham gia ít nhất
phải có hai người, nhiều từ năm sáu người trở nên, không nhất định số người.
Tuỳ lúc, tuỳ nơi, lúc đi làm việc ngoài đồng, lúc học chữ, lúc nhàn rỗi, ban
ngày hay ban chiều, khi ngồi năm tụm ba trên phản, ngoài hè, bất cứ lúc nào

người ta cũng có thể đố nhau. Hoàn cảnh sử dụng thông thường phổ biến hơn
cả là buổi tối sau khi ăn cơm, nhất là lúc trời rét mưa phùn, người trong nhà
quây quần bên nhau nghe kể chuyện cổ tích hay ra đố hoặc tự sáng tạo ra
những câu đố mới.
Loại có tổ chức là loại đòi hỏi một số điều kiện về tổ chức và vật chất,
khi đó câu đố được sử dụng như một sự trình diễn. Chẳng hạn câu đố trong
tuồng, chèo chỉ được nói ra khi diễn kịch trên sân khấu, do những vật đóng
vai thằng hề diễn. Ngoài ra, theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Trung, câu đố
còn được sử dụng có tổ chức như thai chợ. Thai chợ có nghĩa là những người
hành nghề ra câu đố chọn một chỗ ngồi, nơi thường có đông người qua lại
như chợ, bến đò, quán ăn, họ bày ra một số trò chơi, sau đó anh ta bắt đầu rao
câu đố bằng cách hát lên để lôi cuốn người đến xem và tham dự cuộc chơi. Ở
một số tỉnh miền Nam, vùng đồng bằng sông Cửu Long có tục tổ chức thai đố
nhân ngày lễ cúng thần của làng vào rằm tháng riêng âm lịch mỗi năm.
Trong hai loại hoàn cảnh trên, loại hoàn cảnh không có tính tổ chức là
thường gặp nhất trong cuộc sống sinh hoạt của người lao động.
1.2. SƠ LƢỢC VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ
1.2.1. Biện pháp tu từ nhân hoá
1.2.1.1. Khái niệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nhân hoá (còn gọi là nhân cách hoá) là một biến thể của ẩn dụ, trong
đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để
biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng không phải con người, nhằm làm
cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho
người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình [33,63].
Ví dụ (11):
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất?
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai?

(ca dao)
Khăn trong ngữ cảnh này là cái khăn có sở chỉ. Nhưng nó không còn là
một thứ hàng dệt thông thường, có hình dài hoặc vuông, dùng để lau chùi, chít
đầu, quàng cổ hay trải bàn mà nó đã được nhân hoá, đã có hồn, có tâm thức,
biết “thương nhớ”.
1.2.1.2. Hình thức cấu tạo
Về mặt hình thức, nhân hoá có thể được cấu tạo theo hai cách:
a) Dùng những từ chỉ tính chất, hoạt động của con người để biểu thị
tính chất, hoạt động của đối tượng không phải con người.
Ví dụ (12):
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
(Nguyễn Du)
“Ghen”,“hờn” là hai trạng thái cảm xúc của con người được chuyển
sang miêu tả thái độ, cảm xúc của hoa, liễu. Hoa, liễu được nhân cách hoá trở
thành những con người đang ganh tị với sắc đẹp của nàng Kiều.
b) Coi đối tượng không phải con người như con người và tâm tình trò
chuyện với nhau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ví dụ (13):
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương.(ca dao)
1.2.2. Biện pháp tu từ ẩn dụ
1.2.2.1. Khái niệm
“Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tượng, dựa trên sự
tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiện thực hoặc tưởng tượng ra) giữa
khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động, tính chất) A được định danh với
khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động, tính chấ ) B có tên gọi được chuyển
sang dùng cho A” [33,52].
Ví dụ (14)

Giá đành trong nguyệt trên mây
Hoa sao hoa khéo đoạ đầy bấy hoa.
(Truyện Kiều)
Ở đây, hoa (B) mang ý nghĩa ẩn dụ chỉ người phụ nữ có nhan sắc (A).
1.2.2.2. Phân loại ẩn dụ
a) Căn cứ vào từ loại và chức năng, có thể chia ẩn dụ thành 3 loại: ẩn
dụ định danh, ẩn dụ nhận thức, ẩn dụ hình tượng.
Ẩn dụ định danh là những ẩn dụ từ vựng xuất hiện do kết quả của việc
thay thế một tên gọi này bằng một tên gọi khác có hình thức đồng âm.Ví dụ :
đầu làng, chân trời, má phanh...
Ẩn dụ nhận thức nảy sinh do kết quả của việc làm biến chuyển khả
năng kết hợp của những từ chỉ dấu hiệu khi làm thay đổi ý nghĩa của chúng từ
cụ thể đến trừu tượng. Ví dụ: những tính từ như: lạnh lẽo, mơn mởn, vằng vặc
vốn có ý nghĩa cụ thể, thường kết hợp với các danh từ như: băng tuyết, cây
cối, vầng trăng, nay được ẩn dụ hoá dùng với ý nghĩa trừu tượng, và có khả
năng kết hợp với cả những danh từ như: tâm hồn (lạnh lẽo), tuổi xuân (mơn
mởn), tấm gương (vằng vặc).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ẩn dụ hình tượng là nguồn sản sinh ra đồng nghĩa. Ví dụ hoa đồng
nghĩa với phụ nữ có nhan sắc. Trong ngôn ngữ văn chương, ẩn dụ là phương
thức bình giá riêng của cá nhân nhà văn.
b) Căn cứ vào đặc điểm ngữ pháp, có thể chia ẩn dụ thành hai loại: ẩn
dụ ngôn ngữ và ẩn dụ ngữ dụng.
Ẩn dụ ngôn ngữ là kiểu ẩn dụ được xây dựng trên những mối liên tưởng
khách quan vốn được phản ánh trong những dấu hiệu hàm chỉ.
Ví dụ (15): Biển có nghĩa là một vùng nước mặn rộng lớn nói chung
trên bề mặt trái đất. Do đó, bất cứ khối lượng to lớn trên một diện tích rộng
đều được coi là biển như biển lửa, biển lúa...
Ẩn dụ ngữ dụng là kiểu ẩn dụ được xây dựng dựa vào văn cảnh cụ thể.
Muốn hiểu được ẩn dụ ấy phải đặt trong khuôn khổ của câu hoặc cả văn bản.

1.2.3. Biện pháp tu từ so sánh
1.2.3.1. Khái niệm
“So sánh là đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan
không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó
nhằm diền tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng” [33,154].
Ví dụ (16):
Da đen như cột nhà cháy
Theo ví dụ (16) da đen và cột nhà cháy là hai đối tượng khác loại
nhưng chúng có điểm tương đồng nhau về màu sắc là có cùng màu đen.
1.2.3.2. Cấu tạo
Về mặt cấu tạo, mô hình của một so sánh hoàn chỉnh gồm 4 yếu tố. Ví
dụ (16) có đầy đủ 4 yếu tố này:
+ Yếu tố 1: yếu tố được hoặc bị so sánh (da)
+ Yếu tố 2: phương diện so sánh (màu sắc đen)
+ Yếu tố 3: yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (như)
+ Yếu tố 4: yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh (cột nhà cháy)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Song trên thực tế nhiều so sánh không đủ cả 4 yếu tố. So sánh vắng yếu
tố 2 là so sánh chìm. So sánh vắng yếu tố 2, 3 là so sánh sử dụng chỗ ngắt
giọng và hình thức đối chọi.
* Tiểu kết
Những vấn đề lý thuyết trên đây được chúng tôi dùng làm cơ sở lý luận
để nghiên cứu căn cứ và phương tiện xây dựng câu đố.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ LÝ THUYẾT NGỮ DỤNG HỌC
Sự ra đời của ngữ dụng học được xem là phản ứng của ngôn ngữ học
đối với những luận điểm cực đoan của F.De Saussure. Ngữ dụng học đã đưa
ra một cái nhìn biện chứng về ngôn ngữ, đó là sự chú ý tới mối quan hệ giữa
ngôn ngữ và xã hội. Nói khác đi, ngữ dụng quan tâm sâu sắc tới sự thực hiện
chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Bất cứ một yếu tố nào thuộc về ngôn ngữ
(dù ở trạng thái tĩnh hay động) cũng đều có khả năng thực hiện chức năng

giao tiếp. Câu đố chính là một dạng thể hiện của ngôn ngữ trong trạng thái
động. Cho nên, câu đố có thể được coi là một trong những phương tiện dùng
để giao tiếp xã hội.
Khi nghiên cứu câu đố dưới góc nhìn của ngôn ngữ học, chúng tôi chú
ý đến một số vấn đề ngữ dụng mà những vấn đề này chính là cơ sở của việc
miêu tả, phân tích câu đố trong chương 3.
1.3.1. Chiếu vật và các phƣơng thức chiếu vật
1.3.1.1. Khái niệm về hành động chiếu vật
Các nhà lôgic học rất quan tâm đến vấn đề chiếu vật trong dụng học.
George Yule trong cuốn Dụng học quan niệm: “Chiếu vật là một hành động
trong đó một người nói, hay người viết sử dụng các hình thái ngôn ngữ làm
cho một người nghe hay người đọc có thể nhận diện được cái gì đó”[69,43].
Như vậy, chiếu vật là một hành vi ngôn ngữ. Hành vi chiếu vật này thuộc về
con người chứ không phải là việc của tự thân ngôn ngữ. Yule viết :“Chúng ta
biết rằng tự thân các từ không qui chiếu đến cái gì cả. Con người mới làm cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
việc qui chiếu đó”[69,43]. Quan niệm về hành vi chiếu vật được GS. Đỗ Hữu
Châu đơn giản hoá như sau:“Thuật ngữ chiếu vật được dùng để chỉ phương
tiện nhờ đó người nói phát ra một biểu thức ngôn ngữ, với biểu thức này
người nói nghĩ rằng nó sẽ giúp cho người nghe suy ra được một cách đúng
đắn thực thể nào, đặc tính nào, quan hệ nào, sự kiện nào anh ta định nói
đến”[8,61]. Sự qui chiếu vì vậy gắn liền với mục đích và niềm tin của người
nói. Để có sự quy chiếu thành công, người nghe phải có sự suy luận bởi lẽ
không có mối liên hệ trực tiếp nào giữa các thực thể với các từ. Mặt khác,
phải xác định rõ diễn ngôn đang nói về thể giới thực hay ảo, thế giới tự nhiên
hay nhân tạo để hiểu nghĩa của diễn ngôn. Chẳng hạn A nói với B: “Mẹ vừa
mua cho mình một con gấu màu xanh rất đẹp”. Biểu thức con gấu màu xanh
là tín hiệu ngôn ngữ để chiếu vật. Tuy nhiên, B chỉ có thể xác định nghĩa
chiếu vật của cụm từ con gấu màu xanh khi xuất phát từ thế giới đồ vật nhân
tạo mà không phải từ thế giới tự nhiên.

1.3.1.2. Phương thức chiếu vật
Phương thức chiếu vật là cách thức mà con người sử dụng để thực hiện
hành vi chiếu vật. Có ba phương thức chủ yếu, đó là: dùng tên riêng, dùng
miêu tả xác định và dùng chỉ xuất.
a) Chiếu vật bằng tên riêng
Tên riêng là tên đặt cho từng cá thể sự vật. Ví dụ như Lan, Mai, Đào,
Hùng là tên đặt cho cá thể mỗi người. Chức năng cơ bản của tên riêng là chỉ
cá thể sự vật đúng với phạm trù của cá thể được gọi bằng tên riêng đó. Thí dụ,
tên riêng chỉ người có chức năng cơ bản là chỉ cá thể người trong phạm trù
người; tên riêng của sông núi có chức năng cơ bản chỉ cá thể núi sông trong
phạm trù vật thể tự nhiên. Do tên riêng là tên của cá thể sự vật nên sử dụng
biểu thức chiếu vật tên riêng ít phụ thuộc vào đặc điểm riêng của từng cuộc
giao tiếp. Nói cách khác, biểu thức ngôn ngữ tên riêng quy chiếu vào một sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vật duy nhất. Khi sử dụng biểu thức chiếu vật tên riêng, người nhận dễ dàng
thực hiện thành công hành động chiếu vật.
Trường hợp các sự vật trùng tên riêng cùng phạm trù, người ta thường
dùng thêm các định ngữ hoặc các “tiểu danh” sau tên riêng.Ví dụ, ta nói Linh
béo để phân biệt với Linh cận, ta nói Đồng Văn Hà Giang để phân biệt với
Đồng Văn Hà Nam.
Trường hợp các sự vật trùng tên khác phạm trù, ta thêm danh từ chung
đặt trước danh từ riêng. Ví dụ: cô Hồng, sông Hồng.
b) Chiếu vật bằng biểu thức miêu tả
Không phải sự vật nào cũng có tên riêng và không phải lúc nào tên riêng
của sự vật được nói đến cũng được người phát và người nhận biết. Do đó, để
người nhận có thể thực hiện hành động chiếu vật thành công, người phát phải
sử dụng biểu thức chiếu vật miêu tả (BTCV miêu tả). BTCV miêu tả là "biểu
thức chiếu vật có sử dụng các từ ngữ nêu đặc điểm của sự vật" [14,506].
Ví dụ (17): Con gấu màu xanh vừa mua hôm qua bị mất rồi.
Các yếu tố: xanh, mua hôm qua vừa thực hiện chức năng miêu tả, vừa

thực hiện chức năng chiếu vật.
Điều chung nhất chi phối các BTCV miêu tả là các yếu tố miêu tả của
BTCV miêu tả không cần thật nhiều, thật đầy đủ, chỉ cần nêu ra một vài dấu
vết mà người nói cho rằng người nghe dựa vào đó sẽ xác định được nghĩa
chiếu vật của biểu thức chiếu vật. Những yếu tố này thường là những yếu tố
có thể quan sát được ngay khi hội thoại miệng.
Thêm vào đó, trật tự sắp xếp các đặc điểm trong biểu thức chiếu vật
cũng đóng vai trò quan trọng để phù hợp tình huống giao tiếp. Thông thường,
người ta sắp xếp các đặc điểm theo trật tự từ chung tới riêng, tức là các đặc
điểm của nhiều sự vật đến đặc điểm của từng cá thể sự vật. Vấn đề về số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
lượng các đặc điểm và trật tự sắp xếp chúng trong biểu thức chiếu vật miêu tả
có rất nhiều khía cạnh thú vị khi nghiên cứu chúng trong câu đố.
c. Chiếu vật bằng chỉ xuất
Chỉ xuất là phương thức chiếu vật bằng ngôn ngữ dựa trên hành động
chỉ trỏ. Quy tắc chiếu vật chỉ trỏ là sự vật được chỉ trỏ phải ở gần (trong tầm
với của người chỉ và trong tầm nhìn của người chỉ và người được chỉ) đối với
một vị trí được lấy làm mốc. Điểm lấy làm mốc để chỉ trỏ thường là cơ thể
của người chỉ tính theo hướng nhìn thẳng của người này.
Bất cứ tín hiệu nào cũng có yếu tố chỉ hiệu. Chỉ hiệu là tín hiệu mà mỗi
lần nó xuất hiện đều gắn liền với sự có mặt của vật mà nó là tín hiệu. Trong
ngôn ngữ, những đại từ xưng hô ngôi thứ nhất, thứ hai có tính chất chỉ hiệu vì
mỗi khi chúng được dùng là người nói và người nghe cũng có mặt trong giao
tiếp. Thêm vào đó, những từ như này, kia, ấy, nọ…cũng có tính chỉ hiệu. Ví
dụ khi ta nói cái bàn này thì từ này cho chúng ta biết rằng cụm từ cái bàn ứng
với sự vật bàn đang ở trước mắt, đang được người nói đề cập đến.
Tóm lại, lý thuyết chiếu vật cũng đã được chúng tôi vận dụng để nghiên
cứu cách thức xây dụng câu đố.
1.3.2. Hành vi ngôn ngữ
Nói cũng là một loại hành động. Khi chúng ta nói năng là chúng ta

hành động. Austin - người khởi xướng ra lý thuyết hành vi ngôn ngữ - cho
rằng hành động ngôn ngữ có ba loại lớn: hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và
hành vi ở lời. Ngữ dụng học chủ yếu quan tâm đến hành vi ở lời. Lý thuyết
hành vi ở lời cũng là một trong những căn cứ để nghiên cứu câu đố mà luận
văn đã sử dụng.
1.3.2.1. Khái niệm hành vi ở lời
Hành vi ở lời là hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của
một hành vi ở lời là tạo ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng ở người nhận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ví dụ: ngay khi người nói (Sp1) phát ngôn Tôi hứa ngay mai tôi sẽ đến
thì hành vi “hứa” đã được xác lập và thực hiện. Sp1 đã bị ràng buộc vào trách
nhiệm phải thực hiện lời hứa của mình và người nghe (Sp2) có quyền chờ đợi
kết quả của lời hứa đó. Như vậy, hành vi hứa đã thay đổi tư cách pháp nhân
của các nhân vật giao tiếp.
1.3.2.2. Các loại hành vi ở lời
Có nhiều tiêu chí để phân loại hành vi ở lời. Luận văn này chỉ quan tâm
hai loại hành vi ở lời, đó là: hành vi ở lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp.
Hành vi ở lời trực tiếp là những hành vi được thực hiện đúng với đích ở
lời, đúng với điều kiện sử dụng của chúng. Hành vi hứa của ví dụ trên thuộc
loại hành vi ở lời trực tiếp.
Hành vi ở lời gián tiếp là hành vi trong đó người nói thực hiện một
hành vi ở lời này nhưng lại làm cho người nghe (dựa vào những hiểu biết
ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai người) suy ra hiệu lực ở lời của
một hành vi khác. Trong cuộc sống thường ngày chúng ta gặp và sử dụng
thường xuyên kiểu hành vi ở lời gián tiếp này. Chẳng hạn như phát ngôn có
hình thức hỏi nhưng nhằm đích chào như: Bác đi đâu về đấy ạ? Anh có khoẻ
không? Chị đi làm về à?v.v..
Nhìn chung, khi giao tiếp người ta đòi hỏi phải có sự hồi đáp từ người
đang đối thoại với mình. Chính vì thế, tất cả các hành vi ngôn ngữ đều đòi hỏi
phải có sự hồi đáp. Khi thực hiện một hành vi có hiệu lực ở lời, người nói có

trách nhiệm với phát ngôn của anh ta và anh ta có quyền đòi hỏi người đối
thoại với mình phải phản ứng lại bằng một hành vi ở lời tương ứng. Thực tế sử
dụng ngôn ngữ cho thấy thường gặp các cặp hành vi ngôn ngữ tương thích kiểu:
Chào ……….. chào
Hỏi ………..... trả lời
Cám ơn …….. đáp lời cám ơn
Cầu khiến ….. chấp nhận/từ chối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nhưng cũng có không ít trường hợp hành vi ở lời không đòi hỏi sự hồi
đáp, thường xảy ra với hành vi cảm thán. Xét trên phương diện ngữ âm,
những âm như: ối, á, ái là những âm thanh rên rỉ, những tiếng kêu của chủ thể
phát ngôn để giải toả tâm lý, cảm xúc, do đó nó không đòi hỏi phải có hồi
đáp. Nhưng xét về mặt ý nghĩa, khi những tiếng này được phát ra, cũng có
nghĩa là Sp1 đang mong có một ai đó chia sẻ với mình, có thể Sp1 đang cần
một lời khuyên hay sự an ủi. Điều này cho thấy, việc nắm được những qui tắc
điều khiển hành vi ở lời sao cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp cũng là một
nghệ thuật.
1.3.3. Khái quát về hội thoại
1.3.3.1. Khái niệm
"Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ,
nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác”[8,201]. Mỗi
tình huống giao tiếp khác nhau sẽ có những cuộc thoại khác nhau. Các cuộc
thoại có thể khác nhau ở các điểm sau:
- Đặc điểm thoại trường (không gian, thời gian) ở đó diễn ra cuộc hội
thoại. Thoại trường có thể là công cộng hoặc riêng tư. Thoại trường không
phải chỉ có nghĩa không gian, thời gian tuyệt đối mà gắn với khả năng can
thiệp của người thứ ba.
- Số lượng người tham gia: số lượng nhân vật hội thoại hay đối tác thay
đổi từ hai đến một số lượng lớn. Có những cuộc hội thoại tay đôi, tay ba.
- Cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại: đặc điểm

này của hội thoại rất khác nhau tuỳ theo các cuộc hội thoại. Sự khác nhau này
có thể phụ thuộc vào các yếu tố như tính chủ động hay thụ động của đối tác,
sự có mặt hay vắng mặt của vai nghe trong hội thoại.
- Cuộc thoại khác nhau ở tính có đích và không có đích
- Cuộc thoại có thể khác nhau về tính có hình thức hay không

×