Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

BAI TIEU LUAN VAI TRO TON GIAO TRONG DOI SONG XH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.53 KB, 15 trang )

Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một xã hội ngày càng phát triển về mọi mặt: kinh
tế, chính trị, khoa học kỹ thuật – công nghệ và nghệ thuật. Trong đó vấn đề tôn giáo
là một hiện tượng xã hội phức tạp, là một bộ phận cấu thành nên kiến trúc thượng
tầng của xã hội, chỉ có thể giải thích các vấn đề về tôn giáo một cách khách quan
khoa học dựa trên những quan niệm của nền tảng triết học duy vật về lịch sử, cũng
như nhận thức duy vật khoa học.
Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Nhà nước ta đã nhận
định tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, các giáo lý tôn giáo đều chứa
đựng một số giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức
mới và nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn
giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng con
người đến Chân – Thiện – Mỹ. Tuy nhiên, đạo đức tôn giáo cũng còn nhiều yếu tố
tiêu cực, nó hướng con người đến hạnh phúc hư ảo và làm mất tính chủ động, sáng
tạo của con người. Vấn đề đặt ra là, cần nhận diện đúng vai trò của đạo đức tôn giáo
nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và hạn chế những tác động tiêu
cực của nó đối với việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Trước đây, trong một thời gian dài, chúng ta đã coi tôn giáo như là “tàn dư”
của xã hội cũ, là kết quả sai lầm trong nhận thức của con người. Tôn giáo bị xem
như cái đối lập với chủ nghĩa xã hội, với khoa học, kỹ thuật hiện đại và cần phải
loại bỏ. Gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận định mang tính khách
quan, khoa học về tôn giáo, xác định tôn giáo còn tồn tại lâu dài và có một số giá trị
đạo đức phù hợp với lợi ích của toàn dân, với công cuộc xây dựng xã hội mới và do
vậy, cần phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Điều này
có ý nghĩa quan trọng trong việc họach định chính sách tôn giáo, bảo vệ và tu tạo
các di sản văn hóa tôn giáo.
Trong bài tiểu luận của mình tôi tập trung làm rõ vấn đề triết học là gì? Vai


trò của triết học trong đời sống xã hội; nguồn gốc về sự ra đời của tôn giáo, từ đó
SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

1


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

làm rõ vai trò của tôn giáo đối với xã hội dưới góc độ triết học, đặc biệt là nhìn
nhận tôn giáo trên quan điểm duy vật biện chứng của Mác-Lênin.

B. PHẦN NỘI DUNG
1. Khái niệm và vai trò của triết học
1.1. Khái niệm triết học
Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ thứ
VIII đến thế kỷ thứ III (Tr.CN). Từ thời cổ đại đã xuất hiện nhiều quan điểm khác
nhau về triết học. Người Trung quốc quan niệm “ triết” chính là “trí”, là cách thức
và nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới chân lý
tối cao. Còn theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm
ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn
dắt con người đến với lẽ phải. Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp
được la tinh hoá là Philôsôphia - nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như
vậy Philôsôphia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm
chân lý của con người.
Tóm lại, dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình thái
cao nhất của tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận chân lý,
nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật. Tuy có nhiều cách định nghĩa khác

nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống nhau, đó là: triết học nghiên cứu thế
giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của
chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng
đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý. Khái quát lại
ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó.
2.2. Vai trò của triết học

SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

2


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

Nghiên cứu triết học giúp chúng ta có được nhân sinh quan để nhìn thế giới
quan một cách chi tiết sâu sắc không chỉ vẻ bên ngoài mà còn nhận thức được bản
chất bên trong của sự vật, hiện tượng. Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm,
quan niệm của con người về thế giới xung quanh, về bản thân con người, về cuộc
sống và vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan là nhân tố định hướng
cho con người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới xunh quanh, cũng như tự nhận
thức bản thân mình, và đặc biệt là từ đó con người xác định thái độ, cách thức hoạt
động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề hình thành nhân sinh
quan tích cực tiến bộ. Con người tồn tại và phát triển trong mối quan hệ với thế giới
xung quanh cho nên dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và
nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với niềm tin vào nó dần dần hình
thành nên nhân sinh quan. Nhân sinh quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt

động sống của con người, nó như một “thấu kính” qua đó con người có thể nhìn
thấu được bản chất của sự vật, hiện tượng, xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và
lựa chọn cách thức đạt mục đích đó.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế
giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Do vậy, thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp
cho con người sáng tạo trong hoạt động. Ngược lại, thế giới quan sai lầm làm cho
con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động. Vì vậy, việc nghiên cứu
triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan.
Tóm lại, với tư cách là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận, triết
học có nhiệm vụ giải thích thế giới, nó cung cấp cho chúng ta cách nhìn nhận, xem
xét thế giới từ đó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Việc nghiên cứu triết
học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất để có thể áp dụng cho quá trình
nghiên cứu các ngành khoa học cụ thể, rèn luyện năng lực tư duy của con người, trở
nên năng động sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung.
2. Nguồn gốc và bản chất và chức năng của tôn giáo
SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

3


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

2.1. Nguồn gốc của tôn giáo:
V.I.Lênin gọi đó là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện tất yếu làm nảy
sinh niềm tin tôn giáo là những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc đó bao gồm:

nguồn gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý.
Nguồn gốc kinh kế - xã hội là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện
khách quan của đời sống xã hội tất yếu làm nảy sinh và tái hiện những niềm tin tôn
giáo. Trong xã hội công xã nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém
con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy
họ đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa những
sức mạnh đó. Từ đó, họ xây dựng nên những biểu hiện tôn giáo để thờ cúng. Khi xã
hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất lực trước sức mạnh
của thế lực giai cấp thống trị. Họ không giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa
giai cấp và áp bức, bóc lột, tội ác … tất cả họ quy về số phận và định mệnh và cam
chịu. Từ đó, họ đã thần thành hóa một số người thành những thần tượng có khả
năng chi phối suy nghĩ và hành động người khác mà sinh ra tôn giáo.
Chúng ta có thể thấy rằng, sự thống trị của tự nhiên đối với con người không
phải do thuộc tính và quy luật của bản thân tự nhiên chi phối mà do tính chất mối
quan hệ của con người với tự nhiên, nghĩa là sự yếu kém về trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Như vậy, không phải bản thân tự nhiên sinh ra tôn giáo mà là
mối quan hệ đặc thù của tự nhiên với con người do trình độ sản xuất quyết định, sự
bần cùng về kinh tế, áp bức, bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công của
xã hội là nguồn gốc sâu xa của sự hình thành tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo là sự tuyệt đối hóa, chủ quan trong nhận
thức của con người. Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người
về tự nhiên, xã hội và bản thân mình còn có giới hạn. Mặt khác, trong tự nhiên và
xã hội có nhiều điều khoa học chưa khám phá và giải thích được nên con người lại
tìm đến tôn giáo. Sự nhận thức của con người khi xa rời hiện thực, thiếu khách quan
dễ rơi vào ảo tưởng, thần thành hóa đối tượng.
SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

4



Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo không chỉ bao gồm sự sợ hãi, lo âu của con
người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội mà dẫn đến việc sinh ra tôn giáo mà cả
những tâm lý tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng cũng có khi được thể hiện qua
tôn giáo.
2.2. Bản chất của tôn giáo
Ăngghen đã đưa ra một định nghĩa về tôn giáo từ góc độ triết học như sau:
“tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc con người –
của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản
ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu
trần thế”. Qua định nghĩa trên ta thấy rằng: Tôn giáo là sản phẩm của con người, do
con người sáng tạo ra, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội
xác định. Sự sáng tạo ra tôn giáo của con người được thực hiện thông qua con
đường nhận thức. Còn đối tượng nhận thức của con người là những hiện tượng siêu
nhiên bên ngoài ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Do đó xét về mặt bản chất, tôn
giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự hư ảo, sự bất lực, bế tắc của con người
trước sức mạnh tự nhiên và sức mạnh xã hội; là cái con người dùng để thần thánh
hóa, giải thích thế giới tự nhiên và xã hội.
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hóa, phù hợp
với đạo đức, đạo lý của xã hội. Về phương diện thế giới quan thì thế giới quan duy
vật Mác xít và thế giới quan tôn giáo là đối lập nhau. Tuy vậy, những người cộng
sản có lập trường mác xít không bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những
nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa MácLênin và những người cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
2.3. Một số chức năng cơ bản của tôn giáo
Chức năng thứ nhất cũng là chức năng chủ yếu, đặc thù và phổ biến của tôn

giáo là chức năng đền bù hư ảo, ở đâu có tôn giáo ở đó có chức năng đền bù hư ảo.
Để giải thích về chức năng này của tôn giáo C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng
SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

5


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

“tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, nghĩa là cũng giống như thuốc phiện, tôn
giáo tạo ra vẻ ngoài của “sự giảm nhẹ” tạm thời những nỗi đau khổ của con người,
an ủi cho sự mất mát, thiếu hụt của con người trong cuộc sống, tách con người khỏi
cuộc sống hiện thực, gieo vào họ những quan niệm phản khoa học.
Chức năng thứ hai của tôn giáo là chức năng thế giới quan, giải thích các vấn
đề tự nhiên và xã hội. Sự lý giải của tôn giáo về thế giới nhằm hướng con người đến
cái siêu nhiên, thần thánh, xem nhẹ đời sống hiện thực. Quan điểm này có thể tác
động tiêu cực đến nhận thức của những người theo đạo, đến thái độ của họ đối với
xung quanh.
Chức năng thứ ba của tôn giáo là chức năng điều chỉnh, tạo ra một hệ thống
các chuẩn mực, những giá trị nhằm điều chỉnh hành của những con người có đạo,
không chỉ là những hành vi trong thờ cúng mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày
trong gia đình cũng như ngoài xã hội của giáo dân. Vì vậy, hệ thống chuẩn mực, giá
trị trong lý thuyết đạo đức và xã hội mà tôn giáo tạo ra đã ảnh hưởng lớn đến mọi
hoạt động của con người. Tất nhiên chúng ta cần phải chú ý rằng những chuẩn mực,
giá trị tôn giáo đã bị tước bỏ khá nhiều những đặc trưng khách quan và phụ thuộc
vào những giá trị siêu nhiên, hư ảo.
Tóm lại, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, nó không chỉ thực hiện

một chức năng mà gồm một hệ thống chức năng xã hội. Mặc dù là chức năng chủ
yếu nhưng chức năng đềnbù hư ảo không thể tách rời các chức năng khác của tôn
giáo.
3. Những mặt tích cực và tiêu cực của tôn giáo đối với đời sống xã hội
3.1. Về mặt tích cực
Do tôn giáo có sự đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể
xem nó như một phần tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát triển, tôn
giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai trò
chuyển tải, hoà nhập văn hóa và văn minh, góp phải duy trì đạo đức xã hội. Nó có
SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

6


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Tôn giáo đã đem lại cho
cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc những biểu hiện độc
đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn
hóa vật chất cũng như tinh thần.
Điều dễ nhận thấy là, những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau về
niềm tin, rất xa nhau về địa lý vẫn có một điểm chung là khuyên con người hướng
thiện. Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức tôn giáo là, ngoài những điều phù hợp
với tình cảm đạo đức của nhân dân, nó được thực hiện thông qua tình cảm tín
ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp
thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ
trong các quan hệ cộng đồng. Họat động hướng thiện của con người được tôn giáo

hóa sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn.
Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã
góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo
đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho
xã hội ngày càng thuần khiết. Đặc biệt, đạo đức tôn giáo được hình thành trên cơ sở
niềm tin vào cái siêu nhiên (Thượng đế, Chúa, Thánh Ala) và sau này, Đức Phật
cũng được thiêng hóa, nên các tín đồ thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện, tự
giác. Song, suy cho cùng, việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức ấy
cũng là để phục vụ cho mềm tin siêu nhiên. Sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi, giữa
cái thực và cái thiêng đã mang lại cho tôn giáo khả năng thuyết phục tín đồ khá
mạnh mẽ. Trên thực tế, chúng ta thấy nhiều người cúng rất nhiều tiền của vào việc
xây dựng chùa chiền, làm từ thiện… vốn là những tín đồ tôn giáo.
Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích
cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cập đến tình
yêu. Tinh thần “từ bi” trong Phật giáo không chỉ hướng đến con người, mà còn đến
cả muôn vật, cỏ cây Phật giáo kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thương và bảo vệ sự
sống. Đặc biệt, trong quan hệ giữa con người với con người, Phật giáo muốn tình
yêu thương ấy phải biến thành hành động “bố thí”, cứu giúp những người đau khổ
SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

7


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

hoặc “nhẫn nhục” để giữ gìn đoàn kết. Muốn giải thoát khỏi đau khổ, con người
phải tự hoàn thiện đạo đức cá nhân, diệt trừ tham, sân, si, xoá bỏ vô minh, chặt đứt

cây “nghiệp” để vượt qua biển khổ luân hồi. Đạo đức của Kitô giáo cũng đề cập đến
tình yêu: yêu thương bản thân mình, yêu tha nhân và yêu thiên nhiên, trong đó, yêu
tha nhân “yêu người” là trọng tâm của quan niệm đạo đức về tình yêu. Những
chuẩn mực của đạo đức Kitô giáo giúp con người hoàn thiện đạo đức cá nhân trong
quan hệ với cộng đồng. Tình yêu tha nhân ở đây không đơn thuần là tình yêu trong
tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách mặc, chăm sóc người ốm
đau, bệnh họan, khuyên can người lầm lỗi. Tóm lại, đây là những hành vi đạo đức
rất cụ thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều cảnh khổ cần được cứu vớt, giúp
đỡ.
Tuy nhiên, tình yêu, lòng từ bi mà đạo đức tôn giáo đề cập đến còn chung
chung, trừu tượng. Các tôn giáo đều muốn san bằng mọi bất công, mâu thuẫn trong
xã hội bằng đạo đức. ý tưởng đó dù tất đẹp, nhưng khó có thể hiện thực hóa trong
cuộc sống trần thế. Song, có thể nói việc hoàn thiện đạo đức cá nhân mà đạo đức
tôn giáo đề ra nhằm hướng đến mục đích siêu nhiên, hướng đến chốn Thiên đường
của Chúa hay cõi Niết bàn của Phật, dẫu sao vẫn có những tác động tích cực đến
đạo đức cá nhân và xã hội.
3.2. Về mặt tiêu cực
Về bản chất, chúng ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là thế giới
quan tiêu cực. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân
và quần chúng chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con người lãng quên
hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị
đích thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý
sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm
điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên đường
của Chúa hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời là nơi đầy
những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế,
vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa và trở về nơi nước
SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng


8


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

Chúa, các con chiên phải tránh xa qủy dữ. Muốn chứng được Niết bàn (đạt đến giải
thoát), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham muốn dục vọng, diệt trừ tham, sân, si.
Tất cả những quan niệm, những triết lý sống đó cho thấy mặt tiêu cực của thế giới
quan tôn giáo.
Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo. Tôn giáo không đề
cao cuộc sống trần gian. Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục trước tình cảnh
nô lệ, biết sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tôn giáo trở thành công
cụ phục vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu tôn giáo
không phải là của giai cấp thống trị). Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm vào đam
mê, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp. C.Mác gọi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân” là theo nghĩa đó và cũng vì vậy, đạo đức tôn giáo đối lập với đạo đức chân
chính.
Về mặt nào đó, đạo đức tôn giáo đã tạo cho con người thế giới quan và nhân
sinh quan sai lệch, làm hạn chế tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con người.
Đạo đức tôn giáo hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, song đó là thứ hạnh
phúc hư ảo, hảo huyền. Tinh thần nhẫn nhục mà các tôn giáo đề ra thể hiện thái độ
cực đoan, thủ tiêu đấu tranh. Nó tạo cho các tín đồ thái độ bàng quan trước thế giới
hiện thực, bằng lòng với số phận. không tích cực đấu tranh chống lại những cái xấu,
cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong niềm tin rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu “quả
báo” hoặc bị trừng trị ở kiếp sau. Chính tâm lý đó đã ngăn cản con người đi đến
hạnh phúc thực sự của mình nơi trần thế.
Thêm nữa, đạo đức tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá
nhân nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã hội của con người. Với tính cách một

hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có quá trình phát
sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của con người. Do vậy,
muốn hoàn thiện đạo đức cá nhân, không thể tách nó khỏi những điều kiện sinh họat
vật chất cùng các quan hệ xã hội khác của con người. C.Mác đã khẳng định rằng,
“bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” và nhân cách con người
cũng chỉ có thể được hoàn thiện trong các mối quan hệ xã hội mà thôi.
SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

9


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

Như trên đã phân tích, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tích cực, phù hợp với
xã hội ta hiện nay. Song, cũng sẽ là không khoa học, nếu chúng ta tuyệt đối hóa đạo
đức tôn giáo, thổi phồng vai trò của nó. Ph.Ăngghen từng khẳng định rằng, ngay cả
một số yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo cũng chỉ giống với đạo đức mới của
chúng ta về mặt hình thức mà thôi. Vì vậy, mặc dù tôn giáo “là sự phản kháng
chống lại sự nghèo nàn của hiện thực” nhưng rất cuộc nó vẫn chỉ là một sự phản
kháng mang tính tiêu cực, thụ động của con người mà thôi.
Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan sai lầm nên con người nếu chỉ nhận
thức dựa trên thế giới quan tôn giáo thì sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến con
người và đời sống của con người. Ở phương Tây đã có một thời Thiên chúa giáo chi
phối hoàn toàn nhận thức của con người. Khi đó những ai đi ngược lại những suy
nghĩ của đạo Thiên chúa đều phải nhận lấy những hình phạt nặng nề, như Galile
chứng minh được rằng Trái đất quay xung quanh mặt trời nhưng nhà thờ lại quan
niệm rằng trái đất là trung tâm và mặt trời phải quay quanh trái đất và kết cục là

Galile đã phải lĩnh án hoả thiêu.
Tôn giáo nếu bị những thế lực xấu dụng sẽ gây ra những ảnh hưởng rất cực
đoan đến xã hội. Và cũng do bởi nhận thức sai lệch mà trong một số giáo phái xuất
hiện những tư tưởng rất cực đoan: như vụ đầu độc bằng khí độc tại ga tàu điện
ngầm của giáo phái Aum vào năm 1995 tại Nhật Bản do niềm tin vào thuyết Ngày
tận thế; hoặc những vụ khủng bố của những phần tử Hồi giáo cực đoan như vụ
khủng bố 11/09/2001 tại trung tâm thương mại Thế Giới của Mỹ của những phần tử
này mà đứng đầu là Bin Laden; và vấn đề nóng bỏng hiện nay đó là những phần tử
cực đoan của tổ chức Hồi giáo IS đang ngang nhiên thách thức cả thế giới với các
màn chặt đầu và xử tử hàng loạt những người không cùng ý thức hệ với chúng,
không chịu cải theo đạo Hồi. Chúng cướp bóc, bóc lột, hãm hiếp và ép buộc phụ nữ
phải kết hôn, xâm chiếm các bản làng làm căn cứ địa để phá hoại, tấn công và bành
chướng khắp nơi.
Cũng chính bởi tôn giáo là một bộ phận cấu thành xã hội nên nó là phương
tiện để người ta sử dụng nó cho các mục đích khác. Chúng ta hẳn con nhớ những vụ
SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

10


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

xây chùa giả rầm rộ ở chùa Hương để nhằm mục đích bòn rút những đồng tiền
thành tâm của các tín đồ. Rồi những hình thức như lên đồng, gọi hồn, xem bói, giải
hạn...tất cả chỉ là lợi dụng tôn giáo để kiếm tiền bất chính.
Ở nước ta tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là quyền của mỗi công dân,
nhưng có một số kẻ xấu đã sử dụng chiêu bài tôn giáo để phá hoại nước ta. Như

những vụ truyền bá tư tưởng phản động của đạo Hồi giáo cực đoan vào các tỉnh
miền nam nước ta, hay các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tôn giáo kích động
nhân dân các tỉnh Tây nguyên nhằm các mục tiêu chính trị với sự chuẩn bị ra đời
của nhà nước mới.
4. Sự phát triển của tôn giáo ở Việt Nam
Vào nửa đầu những năm 70 của thế kỷ XX, ở miền nam Việt Nam người ta
thống kê được hơn 30 tôn giáo, trong đó có hai tôn giáo có số lượng tín đồ đông, có
hệ thống giáo lý tương đối chặt chẽ, có hệ thống tổ chức, còn tồn tại phát triển cho
đến ngày nay, đó là đạo Cao Đài và đạo Hoà Hảo.
Đạo Cao Đài hay “Đại đạo Tam kỳ Phổ Độ” là sự thống nhất của năm ngành
đạo: Nhân đạo (đạo Khổng), Thần đạo (đạo thần của Trung Hoa ),Thánh đạo (đạo
Công giáo), Tiên đạo (đạo Lão) và Phật đạo (đạo Phật). Thực chất đây là sự vay
mượn của các tôn giáo đã có mặt ở Việt Nam để thu hút tín đồ với tư cách là những
cư dân phức tạp ở vùng Nam Bộ . “Phổ độ” là cứu vớt (theo cách nói của Phật giáo
hay cứu vớt theo cách nói của Công giáo, Còn “Tam Kỳ” được giải thích là ba thời
kỳ lịch sử gắn với ba lần cứu vớt chúng sinh của Ngọc Hoàng thượng đế. Vì vậy vị
thần cao nhất mà đạo Cao Đài tôn thờ là Ngọc Hoàng thượng đế (danh xưng Cao
Đài).
Đạo Hoà Hảo ra đời năm 1939 ở làng Hoà Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu
Đốc (An Giang ngày nay ). Đạo Hoà Hảo còn gọi là Phật giáo Hoà Hảo vì sự ra đời
của nó xét về mặt tín ngưỡng tôn giáo, thì nó là sự phát triển nối tiếp của Phật giáo
Việt Nam nói chung và của một số phái Phật giáo ở Nam Bộ nói riêng. Đạo Hoà
Hảo là sự truyền bá khéo léo kết hợp giữa tư tưởng tôn giáo với tinh thần chống
SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

11


Tiểu luận triết học


Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

thực dân chống đế quốc; kết hợp giữa truyền giáo và chữa bệnh, nên có sự thu hút
lớn đối với quần chúng nhân dân.
Ngoài hai đạo nói trên Tôn giáo Việt Nam không thể không kể đến sự phát
triển của Phật giáo, Ki Tô giáo (đạo Thiên Chúa ), đạo tin lành (ở vùng dân tộc
thiểu số), thờ cúng tổ tiên (phổ biến nhất).
Sau những thăng trầm của lịch sử, năm 1981 Phật giáo Việt Nam đó tiến
hành đại Hội lần I thành lập một tổ chức thống nhất : Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
với phương châm hoạt động là : “Đạo Pháp – Dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội ”. Hiện
nay Phật giáo có khoảng gần 7 triệu tín đồ và hơn 20 nghìn nhà tu hành.
Vào những năm đầu của năm 1975 đất nước được thống nhất, năm 1980 Hội
đồng Giám mục Việt Nam được thành lập và đã ra một bức thư chung xác định
phương hướng hoạt động của Giáo hội là “ Sống Phúc âm trong lòng dân tộc cùng
đồng bào cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Hiện nay đạo Thiên chúa có
khoảng 5 triệu tín đồ có mặt ở khắp mọi nơi, tín đồ đạo giáo có nhiều đóng góp vào
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện phương châm sống “Tốt Đời –
Đẹp Đạo”.
Thờ cúng tổ tiên: là loại hình tín ngưỡng tiêu biểu. Nếu xem xét thờ cúng Tổ
tiên ở góc độ truyền thống thì đó là truyền thống nhớ ơn những người đã khuất
thuộc về huyết tộc của mình. Còn xem thờ cúng Tổ tiên ở góc độ tín ngưỡng tôn
giáo thì thờ cúng Tổ tiên liên quan đến quan niệm về linh hồn, về thế giới bên kia,
về cuộc sống sau khi chết. Ở góc độ này thờ cúng Tổ tiên là sự thờ cúng vong linh
của những người đã khuất để cầu mong sự che chở, sự giúp đỡ, sự phù hộ của
những người đã khuất đối với những người đương sống. Biểu hiện của thờ cúng Tổ
tiên qua ma chay, giỗ tết, trong những công việc trọng đại của gia đình hay của một
thành viên trong gia đình.

SVTH: Võ Thị Tú Mẫn

GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

12


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

C. PHẦN KẾT LUẬN
Hầu hết các tôn giáo vẫn mang rất nhiều giá trị quan trọng thu hút một bộ
phận đông đảo quần chúng tham gia. Đây là tình hình chung không chỉ ở Việt Nam
mà trên toàn thế giới. Các tôn giáo chỉ còn mang giá trị văn hoá chứ không tham gia
vào chính trị.Một số tôn giáo có sự biến đổi liên tục nhanh chóng phù hợp với sự
phù hợp về kinh tế xã hội. Tuy nhiên một số tôn giáo ở vùng dân tộc đang bị các thế
lực phản động sử dụng, đây là địa bàn khó kiểm soát vì dân trí không cao và các thế
lực thù địch có thể tuyên truyền sai lệch các quan điểm của Đảng gây kích thích sự
chia rẽ đoàn kết dân tộc. Chính vì vậy việc tuyên truyền chính sách mới của Đảng
hiện nay rất quan trọng.
Các luận điểm chủ yếu của chính sách tôn giáo mới gồm: Mọi tôn giáo đều
bình đẳng trước pháp luật; Tôn giáo chỉ có ý nghĩa trong sinh hoạt văn hóa tinh thần
không còn tham gia vào các hoạt động chính trị; Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
và không tín ngưỡng của mọi người; Phát huy mặt tích cực của tôn giáo và hạn chế
các mặt tiêu cực có hại cho đời sống xã hội. Ăng-ghen đã nói mọi sự phát triển
không có định hướng đúng đều để lại phía sau một bãi hoang mạc. Tôn giáo là một
bộ phận trong xã hội loài người nó có một số mặt tốt như đạo Phật quan niệm ở hiền
gặp lành, ác giả ác báo..., Thiên Chúa giáo răn dạy các tín đồ của mình phải sống
lương thiện đó là những ưu điểm mà con người cần phát huy.
Tuy nhiên như đã phân tích ở trên thì tôn giáo dường như sẽ mất dần đi chỗ
đứng của mình, điều đó là tất nhiên bởi theo qui luật của sự phát triển thì cái cũ sẽ

bị thay thế bởi cái mới phát triển hơn. Con người càng ngày càng phát triển và dưới
sức mạnh của khoa học công nghệ thì con người ngày nay đã có những nhận thức
đầy đủ về thế giới và họ có thể cải biến tự nhiên cũng như xã hội bằng khả năng và
theo ý muốn của mình.

SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

13


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS, TS Đoàn, Quang Thọ (chủ biên).2007.Giáo trình triết học (dùng cho

học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết
học).NXB lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Đặng, Thị Lan.2007.“Về vai trò của đạo đức tôn giáo trong đời sống xã hội”.

Tạp chí Triết học, số 2 (189).
3. Giáo hội Phật giáo Việt Nam.”Tôn giáo – văn hóa – đạo đức”, xem ngày

03/06/2016 />4. Thư viện học liệu mở Việt Nam. “Chức năng của tôn giáo”, xem ngày

07/06/2016 />5. Nguyễn, Trọng Tuấn.2011.” Vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần của Đại hội XI”, Kỷ yếu hội thảo Văn kiện Đại hội XI của Đảng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn . Tạp chí

Cộng sản - Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.

SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

14


Tiểu luận triết học

Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

MỤC LỤC

SVTH: Võ Thị Tú Mẫn
GVHD: T.S Nguyễn Tiến Dũng

15



×