Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Tài liệu Tiểu luận “Vai trò của Nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta” pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.31 KB, 38 trang )

TRƯỜNG.........................................
KHOA.............................................





TIỂU LUẬN






“Vai trò của Nhà nước đối
với quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá ở nước ta”







1
MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................. 4
B. NỘI DUNG........................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ ...........................................................................................6


1.1. Vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá .............................. 6
1.1.1. Quan niệm công nghiệp hoá- Thực chất công nghiệp hoá.............................. 6
1.1.2. Vì sao hiện nay công nghiệp hoá lại gắn với hiện đại hoá.............................. 7
1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá............ 8
1.2. Tất yếu khách quan vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp
hoá............................................................................................................................. 9
1.2.1. Vai trò của Nhà nước trong việc định hướng cho quá trình công nghiệp hoá ... 9
1.2.2. Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển khoa học công nghệ ................. 11
1.2.3. Nhà nước với vai trò phát triển nguồn vốn ................................................... 13
1.2.4. Vai trò của Nhà nước trong quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá......14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA........................................................................16
2.1. Định hướng cho quá trình công nghiệp hoá ................................................ 16
2.1.1. Việc đề ra mục tiêu chiến lược kế hoạch bước đi của công nghiệp hoá....... 16
2.1.2. Thực trạng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với bước đi của quá
trình công ngiệp hoá................................................................................................ 16
2.1.3. Tạo nguồn lực cho tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước......................................................................................................................... 17
2.1.3.1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay............................................ 18
2.1.4. Phát tri
ển giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước................................................................... 20
2.2. Chính sách phát triển công nghệ .................................................................. 21
2.2.1. Phát triển công nghệ sản xuất........................................................................ 21
2.2.2. Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học ............................................................... 23
2.2.3. Nâng cao hiệu quả quảnlý Nhà nước về khoa học và công nghệ trong thời kì
công nghiệp hoá hiện đại hoá ................................................................................. 24
2.2.3.1. Một số thành tựu về ứng dụng khoa học và công nghệ ở n
ước ta trong thời
kì đổi mới................................................................................................................. 24

2.2.3.2. Thực trạng quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ.......................... 25
2.3. Chính sách huy động và sử dụng nguồn vốn............................................... 26
2.3.1. Thực trạng huy động vốn của Nhà nước....................................................... 26
2.3.2. Thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng và quản lý vốn........... 27
2.4. Quản lý quá trình công nghiệp hoá .............................................................. 29
2.4.1. Thực trạng vai trò quản lý của Nhà nước...................................................... 29
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI......32
3.1. Định hướng quá trình công nghiệp hoá ....................................................... 32
3.1.1. Xác định một cách toàn diện thích hợp hơn quá trình công nghiệp hoá ...... 32


2
3.1.2. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi của công nghiệp
hoá hiện đại hoá....................................................................................................... 32
3.1.3. Một số giải pháp cụ thể nhằm củng cố và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực............................................................................................................................ 33
3.1.4. Một số giải pháp phát triển giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực
cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ........................................... 36
3.2. Chính sách phát triể
n khoa học công nghệ.................................................. 39
3.2.1. Công nghệ nước ngoài .................................................................................. 39
3.2.2. Công nghệ và cán bộ khoa học trong nước................................................... 40
3.2.3. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước về KH - CN........ 42
3.3. Phát triển nguồn vốn...................................................................................... 42
3.3.1. Giải pháp huy động vốn ................................................................................ 42
3.3.2. Giải pháp sử dụng và quản lý vốn................................................................. 44
3.3.3. Đổi mới tổ chức bộ máy tài chính quốc gia và công tác kiểm toán kế toán ..... 45
3.4. Giải pháp trong vấn đề quản lý .................................................................... 48
3.4.1. Xác định đúng ph

ương hướng của cơ chế quản lý........................................ 48
3.4.2. Xây dựng hệ thống luật kinh tế..................................................................... 49
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................ 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 53



















LỜI MỞ ĐẦU


3
Bất kì một quốc gia nào muốn phát triển, đạt được trình độ một nước phát
triển đều phải trải qua nấc thang có tính tất yếu lịch sử. Đó là công nghiệp hoá.
Trên thế giới đã có nhiều nước tiến hành thành công công nghiệp hoá và hiện nay

cũng còn nhiều nước đang tiến hành công nghiệp hoá. Trong các giai đoạn phát
triển khác nhau của lịch sử loài người, công nghiệp hoá ở những nước khác nhau
có sự khác nhau v
ề mô hình, về thời gian thực hiện và do đó có sự khác nhau về
ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế xã hội. Nước ta bắt đầu công nghiệp hoá
từ năm 1960 theo đường lối do đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của đảng đề
ra. Đến nay sự nghiệp đó vẫn tiếp tục. Nhưng hoàn cảnh, điều kiện quốc tế và
trong nước, trình độ phát tri
ển kinh tế nước ta hiện nay khác nhiều so với năm
1960. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn phải giải quyết như: Công
nghiệp hoá có còn là tất yếu khách quan nữa không? Đánh giá như thế nào về thực
trạng công nghiệp hoá ở nước ta những năm qua? Mục tiêu, mô hình, nội dung
công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá ở nước ta hiện nay như thế nào?
S
ự phát triển của nền kinh tế trong hơn mười năm kể từ khi đổi mới đến nay
đã thu được nhiều kết quả đáng kể.Trong đó phải kể đến vai trò rất quan trọng của
Đảng và Nhà nước. Nhà nước là người hoạch định ra các chính sách chiến lược
phát triển kinh tế, phát huy tối đa những mặt tích cực, hạn chế tối thiểu những mặt
tiêu cực củ
a kinh tế thị trường. Mà quan trọng nhất là sự định hướng của nhà nước
để kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân đã lựa chọn.
Đây là điểm khác biệt giữa cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta và các nước khác.
Mặc dù Nhà nước ta đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu quả trong
sự nghiệp này, nhưng không phải là không có hạn chế. Đó là sự c
ồng kềnh của bộ
máy, chưa xóa bỏ được thói quen của cơ chế cũ, chưa thích nghi với cơ chế mới
nên hiệu quả chưa cao. Để nhận thức rõ hơn về vai trò của nhà nước trong phát
triển kinh tế nói chung và trong công nghiệp hoá hiện đại hoá nói riêng, trong bài
viết này, em xin chọn đề tài: “Vai trò của Nhà nước đối với quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta”.

Do trình độ có hạn, không thể bao quát đượ
c hết mọi khía cạnh của vấn đề to
lớn và khó khăn này, nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ xoay quanh một số vấn
đề về vai trò của Nhà nước trong việc phát triển những điều kiện chính của quá
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trong bài viết này, em xin được trình bày các
nội dung cơ bản về đề tài trên như: Tại sao công nghiệp hoá lại phải có vai trò của
nhà nước? Nhà nước đóng vai trò quan trọng như th
ế nào? Thực trạng vai trò của
nhà nước ra sao? Và cuối cùng là một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà
nước trong thời gian tới.Và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về vai trò
của Nhà nước đối với công nghiệp hoá hiện đại hoá








4









NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ

1.1. Vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá
1.1.1. Quan niệm công nghiệp hoá - Thực chất công nghiệp
Quan niệm đơn giản nhất về công nghiệp hoá cho rằng: “Công nghiệp hoálà
tạo đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị (cho vùng, cho một nước) các
nhà máy công nghiệp”. Quan niệm này có những mặt chưa hợp lí:
Trước hết nó không cho thấy mục tiêu của quá trình cần thực hiện
Thứ hai, trong nội dung trình bày, quan niệm này gần như đồng nhất quá trình
công nghiệ
p hoá với quá trình phát triển công nghiệp. Và cũng không thể hiện
được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá. Vì thế nó được sử dụng rất hạn
chế trong thực tiễn. Đặt biệt là trong sách báo của Liên Xô (trước đây) tồn tại một
định nghĩa phổ biến : “Công nghiệp hoá là quá trình xây dựng đại cơ khí có khả
năng cải tạo cả nông nghiệp”. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với ngành
trung tâm là chế
tạo máy. Quan niệm này được coi là hợp lí trong điều kiện của
Liên Xô thời kì đó. Nhưng sẽ là rất sai lầm nếu coi đó là quan niệm phổ biến để áp
dụng cho tất cả các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay.
Năm 1963 tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc đã đưa ra định
nghĩa sau: “Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một
bộ phậ
n ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển
cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kĩ thuật hiện đại. Đặt điểm của cơ cấu
này là có một bộ phận chế biến sản xuất ra tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có
khả năng bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế xã hộ
i”.
Hiện nay ở nước ta, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa được coi là nhiệm vụ

trung tâm của thời kì quá độ. Đảng ta đã xác định thực chất của công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa là: “Quá trình thực hiện cách mạng kĩ thuật, thực hiện sự phân
công mới về lao động xã hội và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa không ngừng
thực hiện tái sản xuất mở rộng”.
Từ
đó cho ta thấy: “Công nghiệp hoá là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật của chủ nghĩa xã hội, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện
dưới sự chỉ đạo và tổ chức của nhà nước chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của


5
đảng cộng sản. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ đưa nền kinh tế
nước ta từ nền sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn trở thành một nước công nông
nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh cuộc sống
ấm no hạnh phúc”. Đường lối công nghiệp hoá được xác định là: “ưu tiên phát
triển công nông nghiệp một cách hợp lí trên cơ
sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ”. Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam lại một lần nữa xác
định mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là: “Xây dựng nước ta thành một
nước có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triể
n của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp.

1.1.2. Vì sao hiện nay công nghiệp hoá lại gắn với hiện đại hoá
Cho đến nay, thế giới đã trải qua hai lần cách mạng về k
ĩ thuật và công nghệ.
Lần thứ nhất với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, diễn ra vào cuối thế

kỉ 18 được thực hiện đầu tiên ở nước Anh mà nội dung chủ yếu là thay thế lao
động thủ công bằng lao động cơ khí hoá. Lần thứ hai với tên gọi là cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại được bắt đầu vào giữa thế kỉ 20 mà nội dung ch
ủ yếu
của nó không chỉ dừng lại ở tính chất hiện đại của các yếu tố tư liệu sản xuất, mà
còn ở kĩ thuật công nghệ sản xuất hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến... Hiện
nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có nhiều nội dung phong phú, đa dạng
trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau đây:
Môt là, cách mạng về ph
ương pháp sản xuất: Đó là tự động hoá. Ngoài phạm
vi tự động trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi
người máy thay thế cho con người để điều khiển quá trình sản xuất.
Hai là, cách mạng về năng lượng: Bên cạnh những năng lượng truyền thống
mà con người đã sử dụng trước đây như nhiệt điệ
n, thuỷ điện, thì ngày nay con
người ngày càng khám phá ra nhiều năng lượng mới và sử dụng chúng rộng rãi
trong sản xuất như: Năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời...
Ba là, cách mạng về vật liệu mới: Ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu tự
nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế hiệu quả
cho các vật liệu tự nhiên.
Bốn là, cách mạng v
ề công nghệ sinh học: Các thành tựu của cuộc cách mạng
này được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, y tế , hoá chất
và nhiều lĩnh vực khác.
Năm là, cách mạng về điện tử tin học: Đây là một lĩnh vực mà hiện nay con
người đang đặc biệt quan tâm nhất là máy tính điện tử.
Đất nước ta tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện thế giới đ
ã trải qua hai
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ như vậy, vì thế nếu chỉ công nghiệp hoá
nền kinh tế thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, không thể

theo kịp các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Công nghiệp hoá có thể coi
là cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ nhất, hiện đại hoá có thể coi là cuộc


6
cách mạng khoa học lần thứ hai. Muốn rút ngắn khoảng cách tụt hậu giữa nước ta
với các nước phát triển thì chúng ta phải thực hiện đồng thời cả hai cuộc cách
mạng khoa học kĩ thuật hay thực hiện công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá.
Có như vậy thì sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân mới có thể thành
công, đưa đất nước ta trở thành mộ
t nước công nghiệp hiện đại tiến lên chủ nghĩa
xã hội.

1.1.3. Vai trò của nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá
Trước khi nói đến vai trò của nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá phải
nói đến vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Nghiên cứu quá trình phát triển của
các nước ASEAN trong mấy thập kỉ qua cho ta thấy: Nhà nước có vai trò đặt biệt
quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế. Tuy k
ết quả đạt được không giống nhau
nhưng từ thực tiễn có thể rút ra những vai trò cơ bản sau của nhà nước trong quản
lí vĩ mô:
Nhà nước định hướng chiến lược đúng đắn mang tính chất tiên quyết đối với
sự phát triển kinh tế mỗi nước. Nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư từ các
nguồn trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích tư b
ản
nước ngoài đầu tư bằng cách có các chính sách ưu đãi đảm bảo và tạo điều kiện
cho hoạt động của các công ty nước ngoài, lập ra các khu vực mậu dịch tự do. Nhà
nước thực hiện chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ổn định tiền
tệ.
Nhà nước điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo.

Ví dụ: chính phủ
Malaixia bằng việc thực hiện “mục tiêu là xoá đói giảm nghèo
tiến tới xoá bỏ nghèo và cấu trúc lại nền kinh tế xã hội đã giảm tỉ lệ người sống
dưới mức nghèo khổ từ 49,3% (năm 1970) xuống 17% (1990) và 13,5% (1993).
Nhà nước điều chỉnh kịp thời việc sử dụng các thành phần kinh tế, nhấn
mạnh việc sử dụng các thành phần kinh tế nhưng các doanh nghiệp nhà nước v
ẫn
giữ vai trò chủ yếu trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Nhà nước xây
dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đầu tư thích đáng cho giáo dục đào tạo,
sử dụng hiệu quả nguồn lao động đã được đào tạo. Tại INĐÔNÊXIA, chí phí của
nhà nước cho giáo dục và đào tạo so với tổng nguồn chi tăng từ 9% (1969 - 1974)
lên 17,6% (1984 - 1989) và 21% (1990 - 1995).
Từ đó cho ta th
ấy vai trò hết sức quan trọng của nhà nước trong sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá.

1.2. Tất yếu khách quan vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá
1.2.1. Vai trò của nhà nước trong việc định hướng cho quá trình công nghiệp
hoá
Công nghiệp hoá là một quá trình diễn ra liên tục với những nội dung, bước
đi thích hợp cho từng thời kì, phù hợp với nền kinh tế. Nước ta cũng như nền kinh
tế thế giới. Muốn thự
c hiện thành công công nghiệp hoá hiện đại hoá thì phải có
một phương hướng cụ thể chiến lược đúng đắn thích hợp. Sau khi xác định được
mục tiêu, quan điểm nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế nước


7
ta thì một vấn đề không kém quan trọng là đề ra những bước đi để đạt đến mục tiêu
đó. Những bước đi trong công nghiệp hoá có thể nêu ra đại thể cho mỗi thời kì

nhưng phải được một số chỉ tiêu quan trọng như: Thu nhập quốc dân tính theo đầu
người, tỉ trọng của các ngành trong cơ cấu kinh tế, tỉ trọng đầu tư, tỉ trọng xuất
khẩu trong GDP... M
ặt khác trong từng lĩnh vực cũng phải có những bước đi cụ
thể. Có thể hình dung sự nghiệp công nghiệp hoá là một “Cây mục tiêu” mà đỉnh
của nó được lượng hoá bằng GDP tính theo đầu người. Các cành nhánh của nó là
những mục tiêu quan trọng như: cơ cấu kinh tế, cơ cấu sở hữu. Mỗi mục tiêu có vị
trí quan trọng khác nhau trong quá trình công nghiệp hoá, có tác động qua lại thúc
đẩy nhau phát triển nhưng bao trùm nhất, quyết đị
nh nhất là làm cho dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng văn minh.
Nhà nước có vai trò quyết định trong việc định hướng cũng như thực hiện các
bước đi của quá trình công nghiệp hoá nền kinh tế. Bởi vì chỉ có nhà nước mới có
thể quyết định:
Mục tiêu chiến lược và kế hoạch tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nền
kinh tế trong từng giai đoạn. Huy động và phân bổ tập trung các nguồn l
ực cần
thiết theo yêu cầu công nghiệp hoá, cân đối và điều chỉnh thường xuyên quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Đề ra các chính sách cần thiết để khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực trong và
ngoài nước để thực hiện nhanh, chắc quá trình công nghiệp hoá.
Nhà nước tổ chức lại, xây dựng lại bộ máy quản lý đủ mạnh về cả chất lượng
và số lượng để quản lý có hiệu quả, kiên quy
ết thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ
công chức nhà nước, lựa chọn các cán bộ có khả năng, trình độ kinh nghiệm để
đưa đất nước ta nhanh chóng tiến lên hiện đại hoá hệ thống quản lý nhà nước theo
yêu cầu công nghiệp hoá.
Nhà nước thức hiện việc quản lý quá trình công nghiệp hoá bằng pháp luật và
các văn bản dưới luật. Hoàn thiện và xây dựng mới các công cụ cần thiết như chế
độ thố

ng kê toán và kiểm toán, chế độ tài chính và bao cáo tài chính công khai
chính xác để quản lý thống nhất.
Nhà nước phối hợp, điều hoà các hoạt động trong quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu và định hướng đúng đắn đã được
xác định, vì quá trình công nghiệp hoá chỉ có thể thành công khi có sự phối hợp cả
về chiều ngang và chiều dọc.
Nhà nước tổ chức việc kiểm tra giám sát quá trình công nghiệp hoá để phát
hiện kịp thời những sai sót lệch lạc mất cân đối. Quyết định đúng đắn việc điều
chỉnh quá trình thực hiện công nghiệp hoá là việc làm cần thiết và thường xuyên để
cân đối lại hoàn chỉnh nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành các địa
phương và cơ sở.
Nhà nước đảm bảo đồng bộ các điều kiện chủ yếu để thực hi
ện thành công
công nghiệp hoá. Những quan điểm phương hướng bước đi của công nghiệp hoá
có được thực hiện đầy đủ đúng đắn hay không hoàn toàn phụ thuộc vào các điều
kiện chủ yếu có được đảm bảo hay không. Nếu không có đủ các điều kiện chủ yếu
thì quá trình công nghiệp hoá sẽ không thể thành công. Từ đó ta thấy vai trò hết


8
sức quan trọng của nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nền
kinh tế.

1.2.2. Vai trò của nhà nước trong việc phát triển khoa học công nghệ
Từ trước đến nay đảng và nhà nước ta luôn xác định khoa học và công nghệ
có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế.
Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ VII (khoá VII) đã coi công nghệ là nền
tảng của công nghiệp hoá. Theo những đánh giá c
ủa bộ khoa học công nghệ và môi
trường thì trình độ khoa học và công nghệ ở nước ta lạc hậu nhiều thế hệ so với thế

giới và khu vực. Trang thiết bị cũ nát, chắp vá và các thiết bị đo lường thử nghiệm
nói chung không đồng bộ, tổ chức sản xuất còn nhiều bất cập... Với thực trạng
công nghệ sản xuất như vậy thì chúng ta không thể thực hiệ
n thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá. Với những nước đang phát triển như nước ta, công nghiệp hoá
không phải là sự phát triển ngành công nghiệp với mục đích tự thân mà là quá trình
tạo tính chất công nghiệp cho nền kinh tế quốc dân, là quá trình tăng trưởng nền
kinh tế dựa trên cơ sở nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất xã hội. Thực
chất của quá trình công nghiệp hoá là nâng cao một cách mạnh mẽ và nhanh chóng
trình độ công ngh
ệ nhằm sử dụng và phát huy tối đa mọi nguồn lực để phát triển
kinh tế xã hội. ở nước ta quá trình công nghiệp hoá được xác định là quá trình
chuyển từ tình trạng công nghệ lạc hậu với năng suất lao động và hiệu quả thấp lên
trình độ công nghệ tiên tiến hiện đại với năng suất lao động cao, làm chuyển biến
cơ cấu kinh tế và cớ cấu lao động, cơ
cấu dân cư theo hướng tăng tỷ trọng đối với
việc hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Vì thế có thể thấy công nghệ là một vấn đề
rất quan trọng cần phải giải quyết khi bắt tay vào thực hiện công nghiệp hoá hiện
đại hoá.
Để giải quyết vấn đề này phải có những chính sách đúng đắn của nhà nước,
những chính sách đó sẽ kích thích các đơn vị
kinh tế nhanh chóng đổi mới công
nghệ sản xuất.
Chính sách đổi mới mở cửa làm các doanh nghiệp phải đổi mới và nâng cao
trình độ công nghệ. Cơ chế thị trường buộc mọi cơ sở phải tìm cách để tồn tại, để
phát triển.
Muốn vậy chỉ có một con đường là đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ.
Nhà nước khuyến khích phát triển công nghệ bằng các chính sách: Ưu đãi trong
việ
c vay vốn ngân hàng để đầu tư xây dựng, mở rộng cơ sở hiện có, mua máy móc

thiết bị mới cần thiết cho sản xuất tạo điều kiện thuận lợi trong xuất nhập khẩu,
nhất là xuất khẩu những sản phẩm do cơ sở mình sản xuất, nhập khẩu máy móc
thiết bị tiên tiến của nước ngoài, đưa cán bộ ra nước ngoài để tiếp cậ
n thị trường,
nghiên cứu học tập công nghệ mới. Chính sách mở cửa với những điều kiện ưu đãi
trong việc đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện cho các đầu tư nước ngoài tìm đến
liên doanh, đem theo những máy móc thiết bị phụ tùng hiện đại, những chuyên gia
kĩ thuật, chuyên gia quản lý tiên tiến của thế giới. Việc đó đã tạo
điều kiện cho các
doanh nghiệp trong nước nhanh chóng tiếp cận và tiếp nhận công nghệ tiên tiến
hơn nhiều so với công nghệ hiện có trong nước. Nhà nước cũng là nơi ban hành


9
những chính sách, cơ chế ưu đãi làm động lực kích thích cán bộ hoạt động trong
lĩnh vực khoa học công nghệ trong nước, kích thích phát huy tính sáng tạo nghiên
cứu triển khai khoa học công nghệ mới phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước.
1.2.3. Nhà nước với vai trò phát triển nguồn vốn
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy nhân tố hàng đầu, nếu không muốn
nói là quan trọng nhất đối với công nghiệ
p hoá hiện đại hoá cũng như đối với sản
xuất kinh doanh của nền kinh tế là phải có vốn lớn. Vấn đề huy động vốn cho quá
trình công nghiệp hoá có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Trước hết
là huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước. Đây là nguồn vốn có tính quyết
định, là nhân tố nội lực. Nguồn vốn nội bộ đượ
c tạo ra từ sự liên doanh liên kết
giữa các ngành, các lĩnh vực, vùng, miền của nền kinh tế đất nước, từ sự phát triển
mạnh mẽ của các công ty cổ phần, thông qua việc huy động tiền nhàn rỗi của dân
cư, của các cơ sở kinh tế, các tổ chức đoàn thể, các khoản thuế nộp ngân sách của

nhà nước.
Nguồn vốn nội bộ của nền kinh tế có tính chấ
t quyết định trong quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá nhưng vẫn còn hạn hẹp. Các quốc gia khác trên thế
giới cũng như nước ta đều phải dùng mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài thông qua các hình thức: Liên doanh, hợp tác kinh doanh, vay với lãi suất
thấp, viện trợ. Trong điều kiện kinh tế tích luỹ vốn còn chậm thì thu hút được
nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. Từ nguồ
n vốn bên ngoài biến thành
nguồn lực trong nước tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá. Để huy động vốn đầu tư nước ngoài cần có cơ chế chính sách thoả đáng để
thu hút ngày càng nhiều và tranh thủ cùng với công nghệ tiên tiến. Muốn tiếp nhận
vốn đầu tư nước ngoài thì cần phải có một nguồn vốn tương ứng trong nước. Còn
việc vay vốn thì phả
i tính đến trả nợ. Ngoài ra còn phải đảm bảo các yếu tố khác về
độc lập, chủ quyền, kinh tế, chính trị. Vì thế mà nguồn vốn nội bộ có ý nghĩa quyết
định. Nhà nước phải tạo điều kiện cho từng địa phương từng cơ sở phát triển mạnh
mẽ sản xuất nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân phục vụ có hiệu quả sự

nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Song song với việc huy động các nguồn vốn, vấn đề bảo toàn, sử dụng và
phát triển vốn cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Yêu cầu bảo toàn vốn được thể hiện
trước hết trong công tác tổ chức tài chính. Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và phát
triển vốn trước hết xuất phát từ yêu cầu của cơ chế quả
n lý kinh tế mới, phải hoạch
toán kinh tế kinh doanh.
Xuất phát từ yêu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là phải đảm bảo tính
hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, để quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và sản xuất
kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững tất yếu phải
bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.


1.2.4. Vai trò của nhà nước trong quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá


10
Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá chỉ có thể thành công khi được thực
hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Công nghiệp hoá hiện đại
hoá là một quá trình lâu dài và phức tạp. Nó tuân theo quy luật và tính quy luật của
các quan hệ cung cầu trên thị trường. Điều đó có nghĩa là cơ chế thị trường và các
bộ phận cấu thành: Cung cầu, giá cả, cạnh tranh sẽ quyết định quá trình công
nghiệp hoá, quy
ết định các phương án phát triển lựa chọn đầu tư... Nhưng cơ chế
thị trường có những khuyết tật và hạn chế riêng của nó, cho nên nếu quá trình công
nghiệp hoá lệ thuộc vào cơ chế thị trường thì sẽ không đạt được những mục tiêu
công bằng xã hội, an ninh quốc gia và sự bền vững của môi trường. Thực tế khách
quan này đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nướ
c. Sự quản lý của nhà nước là một
bộ phận không thể thiếu của cơ chế quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá.
Nhà nước quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá phải là nhà nước
của dân do dân. Nhà nước thực hiện quyền quản lý của mình thông qua các công
cụ chủ yếu như: Định hướng kế hoạch phát triển, hệ thống luật pháp, các chính
sách kinh tế xã hội, các quỹ quốc gia... Thực hi
ện công nghiệp hoá hiện đại hoá
trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước có vai trò
quản lý vĩ mô sau:
Một là, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá đảm bảo sự ổn định về chính trị xã hội, thiết l

ập khuôn khổ luật pháp
thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và tạo điều
kiện thuận lợi cho công nghiệp hoá.
Hai là, định hướng cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, trực tiếp đầu
tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo hướng xã hội chủ
nghĩa, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô nh
ư: Chống lạm phát, chống khủng hoảng,
ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế.
Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đảm bảo yêu cầu của công
nghiệp hoá hiện đại hoá, thực hiện đúng các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế
và chức năng chủ sở hữu tài sản công cuả nhà nước.
Bốn là, khắc phục h
ạn chế các mắt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối
thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá
gắn với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội.
Ngoài ra vai trò của nhà nước trong việc tổ chức quản lý quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá còn thể hiện trong việc lựa chọn sử dụng những công cụ
quản lý có hiệu quả cao như h
ệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế xã hội đặc
biệt là các chính sách kinh tế nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình
công nghiệp hoá, lựa chọn các phương pháp quản lý như: Giáo dục, thuyết phục,
động viên, phương pháp tổ chức hành chính, phương pháp kinh tế, bố trí hợp lý các
cán bộ đầu ngành chủ chốt trong các cơ quan quản lý, tóm lại nhà nước có vai trò
rất quan trọng trong việc quản lý quá trình công nghiệp hoá.




11









CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA

2.1. Định hướng cho quá trình công nghiệp hoá
2.1.1. Việc đề ra muc tiêu chiến lược kế hoạch bước đi của công nghiệp hoá
Thực hiện công nghiệp hoá nhằm tạo ra những chuyển biến cơ bản về kinh
tế, trên cơ sở đó góp phần cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân đảm
bảo công bằng xã hội. Nhưng việc xác định phương hướng bước đ
i của công
nghiệp hoá hiện nay còn nhiều thiếu xót bất cập. Tuy nhà nước đã ưu tiên đầu tư
cho phát triển kinh tế nhưng chưa giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa tích luỹ
và tiêu dùng. Các chính sách kinh tế của nhà nước chưa gắn bó hữu cơ với các
chính sách xã hội. Chính sách xoá đói giảm nghèo đã được triển khai nhưng
phương pháp thực hiện chưa hữu hiệu, tốc độ còn chậ
m. Phương hướng và bước đi
thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá chưa gắn bó chặt chẽ với phương hướng và
bước đi thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chưa định hướng phát triển các
ngành kinh tế mũi nhọn để phát huy có hiệu quả nguồn lực và lợi thế của đất nước.
Định hướng phát triển vẫn còn khá dàn trải, chưa đề
u cho các ngành, chưa
khai thác và động viên có hiệu quả mọi nguồn lực có sẵn trong nước. Tuy nhà
nước ta đã cố gắng tích cực tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài phù hợp với khả
năng tiếp thu, quản lý và sử dụng công nghệ, nhân lực nhưng không có chính sách

kiểm tra giám sát chặt chẽ nên vẫn còn nhiều lãng phí, kém hiệu quả. Nhà nước
chưa thúc đẩy nhanh chóng quá trình đổi mới thiết bị, công cụ lao động trong các
ngành kinh tế quốc dân,
đặc biệt là các ngành trọng điểm.
Việc lựa chọn mục tiêu các giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá
nền kinh tế của nhà nước còn nhiều thiếu xót, chủ quan, nóng vội, duy ý chí, vượt
qua khả năng thực hiện.

2.1.2. Thực trạng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với bước đi của quá
trình công nghiệp hoá
Nước ta khi bước vào thời kì đổ
i mới đã phải tiếp nhận thực trạng của một cơ
cấu kinh tế mang nặng đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu. Sau nhiều kế
hoạch phát triển kinh tế lần lượt các mô hình cơ cấu kinh tế được hình thành, song
cho đến cuối những năm 80 nền kinh tế về cơ bản vẫn là cơ cấu kinh tế cũ lạc hậu
và kém hi
ệu quả mà việc cấu trúc lại không phải là đơn giản. Qua hơn 10 năm đổi
mới cơ cấu kinh tế bước đầu có sự chuyển biến đáng khích lệ: Tỷ trọng công
nghiệp và xây dưng trong GDP từ 22,7% năm 1990 tăng lên 30,1% năm 1995; tỷ


12
trọng ngành dịch vụ từ 38,6% năm 1990 tăng lên 42,4% năm 1995.Nước ta đã
chuyển hẳn sang một thời kì mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá,
phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá
để đến năm 2000 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Tuy vậy nhưng về cơ cấu ngành kinh tế, nhà nước ch
ưa thúc đẩy nhanh các
vùng tập chung chuyên canh, chậm đưa công nghệ sinh học và các phương pháp
canh tác tiên tiến vào nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản xuất

khẩu chưa phát triển, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cơ bản thiết yếu còn ít
ỏi nhỏ bé. Ngành cơ khí chưa hướng vào sản xuất công cụ thiết bị phục vụ sản xuất
nông lâm ngư nghiệp, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biế
n nông lâm thuỷ sản...
Nhà nước chưa chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi
của công nghiệp hoá hiện đaị hoá. Tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp vẫn còn ở
mức cao, tỷ suất hàng hoá nông lâm sản thấp, tỷ trọng hàng xuất khẩu nhỏ bé manh
mún.
Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng GDP còn thấp. Công nghiệp chế
biến nông lâm hải sản và công nghi
ệp chế biến hàng tiêu dùng để xuất khẩu phát
triển chậm

2.1.3. Tạo nguồn lực cho tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước
Chúng ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới rất quan trọng đẩy mạnh công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Để th
ực hiện được điều đó, Hội nghị lần thứ II Ban
chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Cùng với giáo dục đào tạo,
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội,
là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Vì thế cần phải “phát huy nguồn lự
c con người, yếu tố phát triển
mạnh và bền vững”.
Kinh nghiệm cho thấy, hiện đại hoá nền kinh tế ở các nước phát triển, thực
chất là thay đổi cơ cấu công nghiệp dựa trên các ngành công nghệ cao, trong đó
những công nghệ cũ, tiêu hao nhiều tài nguyên và lao động, dựa trên nền tảng điện
cơ khí, được thay thế bằng ngành công nghiệp cao cấp, dựa trên nền tảng cơ điện
t

ử, giảm suất tiêu hao của các nguồn lực tính trên một đơn vị tổng sản phẩm nội
địa. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đang đòi hỏi một nguồn nhân lực mới
phù hợp với nền văn minh trí tuệ. Trí tuệ có tính sáng tạo sẽ là nền tảng của sự
thịnh vượng, giàu có của mỗi xã hội, mỗi quốc gia và được thể hiện qua nguồn
nhân l
ực của bản thân quốc đó.

2.1.3.1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay
Một trong những nguồn nhân lực quan trọng bậc nhất của đất nước hiện nay
là đội ngũ tri thức. Theo thống kê năm 1995 của bộ khoa học công nghệ và môi
trường cho thấy so với một số nước có thu nhập thấp ở mức ngang bằng thì lực
lượng lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
được đào tạo ở nước ta là tương


13
đối lớn.Lực lượng này bao gồm khoảng 9.300 tiến sĩ và phó tiến sĩ; 930.000 người
có trình độ đại học, cao đẳng, trên 3,5 triệu cán bộ kĩ thuật và công nhân kĩ thuật.
Đội ngũ tri thức Việt Nam đã có những công hiến to lớn trong hai cuộc
kháng chiến chống pháp và chống mỹ, góp phần tích cực trong công cuộc xây
dựng đất nước hiện nay. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ mang bản sắc dân
t
ộc: Thông minh, khiêm tốn, hiếu học, khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ
mới nhanh. Điều này được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất cao. Nhiều công
trình kĩ thuật hiện đại, phức tạp của thế giới như trong các lĩnh vực điện tử, viễn
thông, dầu khí hoặc lắp đặt những công trình công nghệ lớn: Thuỷ điện, nhiệt điện,
xi măng... Thế
nhưng thực trạng đội ngũ cán bộ tri thức Việt Nam, đặc biệt cán bộ
tri thức bậc cao đang là một vấn đề cần quan tâm.
Thứ nhất, sự già hoá của đội ngũ tri thức. Trong các viện và trung tâm khoa

học, tuổi bình quân tiến sĩ là 52,8 ; phó giáo sư là 56,4 ; cấp viện trưởng là 55 ;
Cấp viện phó là 50. Như vậy đến năm 2000 hơn 80% số người có học hàm, học vị
sẽ đế
n tuổi về hưu. Từ đó gây nên tình trạng hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận.
Nhìn vào độ tuổi của đội ngũ cán bộ giáo dục tại các trường đại học và cao đẳng ở
nước ta có thể thấy một thực trạng là sự già hoá quá nhanh, dẫn tới sự hụt hẫng cán
bộ giáo dục vào cuối thế kỉ XX, nhất là cán bộ đầu đàn.
Thứ hai, việc
đầu tư cho khoa học và công nghệ cũng như giáo dục và đào
tạo chưa đủ để phát triển nguồn lực. Chúng ta muốn mau chóng trở thành một
nước công nghiệp, muốn hội nhập với thế giới, phát triển giáo dục và đào tạo, tạo
nguồn nhân lực, nhân tài, phải luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Đảng và chính
phủ ta đã có những cố gắng lớn tăng nguồn đầu tư tài chính cho giáo dụ
c và đào
tạo. Tỉ trọng ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tăng hàng năm và
tăng nhanh chóng những năm gần đây, từ 5,83% năm 1986 với mức chi 120 tỉ
đồng, đến năm 1990 tăng lên 8,9% với mức chi 9186 tỉ và năm 1996 là 10,08% với
mức chi là 70000 tỉ. Tuy vậy tỉ lệ này còn thấp so với các nước trên thế giới và khu
vực.
Thứ ba, cơ cấu nguồn nhân lực của nước ta hiệ
n nay chưa hợp lý: 1 đại học/
1,6 trung học chuyên nghiệp/ 3 công nhân. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo ở nước ta
mới chỉ đạt 10% so với tổng số lao động là quá thấp. Việc phân bố cán bộ theo
ngành nghề cũng còn rất bất cập. Theo con số của tổng cục thống kê năm 1997 cơ
cấu cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ theo các ngành
khoa học như
sau: Tự nhiên: 38%; xã hội và nhân văn: 20%; công nghệ: 27%;
dược: 8%; nông nghiệp: 7%. Hơn thế nữa đội ngũ này nằm trong các cơ quan trung
ương tới 94,4%, ở các cơ quan địa phương chỉ 5,4%. Còn trong các doanh nghiệp,
cán bộ đại học và cao đẳng chỉ chiếm 32% so với Hàn Quốc là 48%, Nhật Bản là

64,4%, Thái Lan 58,2%.
Thứ tư, hiện tượng chảy máu chất xám đã và đang xảy ra ngay trong đội ngũ
tri thức. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận cán bộ
khoa học và công
nghệ không còn hào hứng với công việc của mình, xin được chuyển sang những
ngành nghề không phải được đào tạo, phần lớn là những người khoẻ,trẻ và có
năng lực. Còn sinh viên ra trường chỉ muốn xin vào làm cho các liên doanh, không


14
muốn vào các viện nghiên cứu, trường học hoặc các cơ quan của đảng và nhà
nước.
Như vậy, khai thác tiềm năng của đội ngũ tri thức Việt Nam giàu tính sáng
tạo - một nguồn tài nguyên đặc biệt, đang còn nhiều vấn đề cần phải bàn tới và tìm
hướng giải quyết.

2.1.4. Phát triển giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hoá hi
ện đại hoá đất nước
Trong cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dânViệt Nam, cấp giáo dục nào cũng có
vị trí, tầm quan trọng của nó. Trong từng giai đoạn xác định, tuỳ thuộc vào tình
hình chính trị, kinh tế và xã hội cụ thể mà đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ và có sự sắp
xếp, ưu tiên cho mỗi cấp đào tạo.
Để có nguồn nhân lực dồi dào đáp ứng yêu cầu củ
a sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay, chúng ta phải có một nền giáo dục đại học phát
triển. Văn kiện đại hội IX của đảng đã khẳng định trong những năm tới phải: “Phát
triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học ; tập trung đầu tư xây
dựng một số trường đại học trọng đi
ểm quốc gia ngang tầm khu vực, tiến tới đạt

trình độ quốc tế”
Kinh nghiệm của thế giới cho thấy, những nước kinh tế lạc hậu, tài nguyên
thiên nhiên có hạn, vẫn có thể vươn nhanh trên con đường hiện đại hoá nếu có một
nền giáo dục đại học phát triển. Khi tỉ lệ dân cư có trình độ đại học cao thì khả
năng tiếp thu, nắm bắt và vận dụng những thành t
ựu mới nhất của nhân loại về kĩ
thuật, công nghệ rất hiệu quả.
Trong hoàn cảnh hiện nay nước ta còn nghèo, chúng ta chưa đủ lực để thực
hiện đồng loạt những yêu cầu xã hội đòi hỏi, do đó phải lựa chọn sự ưu tiên để tiến
từng bước vững chắc. Sự ưu tiên này phải thể hiện trong từng ngành và từng cấp.
Ch
ẳng hạn, nhiêm vụ của giáo dục là góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và
hoàn thiện nhân cách, cả hai nhiệm vụ đó đều quan trọng, nhưng nguy cơ tụt hậu
về kinh tế ngày càng xa của đất nước đòi hỏi giáo dục phải lấy nhiệm vụ thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội làm ưu tiên. Từ đó, trong các chủ trương của từng cấp học,
bậc học, ngành họ
c, quan hệ giữa các ngành học, trong đầu tư, xây dựng đội ngũ
phải quán triệt sự lựa chọn ưu tiên này.
Những năm qua, chúng ta đã nhận thức được vấn đề này và có những bước
điều chỉnh, do đó cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân nước ta đã có những đổi mới
nhất định. Giáo dục đại học ở nước ta gồm hai cấp: Cấ
p đại học và sau đại học.
Cấp đại học chia làm hai trình độ là trình độ cao đẳng và trình độ đại học, cấp sau
đại học có hai trình độ là trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ. Cấp sau đại học trước
đây đào tạo ba trình độ: Thạc sĩ, phó tiến sĩ và tiến sĩ, nhưng cách tổ chức này sẽ
kéo dài thời gian học tập của học sinh tại trường, thời gian ph
ục vụ xã hội và cống
hiến cho khoa học sẽ rút ngắn, do vậy, cấp sau đại học bỏ bớt trình độ phó tiến sĩ,
chỉ còn hai trình độ là thạc sĩ và tiến sĩ. Sự điều chỉnh đó là phù hợp, tạo ra sự
thống nhất về hệ thống văn bằng giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế

giới, tạo điều kiệ
n thuận lợi trong quá trình giao lưu giáo dục đào tạo. Những

×