Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Ứng dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền trong định giá doanh nghiệp tại Công ty Kiểm toán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.35 KB, 96 trang )

Luận văn tốt nghiệp

1

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước
tiến đáng kể, tốc độ tăng GDP luôn ở mức cao. Giai đoạn 2005-2010 theo dự
đoán, GDP sẽ dao động trong khoảng 8 – 8,5%. Theo xu hướng toàn cầu hóa,
Việt Nam đã gia nhập WTO hứa hẹn một thời kỳ phát triển thịnh vượng.
Đây cũng là thời điểm bùng nổ của thị trường chứng khoán, nhiều công
ty đã niêm yết hoặc có cổ phiếu giao dịch trên các sàn giao dịch, thị trường
chứng khoán thực sự trở thành kênh huy động vốn hấp dẫn cho các doanh
nghiệp. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, nhu cầu cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước, nhu cầu mua bán, sáp nhập, nhu cầu định giá
cổ phiếu… đang tăng lên khiến nhu cầu định giá doanh nghiệp trở thành vấn
đề cấp thiết.
Hiện nay, định giá doanh nghiệp ở Việt Nam được áp dụng chủ yếu hai
phương pháp: tài sản ròng và chiết khấu dòng tiền. Trong đó, phương pháp tài
sản ròng đang được sử dụng phổ biến mặc dù phương pháp chiết khấu dòng
tiền (DCF) được đánh giá là phương pháp có nhiều ưu điểm nổi trội hơn do
tính đến những giá trị kì vọng trong tương lai doanh nghiệp sẽ tạo ra. Nguyên
nhân chính là do thị trường Việt Nam còn thiếu cơ sở dữ liệu, thiếu những
điều kiện cần thiết để phương pháp chiết khấu dòng tiền được áp dụng hiệu
quả.
Ở với các nước có nền kinh tế phát triển, phương pháp chiết khấu dòng
tiền đã được áp dụng phổ biến và phát huy những ưu điểm của nó, do vậy,
phương pháp này trong tương lai chắc chắn sẽ là phương pháp có tính thực
tiễn cao ở Việt Nam.
Chính vì sự cần thiết nghiên cứu để áp dụng được phương pháp chiết
khấu dòng tiền, em đã lựa chọn đề tài luận văn tốt nghiệp:


Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

2

“ Ứng dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền trong định giá
doanh nghiệp tại Công ty Kiểm toán Việt Nam ”.
Đề tài đã trình bày cơ sở lý thuyết của phương pháp chiết khấu dòng
tiền, đồng thời minh họa phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo
phương pháp này ở Công ty Kiểm toán Việt Nam qua ví dụ về công ty cổ
phần BIBICA – là một công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Thông qua đó, bài viết cũng chỉ ra những hạn chế khi áp dụng phương pháp
này ở thị trường Việt Nam và một số giải pháp, cũng như kiến nghị để khắc
phục, để phương pháp DCF sớm được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn.
Luận văn tốt nghiệp bao gồm 4 phần sau:
Chương 1 – Cơ sở lý thuyết của phương pháp chiết khấu dòng tiền
Chương 2 – Áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền định giá công
ty cổ phần BIBICA tại Công ty Kiểm toán Việt Nam
Chương 3 – Các khó khăn khi áp dụng phương pháp DCF tại Công ty
Kiểm toán Việt Nam và Một số giải pháp khắc phục.
Chương 4 – Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện áp dụng phương pháp
DCF trong ĐGDN tại Việt Nam.

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C


TCDN


Luận văn tốt nghiệp

3

CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA PHƯƠNG PHÁP
CHIẾT KHẤU DÒNG TIỀN
1.1 Giá trị doanh nghiệp
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp là chủ thể quan trọng thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Một tổ chức
kinh tế được gọi là “doanh nghiệp” khi nó được thừa nhận về mặt pháp luật
trên một số tiêu chuẩn nhất định.
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp được coi là một loại tài sản.
Cũng giống như các loại tài sản khác, doanh nghiệp cũng được đem ra mua
bán, hợp nhất, chia nhỏ… do đó, doanh nghiệp cũng không nằm ngoài sự chi
phối của các quy luật thị trường, quy luật giá trị. Giá cả của doanh nghiệp
cũng phải tuân theo quy luật cung cầu, cạnh tranh.
Tuy nhiên, khác với các tài sản thông thường, doanh nghiệp không phải
là một kho hàng, doanh nghiệp còn là một tổ chức kinh tế, đang thực sự hoạt
động. Do vậy, không chỉ gồm các tài sản hữu hình, doanh nghiệp thực sự sở
hữu các tài sản vô hình khác như giá trị thương hiệu, bí quyết kinh doanh,
quyền khai thác, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai…
Vì thế, khái niệm giá trị doanh nghiệp phải dựa trên tài sản là doanh
nghiệp đang hoạt động, mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh nghiệp
đó không thể tách rời, các yếu tố cấu thành hữu hình và vô hình là một thể
thống nhất.
Giá trị doanh nghiệp có nhiều cách quan niệm khác nhau, và tùy theo

từng quan niệm sẽ có những phương pháp định giá khác nhau. Ví dụ như:
Phương pháp tài sản ròng: Coi giá trị doanh nghiệp là giá trị của tất cả
các tài sản của doanh nghiệp.
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

4

Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức: Giá trị doanh nghiệp là số cổ tức
mà nhà đầu tư nhận được trong thời gian tồn tại của doanh nghiệp.
Phương pháp chỉ số so sánh: Giá trị doanh nghiệp được đánh giá dựa
trên vị trí so sánh giữa doanh nghiệp và các doanh nghiệp khác trong ngành.
Do vậy, giá trị thực sự của doanh nghiệp (Intrinsic Value) phụ thuộc
vào những quan niệm về giá trị doanh nghiệp khác nhau của từng đối tượng
khác nhau.
1.2 Định giá doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm định giá doanh nghiệp
Doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, mục đích sở hữu doanh
nghiệp vì thế cũng là vì mục tiêu lợi nhuận. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư quyết
định bỏ vốn là đánh giá hiệu quả hoạt động, đánh giá các khoản thu nhập mà
doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai hay chính là việc
định giá doanh nghiệp. Đó là quá trình ước tính khoản tiền mà người mua
phải trả để họ có được quyền sở hữu, quyền thu lợi từ doanh nghiệp và cũng
là ước tính của người bán về khoản tiền thu được khi bán doanh nghiệp của
mình. Giá trị của doanh nghiệp là giá trị mà cả người mua và người bán đều

chấp nhận được.
Khác với tài sản thông thường, doanh nghiệp là một hệ thống phức tạp
với nhiều yếu tố cấu thành. Khi xem xét một doanh nghiệp, nhất thiết phải đặt
các yếu tố đó trong mối liên hệ với nhau. Chỉ khi nào doanh nghiệp phá sản,
thanh lý thì các tài sản mới được đánh giá riêng rẽ, độc lập. Giá trị của các
yếu tố cấu thành tài sản của doanh nghiệp luôn thay đổi theo thời gian, ví dụ
như giá trị còn lại của tài sản cố định luôn giảm dần, nhưng giá trị thương
hiệu có thể tăng lên theo thời gian.

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

5

Theo quan niệm về giá trị doanh nghiệp của phương pháp tài sản ròng,
định giá doanh nghiệp có thể định nghĩa: Định giá doanh nghiệp là việc xác
định giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp có tính đến khả năng
sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai tại một thời điểm nhất định.
Tuy nhiên đối với phương pháp chiết khấu dòng tiền, giá trị doanh
nghiệp lại được đánh giá trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Do vậy xác
định giá trị doanh nghiệp là gì tùy thuộc vào từng quan niệm về giá trị.
Xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay có thể sử dụng nhiều phương
pháp. Phương pháp định giá phải có cơ sở khoa học, chặt chẽ và có thể chấp
nhận được vẫn phải dựa trên một trong hai cách tiếp cận là:
- Đánh giá giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp trong điều

kiện doanh nghiệp còn tiếp tục hoạt động, do đó có tính đến khả năng sinh lời
của tài sản trong tương lai.
- Lượng hóa các khoản thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu
tư, người cho vay.
1.2.2 Sự cần thiết của định giá doanh nghiệp
Nền kinh tế càng phát triển, nhu cầu định giá doanh nghiệp càng nảy
sinh một cách tự nhiên từ nhiều đối tượng trong nền kinh tế.
Trên thế giới, xuất phát ban đầu của nhu cầu định giá doanh nghiệp là
từ quá trình mua bán, sáp nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. Giống
như mua bán một mặt hàng bình thường, người ta phải xác định giá trị của nó
để có được giá cả phù hợp. Đây là giao dịch diễn ra có tính chất thường xuyên
và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào
sản xuất kinh doanh, cũng như yêu cầu để tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Trong môi trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể liên kết
với nhau, sáp nhập hoặc chia tách để tận dụng lợi thế của nhau về thị trường,
nhân lực, vốn… để vững chắc và lớn mạnh trên thị trường. Giá trị của doanh
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

6

nghiệp được đánh giá trên một phạm vi lớn có tính đến tất cả các yếu tố tác
động tới doanh nghiệp. Vụ mua bán, sáp nhập, chia tách diễn ra dựa trên cơ
sở giá trị doanh nghiệp đã thương thuyết giữa các bên.
Đặc biệt, trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xác định

giá trị doanh nghiệp còn là một bước đi quan trọng để các quốc gia tiến hành
chuyển đổi loại hình sở hữu như cổ phần hóa, sáp nhập, hợp nhất, giao bán
khoán và cho thuê.
Xét sự cần thiết của định giá từ các đối tượng trong nền kinh tế có liên
quan đến nhu cầu định giá doanh nghiệp, đó là những nhà đầu tư, người cung
cấp, bản thân nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô.
- Đối với nhà đầu tư, người cung cấp: Thông tin về giá trị doanh nghiệp
cho sự đánh giá tổng quát về khả năng tài chính, uy tín kinh doanh, rủi ro và
vị thế tín dụng. Từ đó, nhà đầu tư có quyết định có tiếp tục đầu tư, nhà cung
cấp có tiếp tục cung cấp các yếu tố đầu vào, cấp tín dụng cho doanh nghiệp
nữa hay không. Giá trị doanh nghiệp quyết định giá cả cổ phiếu trên thị
trường. Nếu nhà đầu tư định giá được đúng giá trị của doanh nghiệp thì sẽ thu
được lợi suất đầu tư mong muốn.
- Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Thông tin về giá trị doanh nghiệp
giúp các nhà quản trị phân tích, đánh giá trước khi đưa ra các quyết định về
kinh doanh và tài chính có liên quan đến doanh nghiệp. Từ giá trị doanh
nghiệp của mình, họ sẽ có cơ sở để so sánh giá trị đó với doanh nghiệp khác,
từ đó thấy được vị trí và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường. Quyết định kinh doanh đúng đắn của các nhà quản trị phải dựa trên
nhận thức sâu sắc về vị trí và những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp
mình.
- Đối với các nhà quản lý, hoạch định kinh tế vĩ mô: Trên phương diện
quản lý vĩ mô, thông tin về giá trị doanh nghiệp là một căn cứ quan trọng để
các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức đánh giá tính ổn định của nền kinh
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN



Luận văn tốt nghiệp

7

tế, của thị trường, nhận dạng hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường… Theo
dõi sự biến đổi giá trị doanh nghiệp sẽ rất hữu ích trong việc dự báo sự thay
đổi của thị trường.
Như vậy, định giá doanh nghiệp đang ngày càng trở nên không thể
thiếu trước sự tăng trưởng kinh tế, khi mà số lượng các doanh nghiệp mua
bán, sáp nhập, cổ phần hóa đang nhiều dần lên, cùng với nhu cầu thông tin từ
nhiều đối tượng trong nền kinh tế.
1.3 Định giá doanh nghiệp theo phương pháp chiết khấu dòng tiền
1.3.1 Định nghĩa phương pháp chiết khấu dòng tiền
Dòng tiền chiết khấu (Discounted Cash Flow) là dòng tiền tại một thời
điểm trong tương lai được chiết khấu theo một mức lãi suất chiết khấu nhất
định về thời điểm hiện tại. Dựa trên nguyên lý là giá trị của một doanh nghiệp
bằng tổng giá trị của các dòng tiền doanh nghiệp tạo ra ở thời điểm hiện tại và
tương lai, do vậy, phương pháp này được gọi là phương pháp chiết khấu dòng
tiền (DCF).
Cơ sở của nguyên lý trên dựa trên lý luận cho rằng nhà đầu tư bỏ tiền
vào doanh nghiệp là để hưởng lợi nhuận mà doanh nghiệp làm ra. Do đó họ
phải tính đến những khoản lợi nhuận có thể thu được trong tương lai.
Quá trình sản xuất kinh doanh là một quá trình phát sinh các dòng tiền
vào và dòng tiền ra. Trong đó, dòng tiền của doanh nghiệp được hiểu là các
khoản chi và thu bằng tiền được kỳ vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác
nhau trong thời gian tồn tại của doanh nghiệp. Theo nguyên lý giá trị thời
gian của tiền, một đồng vốn bỏ ra đều có chi phí cơ hội nhất định, các dòng
tiền bằng nhau trong các thời điểm khác nhau sẽ có giá trị khác nhau. Do vậy,
giá trị hiện tại của các dòng tiền hiện tại và tương lai được coi là tiêu chuẩn
thích hợp để định giá doanh nghiệp.

Từ đó, phương pháp chiết khấu dòng tiền có thể định nghĩa như sau:
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

8

Phương pháp chiết khấu dòng tiền là phương pháp xác định giá trị
doanh nghiệp bằng cách chiết khấu các dòng tiền doanh nghiệp sẽ thu được
trong tương lai về thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Công thức chung cho phương pháp DCF:
n

V =

CFi


(1 +k )
i=
1

i

Trong đó:
CFi : Luồng tiền tại thời điểm i.

k

: Lãi suất chiết khấu

Phương pháp chiết khấu dòng tiền đã xem xét doanh nghiệp trong trạng
thái động, xem xét các tài sản trong doanh nghiệp trong một thể thống nhất,
cùng nhau tạo nên giá trị của doanh nghiệp.
1.3.2 Đánh giá phương pháp chiết khấu dòng tiền
1.3.2.1 Một số phương pháp định giá doanh nghiệp khác
 Phương pháp tài sản ròng
Phương pháp này được xây dựng trên cơ sở các nhận định:
- Doanh nghiệp về cơ bản giống như một loại hàng hóa thông
thường
- Hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành trên cơ sở một lượng
tài sản có thực thuộc về doanh nghiệp.
Theo phương pháp này, giá trị doanh nghiệp bằng tổng giá trị thị trường
của tài sản mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh.
Phương pháp định giá tài sản thuần xem xét doanh nghiệp trong một
trạng thái tĩnh. Các tài sản được xác định giá trị riêng lẻ mà không tính đến
mối tương quan giữa chúng. Giống như nhìn thấy cây mà không thấy rừng,

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

9


các tài sản để riêng có giá trị nhỏ nhưng khi hợp lại thành một thể thống nhất
có thể có giá trị rất lớn.
Phương pháp này chỉ xét các tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm
hiện tại, không đánh giá triển vọng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai.
Đồng thời bỏ qua các yếu tố phi vật chất nhưng lại có giá trị thực sự, có thể
đóng góp rất lớn vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp như: trình độ quản
lý, uy tín, thương hiệu…
• Phương pháp định lượng Goodwill
Cơ sở của phương pháp xuất phát từ quan điểm cho rằng doanh nghiệp là
một tổ chức có tài sản bao gồm cả hữu hình và vô hình. Ngoài việc sử dụng
phương pháp tài sản ròng để đánh giá giá trị hữu hình, phương pháp này còn
xác định giá trị vô hình, do đó có thể bù trừ sai sót xảy ra khi sử dụng phương
pháp tài sản ròng. Giá trị mà các tài sản vô hình sinh ra được gọi là những
khoản siêu lợi nhuận.
Tuy nhiên, ngoài những hạn chế khi sử dụng phương pháp tài sản ròng,
phương pháp này còn có những hạn chế riêng. Đó là trong cơ chế thị trường,
tác động của các quy luật cạnh tranh, quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ
làm xói mòn tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh nghiệp khó có thể duy
trì lợi nhuận một cách lâu dài. Các tác động bên ngoài sẽ có nguy cơ làm mất
siêu lợi nhuận của doanh nghiệp và rất khó dự đoán.
• Phương pháp sử dụng chỉ số PER
Phương pháp định giá này được dựa trên nguyên lý “ Hai doanh nghiệp
giống nhau phải có giá trị giống nhau”. Nếu hai doanh nghiệp có quy mô
giống nhau, cùng hoạt động trong một môi trường kinh doanh cụ thể thì phải
có giá trị tương đương nhau.

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C


TCDN


Luận văn tốt nghiệp

10

Là một phương pháp đơn giản, phương pháp cho phép ước lượng nhanh
chóng về giá trị doanh nghiệp, được sử dụng phổ biến ở các nước có thị
trường chứng khoán phát triển.
Tuy nhiên, phương pháp định giá theo tỷ số P/E là một phương pháp đòi
hỏi điều kiện về thị trường chứng khoán hoàn hảo, tức là phải thỏa mãn 5 điều kiện:
- Có vô số người bán và người mua
- Các loại chứng khoán có thể thay thế được cho nhau
- Chứng khoán và thông tin được lưu thông tự do
- Việc mua bán chứng khoán có thể diễn ra bất kỳ không gian và
thời gian nào
- Mọi thành viên tham gia thị trường đều nắm và tuân thủ các điều
kiện giao dịch mua bán chứng khoán.
Phương pháp này cũng không đưa ra được những cơ sở để các nhà đầu tư
phân tích, đánh giá về khả năng tăng trưởng và rủi ro tác động tới giá trị
doanh nghiệp.
1.3.2.2 Ưu và nhược điểm của phương pháp chiết khấu dòng tiền
 Ưu điểm
- Khác với phương pháp định giá tài sản thuần xem xét doanh nghiệp trong
một trạng thái tĩnh, các tài sản được xác định giá trị riêng lẻ mà không tính
đến mối tương quan giữa chúng. Phương pháp chiết khấu dòng tiền đã tính
đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai dựa trên các dự báo
về thu nhập hay tỷ lệ cổ tức mà doanh nghiệp phải chi trả. Do đó, doanh
nghiệp được xem xét trong trạng thái động, tính toán tất cả các yếu tố tác

động đến giá trị doanh nghiệp: môi trường vĩ mô, môi trường vi mô từ đó tác
động đến doanh thu, chi phí, thuế thu nhập, vốn đầu tư, chu kỳ đầu tư, lãi suất
chiết khấu…
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

11

- Tùy từng góc nhìn của nhà đầu tư, giá trị doanh nghiệp có thể khác
nhau. Nhà đầu tư mua doanh nghiệp để cải tổ doanh nghiệp theo những dự án,
những ý tưởng của mình. Do vậy, những triển vọng, dự án đầu tư bổ sung đối
với doanh nghiệp của từng nhà đầu tư là khác biệt làm cho giá trị doanh
nghiệp không giống nhau. Giá trị doanh nghiệp có thể thay đổi rất lớn tùy
theo những trù định của nhà đầu tư.
- Định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền thực chất còn là sự lựa
chọn phương án đầu tư tối ưu. Giá trị doanh nghiệp được tính toán sẽ là mức
giá cao nhất mà nhà đầu tư có thể trả bởi vì mức giá đó đã phản ánh chi phí cơ
hội đối với người mua, thể hiện lợi ích tối đa mà doanh nghiệp có thể đem lại
theo những dự kiến của nhà đầu tư. Nếu tham gia đầu thầu, giá trị doanh
nghiệp xác định theo phương pháp DCF sẽ là giới hạn để bỏ thầu.
- Quan niệm về dòng tiền cho phép các chuyên gia đánh giá tránh được
một vấn đề phức tạp là phải điều chỉnh các số liệu kế toán phản ánh đúng thời
điểm phát sinh các khoản tiền, không phải tiến hành kiểm kê, phân loại tài sản
và xác định giá trị của từng tài sản riêng lẻ.
 Nhược điểm

Hạn chế lớn nhất của phương pháp xuất phát từ đặc thù của phương pháp
chiết khấu dòng tiền bởi người ta phải tiến hành dự báo các luồng tiền trong
tương lai. Để xác định được chính xác, phù hợp giá trị của doanh nghiệp, các
dự báo phải chính xác tương đối. Tuy nhiên, không thể tránh khỏi những sự
kiện bất ngờ xảy ra trong tương lai.
- Để thực hiện được phương pháp này yêu cầu người đánh giá phải có
năng lực chuyên môn cao vì độ chính xác của phương pháp phụ thuộc khá
nhiều vào kinh nghiệm và trình độ của người định giá.
- Phương pháp này chỉ áp dụng được đối với doanh nghiệp có chiến lược
kinh doanh rõ ràng và khả thi. Đối với những doanh nghiệp nhỏ không có
hoặc chiến lược kinh doanh không rõ ràng, hoặc môi trường kinh doanh quá
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

12

rủi ro cũng rất khó có thể sử dụng phương pháp này để có được kết quả định
giá chính xác.
- Các số liệu thống kê trong ngành phải sẵn có trên thị trường làm cơ sở
để so sánh và dự báo. Hệ số rủi ro (β) của từng ngành phải được các tổ chức
tín nhiệm công bố. Các cổ phiếu niêm yết là những cổ phiếu đại diện cho
ngành, là cơ sở tham chiếu trong quá trình định giá.
1.3.3 Các mô hình định giá doanh nghiệp theo phương pháp DCF.
Theo phương pháp DCF, giá trị doanh nghiệp được dựa trên giá trị hiện
tại của dòng tiền kì vọng, bao gồm: luồng cổ tức, luồng tiền tự do đối với

doanh nghiệp và luồng tiền tự do đối với chủ sở hữu. Có rất nhiều kỹ thuật
định giá theo phương pháp DCF, tuy nhiên chủ yếu là 3 mô hình sau:
• Mô hình chiết khấu luồng cổ tức (DDM)
Luồng tiền dễ thấy nhất là luồng cổ tức bởi nó là luồng tiền hàng năm cổ
đông trực tiếp nhận được. Do đó, lãi suất chiết khấu được sử dụng sẽ là chi
phí vốn cổ phần. Tuy nhiên, phương pháp này rất khó áp dụng đối với những
doanh nghiệp không trả cổ tức trong suốt thời kỳ tăng trưởng cao ( ví dụ như:
Microsoft, ...), hoặc trả cổ tức rất thấp vì tỷ lệ lãi trên một đồng vốn rất cao.
Tuy nhiên, mô hình DDM sẽ rất hữu dụng đối với những doanh nghiệp
đã trưởng thành, hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào ổn định để giả thiết tốc
độ tăng trưởng cổ tức là tương đối ổn định trong dài hạn.
• Mô hình FCFF (Free Cash Flow to Firm)
Luồng tiền ở đây là dòng tiền tự do hoạt động thường được mô tả bằng
luồng tiền sau khi trừ đi các chi phí trực tiếp (Giá vốn hàng bán và Chi phí
bán hàng và quản lý) và trước khi trừ đi tất cả các khoản phải trả cho người
tài trợ vốn ( lãi suất, cổ tức). Luồng tiền này tất cả những người tài trợ đều có
thể sử dụng, do vậy lãi suất chiết khấu được áp dụng là chi phí vốn trung
bình (WACC).
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

13

Mô hình này rất hiệu quả khi so sánh các doanh nghiệp với cơ cấu vốn
khác nhau vì giá trị của toàn bộ doanh nghiệp bao gồm cả giá trị của nợ và

vốn chủ sở hữu.
• Mô hình FCFE (Free Cash Flow to Equity)
Mô hình thứ ba của phương pháp DCF là dòng tiền tự do đối với vốn cổ
phần, tức là xác định luồng tiền mà chủ sở hữu được sử dụng sau khi đã trừ đi
các khoản thanh toán cho chủ nợ và các chi tiêu để duy trì tài sản của doanh
nghiệp. Vì luồng tiền này sẵn sàng cho các chủ sở hữu nên lãi suất chiết khấu
chính là chi phí vốn cổ phần.
Điểm cơ bản của những phương pháp DCF này là giá trị doanh nghiệp
đều phụ thuộc vào hai biến đầu vào quan trọng:
(1) Tỷ lệ tăng trưởng của luồng tiền ( bao gồm tỷ lệ tăng trưởng và thời
kỳ tăng trưởng)
(2) Ước lượng lãi suất chiết khấu.
Sự thay đổi của các biến đầu vào này sẽ gây ảnh hưởng lớn đến giá trị của
công ty.
1.3.4 Khả năng áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền
Áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền cần dựa trên các yếu tố sau:
- Mục đích định giá
- Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
- Sự ồn định của thu nhập và các dòng tiền trong tương lai
- Sự sẵn có về số liệu thống kê thị trường
 Mục đích định giá
Phương pháp chiết khấu dòng tiền áp dụng trong trường hợp nhà đầu tư
muốn đầu tư lâu dài vì các nhà đầu tư kì vọng vào thu nhập thu được trong
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp


14

tương lai của doanh nghiệp. Nếu người mua mua doanh nghiệp với mục đích
đầu tư lâu dài thì sẽ quan tâm đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong
tương lai. Còn đối với người bán, nếu muốn tìm kiếm các khoản đầu tư dài
hạn, muốn tìm đối tác chiến lược để tranh thủ sự đầu tư và ảnh hưởng của đối
tác đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai thì
đương nhiên sẽ quan tâm đến các yếu tố sinh lợi trong tương lai.
Đối với ngân hàng, ngân hàng sẽ định giá doanh nghiệp theo phương
phấp chiết khấu dòng tiền để xác định khả năng chi trả lãi, gốc cho ngân hàng.
Tuy nhiên, khi dòng thu nhập trong tương lai không đủ để chi trả lãi và gốc
cho ngân hàng hoặc để thế chấp, cầm cố tài sản của doanh nghiệp, ngân hàng
sẽ sử dụng phương pháp tài sản ròng hoặc phương pháp nào đó khác.
Trong trường hợp người mua chỉ quan tâm đến doanh nghiệp với mục
đích chỉ để bán những tài sản hiện có hoặc cả người bán, người mua đều
không hề có ý định tiếp tục vận hành, đầu tư hoặc trong quá trình kinh doanh,
doanh nghiệp không đem lại lợi nhuận thì không thể sử dụng phương pháp DCF.
 Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể sử dụng chiết khấu dòng
tiền. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, công
nghiệp, thương mại… giá trị doanh nghiệp tập trung chủ yếu ở tài sản thì có
thể sử dụng phương pháp tài sản ròng.
Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực
giá trị tài sản vật chất không nhiều như tài chính, bảo hiểm, tư vấn, kiểm
toán… thì phương pháp tài sản ròng sẽ bộc lộ nhiều thiếu sót, bắt buộc chỉ có
định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền mới khắc phục được.
 Sự ổn định của thu nhập và dòng tiền trong tương lai
Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố không chắc chắn trong tương lai, không có khả năng dự báo

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

15

được chính xác kết quả hoạt động kinh doanh trong một thời gian nhất định
thì kết quả định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền sẽ không đáng tin
cậy. Ví dụ như đối doanh nghiệp chế tạo phần mềm ở Việt Nam gặp phải khó
khăn lớn khi Việt Nam là một quốc gia có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm
lớn nhất trên thế giới, năm 2005 là 90% với giá trị vi phạm 38 triệu USD,
kinh doanh trong lĩnh vực phần mềm do vậy hàm chứa rất nhiều rủi ro.
Vì phương pháp DCF giả định doanh nghiệp là một sự đầu tư luôn tiếp
diễn đến vô cùng, nên đối với những doanh nghiệp đang trong tình trạng thua
lỗ, dòng tiền trong tương lai có khả năng bị âm làm cho giá trị chiết khấu bị
âm. Trường hợp này nên sử dụng phương pháp định giá theo tài sản hoặc một
phương pháp khác.
 Sự sẵn có về số liệu thống kê thị trường
Để tính được rủi ro thị trường, hệ số rủi ro Beta của cổ phiếu phải dựa trên cơ
sở dữ liệu thị trường, được thống kê đầy dủ. Hơn nữa, chỉ khi thị trường phát
triển cao, chứng khoán trên thị trường chứng khoán đủ đại diện cho toàn thị
trường thì các thông số tính toán được mới đảm bảo độ chính xác.
Đồng thời, các số liệu về môi trường vĩ mô và môi trường ngành phải đầy đủ
và đáng tin cậy, đủ để làm cơ sở dự báo tiềm năng của thị trường.
Trong các điều kiện không đầy đủ và hoàn hảo, khi định giá doanh
nghiệp không nhất thiết là chỉ sử dụng một phương pháp chiết khấu dòng tiền,

mà có thể áp dụng nhiều phương pháp để đưa ra được giá trị thích hợp.
1.3.5 Các bước thực hiện định giá theo phương pháp chiết khấu dòng tiền
Như phần 1.3.3 đã trình bày, giá trị của doanh nghiệp ( Intrinsic Value)
phụ thuộc vào hai biến đầu vào quan trọng là: Tốc độ tăng trưởng của dòng
tiền và Lãi suất chiết khấu. Do đó, trong quá trình định giá ta phải xác định
những yếu tố tác động trực tiếp đến hai tham biến này.

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

16

Bảng 1.1: Sơ đồ quá trình tác động của các biến lên giá trị doanh nghiệp

Nguồn: Valuation – McKinsey 3rd 2002

Giá trị doanh nghiệp tác động đến sự biến động giá của cổ phiếu trên thị
trường.
Giá trị doanh nghiệp bị tác động bởi các tham số tài chính, ví dụ như:
Tốc độ tăng trưởng g, Tỷ suất lợi nhuân...
Và đến lượt, các tham số lại phụ thuộc vào các chỉ tiêu (Value drivers)
tùy theo từng doanh nghiệp khác nhau. Ví dụ như giá trị doanh nghiệp sản
xuất bánh kẹo sẽ phụ thuộc vào thị phần, vào chất lượng, hệ thống phân
phối... doanh nghiệp ngành dược phẩm sẽ phụ thuộc nhiều vào nghiên cứu –
phát triển (R&D).

Sơ đồ 1.2: Quy trình định giá doanh nghiệp theo phương pháp DCF

Đánh giá môi
trường và năng
lực của DN

Phân tích
tài chính

Tính toán
GTDN

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

Dự báo tình hình
tài chính
Tính dòng tiền

Xác
định lãi
suất CK

Phân tích độ
nhạy và KL
định giá

TCDN



Luận văn tốt nghiệp

17

1.3.5.1 Đánh giá môi trường và năng lực nội tại của doanh nghiệp
 Mục tiêu đánh giá:
Việc đánh giá các yếu tố môi trường và năng lực nội tại của doanh
nghiệp nhằm cung cấp thông tin để xây dựng các giả thuyết về dòng tiền
trong tương lai và đánh giá độ rủi ro khi đầu tư vốn vào doanh nghiệp.
 Yêu cầu của đánh giá:
Khi đánh giá các yếu tố môi trường bên ngoài có tác động tới doanh
nghiệp và các yếu tố thuộc về nội bộ doanh nghiệp phải đạt được các yêu cầu
sau:
- Chỉ ra được những cơ hội thuận lợi, những nguy cơ đe dọa từ phía môi
trường kinh doanh
- Xác định được các điểm mạnh, điểm yếu so với các đối thủ cạnh tranh và
khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước sự tác động của các yếu tố môi
trường.
 Phương pháp đánh giá:
- Thu thập thông tin: Thông tin được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau:
chính sách của Nhà nước, văn bản luật, tạp chí chuyên ngành, các tổ chức
chuyên nghiệp, ngân hàng, báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán của doanh
nghiệp…
- Phương pháp đánh giá thường được sử dụng là phương pháp xếp hạng
cho điểm hay còn gọi là phương pháp chuyên gia.
 Nội dung đánh giá
Bước 1 gồm hai phần chính:

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C


TCDN


Luận văn tốt nghiệp

18

- Phần 1: Đánh giá môi trường bên ngoài doanh nghiệp bao gồm:
Môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường ngành mà doanh nghiệp
có hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phần 2: Đánh giá môi trường nội bộ của doanh nghiệp bao gồm
các yếu tố về tài sản, uy tín của doanh nghiệp, trình độ quản lý và
trình độ của nhân viên, chất lượng của sản phẩm, mạng lưới phân
phối…
Phần 1: Đánh giá môi trường bên ngoài của doanh nghiệp.
i) Môi trường vĩ mô
• Môi trường kinh tế
Doanh nghiệp là một phần trong nền kinh tế do đó bối cảnh kinh tế luôn có
tác động trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu thường được
sử dụng để đánh giá kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá
tiêu dùng, lãi suất, các chỉ số trên thị trường chứng khoán… Sự thay đổi của
các yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp.
• Môi trường chính trị
Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động sản xuất và kinh doanh ổn định trong
một môi trường chính trị ổn định. Môi trường chính trị ổn định liên quan mật
thiết đến luật pháp, đến các quan điểm của nhà nước và ý thức của người dân.
Môi trường kinh tế - chính trị là điều kiện thiết yếu để doanh nghiệp có thể
hoạt động.
• Môi trường văn hóa – xã hội

Môi trường văn hóa đặc trưng bởi những quan niệm, lối sống, đạo đức…
ảnh hưởng đến thói quen tiêu dùng của dân cư, và sự đón nhận của họ đối với
doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

19

Môi trường xã hội thể hiện về mặt dân số, trình độ dân trí, cơ cấu dân số,
mật độ, thu nhập bình quân… tác động đến nhu cầu, chiến lược marketing…
của doanh nghiệp.
• Môi trường khoa học công nghệ
Tác động của khoa học – công nghệ lên quy trình sản xuất, phương thức tổ
chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngày nay, yêu cầu của cuộc sống
đòi hỏi các sản phẩm phải đa dạng, đảm bảo chất lượng, hình thức. Đây là
một thách thức của doanh nghiệp để cạnh tranh, tồn tại phải thích ứng trước
những bước phát triển mới của khoa học và công nghệ.
ii) Môi trường ngành
+ Đánh giá cung cầu thị trường
Cung cầu của thị trường cho biết độ lớn của thị trường hiện tại và tiềm
năng phát triển của thị trường trong tương lai.
Cung được xác định dựa trên số lượng các doanh nghiệp trong ngành,
số lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ đang có trên thị trường.
Cầu chủ yếu dựa trên nhu cầu của khách hàng đối với loại sản phẩm dịch

vụ, khả năng thu nhập và sự sẵn sàng mua dành cho sản phẩm dịch vụ đó.
+ Phân tích cấu trúc ngành
Để phân tích cấu trúc ngành, ta có thể sử dụng mô hình của Porter trong
phân tích cạnh tranh, đánh giá tác động của các yếu tố trong ngành:
Sơ đồ 1.3: Mô hình Năm lực lượng cạnh tranh – Five Forces

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

20

Nguồn: M.E.Porter, Chiến lược cạnh tranh

• Mức độ cạnh tranh hiện tại
Thị trường không phải là độc quyền, các doanh nghiệp luôn phải đối
mặt với những doanh nghiệp khác trong việc chiếm lĩnh thị phần. Đánh giá
đối thủ cạnh tranh trên nhiều khía cạnh: số lượng, chất lượng, giá cả của sản
phẩm dịch vụ, sự đa dạng sản phẩm, khả năng phát triển của các đối thủ… Từ
đó, xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
• Ảnh hưởng của sự tham gia mới
Thêm một tham gia mới, doanh nghiệp sẽ có thêm một đối thủ cạnh
tranh. Dựa trên quy mô, xu hướng, tỷ suất lợi nhuận của ngành cho biết mức
độ hấp dẫn gia nhập của ngành. Ngành nào có tỷ suất lợi nhuận càng cao,
càng có nhiều doanh nghiệp muốn tham gia và sự gia nhập chỉ dừng lại khi thị
trường đã bão hòa.

Đánh giá sự tham gia mới còn phải tính đến các rào cản gia nhập ngành
như: yêu cầu của người tiêu dùng, yêu cầu về công nghệ, vốn…
• Sự đe dọa của sản phẩm thay thế
Nếu có nhiều sản phẩm thay thế và sản phẩm thay thế đang có lợi thế
về giá hoặc chất lượng, cầu của sản phẩm dịch vụ sẽ giảm.
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

21

• Sức mạnh của người mua
Sức mạnh của người mua được đánh giá dựa trên sở thích của khách
hàng và lượng mua sản phẩm, dịch vụ trên một khách hàng. Nếu khách hàng
mua một lượng lớn hoặc có ít người mua, doanh nghiệp sẽ bị khách hàng chi
phối nhiều hơn. Đôi khi khách hàng tự liên kết với nhau để bảo vệ quyền lợi
và chi phối doanh nghiệp.
• Ảnh hưởng của nhà cung ứng
Tính ổn định của nguồn cung và sự chi phối của người cung cấp ảnh
hưởng tới mức giá các nguyên liệu đầu vào, tới tính ổn định của hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiện tại và trong dài hạn. Sức mạnh
của nhà cung cấp thể hiện ở sự khan hiếm của nguồn cung, số lượng và đặc
quyền của các nhà cung cấp.
Phần 2: Đánh giá môi trường nội bộ của doanh nghiệp
Các yếu tố được đánh giá bao gồm 5 nhóm sau:
+ Cơ sở hạ tầng: là các tài sản của doanh nghiệp gồm có:

- Quy trình sản xuất
- Chế độ duy tu bảo dưỡng máy móc, thiết bị
- Mua và lưu trữ hàng tồn kho
- Địa điểm sản xuất kinh doanh
- Hệ thống cung cấp điện, nước
- Môi trường làm việc dành cho quản lý và người lao động.
Đây là các tài sản vật chất thuộc về doanh nghiệp, nó cho biết hiện trạng
tài sản, các điều kiện trực tiếp liên quan đến sản xuất kinh doanh sản phẩm
dịch vụ, sẽ ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí hoạt động.
+ Cơ cấu quản lý
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

22

- Hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc
- Chính sách kinh doanh
- Bộ máy tài chính kế toán
- Chuyên gia kỹ thuật
Bộ máy quản lý doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng vì là cơ sở để quản
lý, đưa ra các chiến lược sản xuất, kinh doanh, phân phối phù hợp. Các yếu tố
này ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả kinh doanh hiện tại và dòng tiền
trong tương lai của doanh nghiệp.
+ Các nguồn lực nội bộ:
- Nhân sự

- Quan hệ với nhà cung cấp
Nhân sự là một tài sản của doanh nghiệp, doanh nghiệp nào sở hữu một
đội ngũ nhân lực trình độ cao, lành nghề, đáp ứng được yêu cầu của công việc
hiện tại và những thay đổi trong tương lai sẽ đưa doanh nghiệp ngày càng
phát triển. Quan hệ với nhà cung cấp ảnh hưởng trực tiếp tới các biến đầu vào
của quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Sản phẩm và dịch vụ
- Cơ cấu sản phẩm
- Đa dạng hóa sản phẩm
- Nghiên cứu phát triển
Sản phẩm và dịch vụ là yếu tố quan trọng để tạo nên giá trị của công ty.
Sản phẩm thỏa mãn được yêu cầu khách hàng, thường xuyên cải tiến thay đổi
mẫu mã, nâng cao chất lượng sẽ giữ chân được khách hàng cũ và vươn đến
những khách hàng tiềm năng.
+ Người tiêu dùng/ Khách hàng
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

23

- Thị trường tiêu thụ
- Nhãn hiệu, hình ảnh của công ty
- Chiến lược thị trường và thị phần.
Tùy theo đặc thù của loại hình doanh nghiệp để xác định các yếu tố
thuộc về môi trường nội bộ có khả năng ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp

và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó.
1.3.5.2 Phân tích tài chính
Mục đích của phân tích tài chính là để xác định tình hình tài chính của
công ty, sức mạnh tài chính của công ty trong mối tương quan với các công ty
khác. Từ đó, làm cơ sở cho những dự báo tương lai.
Sử dụng các tỷ số trong phân tích, ta có các nhóm tỷ số sau:
+ Các tỷ số về khả năng thanh toán
Các tỷ số về khả năng thanh toán cho biết khả năng thanh toán của doanh
nghiệp
Tỷ số thanh toán hiện
hành

Tỷ số thanh toán nhanh

Tài sản lưu động
=

Nợ ngắn hạn
TSLĐ – Tồn kho

=

Nợ ngắn hạn

+ Các tỷ số về khả năng hoạt động
Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản
của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài
sản khác nhau: tài sản lưu động, tài sản cố định. Không chỉ đo lường hiệu quả
sử dụng tổng tài sản mà còn quan tâm tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận


Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

24

cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng để
xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
Tỷ số vòng quay hàng
tồn kho

Kỳ thu tiền bình quân

Hiệu suất sử dụng TSCĐ

Hiệu suất sử dụng toàn bộ
tài sản

Doanh thu thuần
=

Hàng tồn kho
Các khoản phải thu

=


Doanh thu bình quân một ngày
Doanh thu thuần

=

Giá trị tài sản cố định
Doanh thu thuần

=

Tổng tài sản

+ Các tỷ số về khả năng cân đối vốn
Các tỷ số này cho biết mức độ sử dụng nợ và trả nợ của doanh nghiệp,
từ đó cho biết hiệu quả của đòn bẩy tài chính và khả năng gặp rủi ro khi sử
dụng nợ.
Tỷ số nợ

Tỷ số khả năng thanh
toán lãi vay

Nợ
=

Tổng tài sản
EBIT

=

Chi phí trả lãi


+ Các tỷ số về khả năng sinh lời.

Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN


Luận văn tốt nghiệp

Tỷ số lợi nhuận thuần
trên doanh thu

Tỷ số lợi nhuận thuần
trên tổng tài sản (ROA)

Tỷ số lợi nhuận trên vốn
cổ phân thường (ROE)

25

Lợi nhuận thuần
=

Doanh thu thuần
Lợi nhuận thuần

=


Tổng tài sản
Lợi nhuận thuần

=

Vốn cổ phần thường

Trên đây là cách tính các tỷ số tài chính. Các tỷ số này là cơ sở để đánh
giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, đồng thời đánh giá vị thế của doanh
nghiệp trong ngành, so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác.
1.3.5.3 Dự báo tình hình tài chính và Tính dòng tiền
Trong bước này, phải xem xét các kế hoạch sản xuất kinh doanh, các
dự án đầu tư, đưa ra các giả thiết có thể về sự phát sinh các dòng tiền.
Đồng thời, kết hợp với phân tích môi trường vĩ mô, môi trường ngành,
môi trường nội bộ và phân tích tài chính từ trước để dự báo xu hướng phát
triển của doanh nghiệp, xây dựng dự báo Báo cáo kết quả kinh doanh và Bảng
cân đối kết toán trong một thời kỳ nhất định.
Từ Báo cáo kết quả kinh doanh và Bảng cân đối kế toán, tính toán các
dòng tiền của doanh nghiệp.
Đối với phương pháp FCFF, dòng tiền thuần tự do của doanh nghiệp
được tính bằng Lợi nhuận hoạt động trừ đi Phần đầu tư thuần, thể hiện số tiền
sẵn sàng cho chủ doanh nghiệp sử dụng.
1.3.5.4 Xác định lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu (hay còn gọi là chi phí vốn bình quân gia quyền) là
tỷ lệ chiết khấu được sử dụng để chuyển luồng thu nhập tự do của doanh
nghiệp dự tính sẽ thu được trong tương lai về giá trị hiện tại của nó.
Nguyễn Thị Diệp Quỳnh
45C

TCDN



×