+A
-A
-A
+A
-A
+A
+A
+A
(+A) Dòng tiền vào
(-A) Dòng tiền ra
Dòng tiền ra
-
Dòng tiền vàoDòng tiền thuần của dự án đầu tư
=
Trong đó:
“ Dòng tiền vào” là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đưa lại dưới hình thức: Trích khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận thuần hàng năm và các khoản vốn doanh nghiệp thu được khi dự án đầu tư kết thúc.
“ Dòng tiền ra” là những khoản chi đầu tư vào doanh nghiệp, bao gồm các khoản vốn đầu tư vào tài sản cố định, tài sản lưu động thường xuyên trong tương lai đối với doanh nghiệp.
t
n
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
Phòng nghiệp vụ I
Phòng nghiệp vụ II
Phòng nghiệp vụ III
Phòng nghiệp vụ IV
Phòng tổng hợp
TX Sơn La
Tp. Đà Nẵng
Tp.Hồ Chí Minh
Kiểm toán báo cáo tài chính
Dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác
Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư
Bộ phận kế toán
Bộ phận hành chính, lái xe, lễ tân
Hội đồng khoa học
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
LỜI NÓI ĐẦU
Sau gần hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, cho đến
nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong đó
không thể không kể đến những thay đổi tích cực từ việc đổi mới, nâng cao
hoạt động của các doanh nghiệp. Bên cạnh những hoạt động cho thuê, mua
bán, sát nhập doanh nghiệp thì cổ phần hóa là hoạt động diễn ra nhiều nhất và
thu hút được sự quan tâm đông đảo của nhiều đối tượng.
Trong qua trình diễn ra các hoạt động nói trên, có thể thấy nổi lên một
vấn đề chung nhất có tầm quan trọng đặc biệt đó là xác định giá trị doanh
nghiệp, bởi lẽ bất kỳ quyết định nào liên quan đến các hoạt động nói trên
cũng sẽ phải dựa trên cơ sở của giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là
một trong những căn cứ quan trọng nhất để các bên hữu quan và Chính phủ
xem xét, đưa ra các quyết định cuối cùng liên quan đến sự phát triển trong
tương lai của doanh nghiệp, của từng ngành, từng lĩnh vực và của cả nền kinh
tế.
Công tác định giá ở nước ta mặc dù đã diễn ra từ rất lâu (đầu những
năm 90) nhưng gần đây mới thu hút được sự quan tâm của mọi người, nhất là
trong thời điểm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước.
Mặc dù chúng ta có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện công tác định giá
thông qua hàng loạt những thay đổi từ phía Nhà nước nhưng thực tế cho thấy
công tác này vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn. Cơ chế tổ chức định giá
chưa chặt chẽ, giá trị của doanh nghiệp được xác định chưa mang tính khách
quan, thiếu chính xác và tốn thời gian, chi phí. Do vậy mà công tác định giá
trong thời gian qua được đánh giá là chưa hiệu quả.
Định giá doanh nghiệp có một tầm quan trọng rất lớn đối với toàn bộ
nền kinh tế và do vậy cần có những giải pháp hoàn chỉnh và khoa học nhất để
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
1
làm sao nâng cao được hiệu quả của công tác này sẽ giúp thúc đẩy nhanh hơn
nữa quá trình đổi mới và cơ cấu lại nền kinh tế, góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi là một thành viên của tổ chức
Thương mại thế giới WTO.
Ngay từ khi mới tham gia vào hoạt động định giá, công ty Cổ phần
Kiểm toán và Định giá Việt Nam, nay là công ty Trách nhiệm hữu hạn Kiểm
toán và Định giá Việt Nam đã luôn chú trọng đến việc mở rộng và hoàn thiện
chất lượng công tác định giá của mình nhằm bắt nhịp và đáp ứng tốt nhất nhu
cầu định giá trong bối cảnh hội nhập. Do đó, công ty đã trở thành một trong
những tổ chức định giá hàng đầu và có uy tín nhất tại Việt Nam hiện nay. Vì
vậy, sau khi thực tập tại đây, với mục đích tìm hiểu thực tế về hoạt động định
giá doanh nghiệp tại công ty và những tồn tại của nó nhằm tìm ra giải pháp
khắc phục, thúc đẩy hơn nữa hoạt động này, tôi đã chọn để tài “Hoàn thiện
hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty Trách nhiẹm hữu hạn Kiểm toán
và Định giá Việt Nam – VAE” để làm đề tài cho báo cáo thực tập tốt nghiệp
của mình.
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu về thực trạng hoạt động định giá tại VAE , trước hết
tôi muốn đi sâu nghiên cứu những lý luận chung nhất về định giá, tiếp đến là
phân tích thực trạng công tác định giá hiện nay và thứ ba là trong giới hạn
hiểu biết của mình tôi đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động định giá tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là hoạt động định giá tại công ty Kiểm
toán và Định giá Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là những doanh nghiệp được định giá bởi công ty
Kiểm toán và Định giá Việt Nam trong những năm từ 2005 trở lại đây.
2
2
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp tổng hợp như:
tập hợp, nghiên cứu tài liệu sau đó chọn lọc, phân tích, đánh giá thông tin dữ
liệu trên cơ sở các số liệu thống kê thu thập được từ Công ty Kiểm toán và
Định giá Việt Nam.
Bố cục của đề tài:
Đề tài này gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về doanh nghiệp và định giá doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty TNHH
Kiểm tóan và Định giá Việt Nam.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty
Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của PGS.TS Lê Đức Lữ
cùng toàn thể các anh, chị nhân viên phòng Nghiệp vụ I, công ty Kiểm toán
và Định giá Việt Nam đã tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành báo cáo
thực tập của mình.
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH
GIÁ DOANH NGHIỆP
1.1 Doanh nghiệp và các đặc điểm của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ
chức kinh tế, cá nhân nhằm phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy
mô quá nhỏ.
Một tổ chức kinh tế chỉ được coi là doanh nghiệp nếu nó được sự thừa
nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó.
Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục
tiêu hoạt động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ... Vậy:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (theo luật doanh nghiệp 2005).
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thực thể kinh tế và cần được coi là một loại hàng
hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một nhu cầu tất yếu và đã thu hút
được sự quan tâm của rất nhiều đối tượng khác nhau. Giá trị doanh nghiệp
cần được xác định một cách hợp lý để đảm bảo được quyền lợi của các bên
tham gia trong các hoạt động có liên quan đến doanh nghiệp. Trước khi xem
xét đến giá trị doanh nghiệp, chúng ta cũng cần làm rõ những đặc điểm của
doanh nghiệp như sau:
a) Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế
Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn được đặt trong mối quan hệ chung
với các phần tử khác của nền kinh tế. Sự tồn tại đó không chỉ được quyết định
4
4
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
bởi các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp mà còn bởi các mối quan hệ
với các yếu tố bên ngoài như: khách hàng, nhà cung cấp, tổ chức tài chính,
pháp luật…Sự hoạt động của doanh nghiệp thực chất là sự thích ứng của nó
với môi trường hoạt động. Do vậy khi nhìn nhận doanh nghiệp cần thấy được
vị trí của nó trong nền kinh tế và quan trọng hơn là phải đánh giá được nó về
mặt tổ chức cũng như sự thích ứng của nó với môi trường.
b) Doanh nghiệp là một tổ chức, một thực thể hoặt động chứ không phải là các
tài sản rời rạc được tập hợp vào với nhau
Doanh nghiệp không phải là một kho hàng, doanh nghiệp không đơn
giản là tập hợp của những tài sản vô tri vô giác, giá trị sử dụng của chúng bị
giảm dần theo thời gian. Khi hoạt động, các tài sản trong doanh nghiệp gắn
kết lại với nhau để tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho doanh nghiệp. Chỉ khi
doanh nghiệp bị giải thể hay phá sản, những tài sản ấy mới được coi là những
tài sản đơn lẻ, rời rạc, người ta có thể đem bán nó như một loại hàng hóa
thông thường với mức giá thấp hơn rất nhiều giá trị thực của nó. Do vậy, giá
trị doanh nghiệp là một khái niệm chỉ được dùng cho những doanh nghiệp
đang hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
c) Doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt
Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập ra để thực hiện hoạt động
sản xuất kinh doanh chứ không phải là đối tượng để bán, tuy vậy giống như
các hàng hoá thông thường khác, doanh nghiệp cũng là đối tượng của các
giao dịch: mua bán, hợp nhất, chia nhỏ,… Quá trình hình thành giá cả và giá
trị đối với loại hàng hoá này cũng không nằm ngoài sự chi phối của các quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Nhưng doanh nghiệp là
một loại hàng hóa đặc biệt, bởi nó là một hệ thống phức tạp của nhiều yếu tố
cầu thành, ngoài việc được tạo nên bởi các tài sản hữu hình còn có các tài sản
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
5
vô hình như: lợi thế thương mại, thương hiệu…Hơn nữa, bản thân các yếu tố
tạo nên giá trị của doanh nghiệp luôn có sự thay đổi, luôn só sự tăng lên hay
giảm đi, có sự ra đời hay biến mất, chính vì vậy giá trị của một doanh nghiệp
cũng thay đổi theo thời gian và giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động.
d) Việc thành lập hay mua bán lại doanh nghiệp thực chất là nhằm tìm kiếm
thu nhập từ quyền sở hữu đối với doanh nghiệp đó
Con người muốn sở hữu doanh nghiệp là vì lợi nhuận. Việc sở hữu các
tài sản cố định tài sản lưu động hay sở hữu một bộ máy kinh doanh, chỉ là
cách thức, là phương tiện để đạt mục tiêu lợi nhuận mà thôi. Tiêu chuẩn để
nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động, quyết định bỏ vốn và đánh giá giá trị
doanh nghiệp là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà
đầu tư trong tương lai.
1.2 Định giá doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm về định giá doanh nghiệp
Giá trị (value) là một khái niệm kinh tế có liên quan đến giá cả, chủ yếu
do người mua và người bán xác định. Giá trị là mức giá dự tính sẽ phải trả đối
với hàng hoá hoặc dịch vụ tại một thời điểm nhất định.
Giá trị của doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền của các khỏan thu
nhập mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đẩu tư trong suốt quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để xác định được giá trị doanh nghiệp, có thể tiếp cận theo hai cách:
- Tiếp cận trực tiếp: Trực tiếp đánh giá các tài sản của doanh nghiệp, bao
gồm cả tài sản hữu hình, tài sản vô hình và định lượng giá trị các yếu tố
về tổ chức, danh tiếng, thị phần của doanh nghiệp.
6
6
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Tiếp cận gián tiếp: Đánh giá doanh nghiệp thông qua việc lượng hóa
các khoản thu nhập kỳ vọng mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà
đầu tư trong suốt thời gian hoạt động còn lại của doanh nghiệp.
Với hai cách tiếp cận như vậy, trên thế giới hiện nay có nhiều phương
pháp xác định giá trị doanh nghiệp khác nhau (sẽ được đề cập cụ thể ở phần
sau). Tuy nhiên kết quả xác định giá trị doanh nghiệp thường có sự chênh lệch
lớn thậm chí ngay cả khi sử dụng cùng một phương pháp vì kết quả đó phụ
thuộc rất lớn vào độ chính xác của các tham số tính toán. Do vậy mỗi phương
pháp đưa ra đều có những thích ứng đối với từng hoàn cảnh cụ thể của mỗi
doanh nghiệp và tẩm nhìn của nhà đầu tư. Không thể có một phương pháp
chung phù hợp cho mọi doanh nghiệp nên việc lựa chọn phương pháp nào đó
để áp dụng thống nhất cho mọi doanh nghiệp là điều khó thực hiện và sẽ nảy
sinh nhiều mâu thuẫn. Định giá là một môn khoa học có tính nghệ thuật ước
lượng cao chứ không hẳn là một khoa học chính xác. Kết quả xác định giá trị
doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của nhà thẩm định, điều
quan trọng là quá trình định giá phải thực hiện một cách thống nhất và kết quả
định giá sẽ được sử dụng một cách hữu ích nhất.
1.2.2 Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các
khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường.
a) Giá trị thị trường.
Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán
trên thị trường vào thời điểm thẩm định giá, giữa một bên là người mua sẵn
sàng mua và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua bán
khách quan và độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường:
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
7
+ “Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua
bán trên thị trường... ” là số tiền ước tính để tài sản có thể được mua, bán trên
thị trường trong điều kiện thương mại bình thường mà sự mua bán đó thoả
mãn những điều kiện của thị trường tại thời điểm thẩm định giá.
+ “vào thời điểm thẩm định giá...” là ngày, tháng, năm cụ thể khi tiến
hành thẩm định giá, được gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức
mua trên thị trường khi thực hiện thẩm định giá trị tài sản.
+ “giữa một bên là người mua sẵn sàng mua...” là người đang có khả
năng thanh toán và có nhu cầu mua tài sản được xác định giá trị thị trường.
+ “và một bên là người bán sẵn sàng bán...” là người bán đang có
quyền sở hữu tài sản (trừ đất), có quyền sử dụng đất có nhu cầu muốn bán tài
sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường.
+ “Điều kiện thương mại bình thường” là việc mua bán được tiến hành
khi các yếu tố cung, cầu, giá cả, sức mua không xảy ra những đột biến do chịu
tác động của thiên tai, địch họa; nền kinh tế không bị suy thoái hoặc phát triển
quá nóng…; thông tin về cung, cầu, giá cả tài sản được thể hiện công khai
trên thị trường.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá hình thành trên thị trường công khai
và cạnh tranh. Thị trường này có thể là thị trường trong nước hoặc thị trường
quốc tế, có thể bao gồm nhiều người mua, người bán hoặc bao gồm một số
lượng hạn chế người mua, người bán.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá ước tính mà trên cơ sở đó, bên bán
và bên mua thoả thuận tại một thời điểm sau khi cả hai bên đã khảo sát, cân
nhắc đầy đủ các cơ hội và lựa chọn tốt nhất cho mình từ các thông tin trên thị
trường trước khi đưa ra quyết định mua hoặc quyết định bán một cách hoàn
toàn tự nguyện, không nhiệt tình mua hoặc nhiệt tình bán quá mức.
8
8
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
b) Giá trị phi thị trường
Giá trị phi thị trường là số tiền ước tính của một tài sản dựa trên việc
đánh giá yếu tố chủ quan của giá trị nhiều hơn là dựa vào khả năng có thể
mua bán tài sản trên thị trường.
Cơ sở của việc đưa ra khái niệm giá trị phi thị trường cũng xuất phát
trực tiếp từ khái niệm giá trị tài sản: là biểu hiện bằng tiền về những lợi ích
mà tài sản mang lại cho chủ thể nào đó tại một thời điểm nhất định.
Sau đây một số khái niệm giá trị phi thị trường thường dùng:
- Giá trị còn lại (salvage value): là giá trị của tài sản (bao gồm cả đất
đai) không còn được tiếp tục sửa chữa hay sử dụng nữa. Giá trị này có thể
coi như giá trị ròng của chi phí dỡ bỏ. Trong mọi trường hợp, khi định giá
tài sản cần xác định rõ những bộ phận dỡ bỏ và những bộ phận còn lại của
tài sản.
- Giá trị tài sản bắt buộc phải bán (forcedsale value): là tổng số tiền
hợp lý có thể thu về từ bán tài sản trong phạm vị thời gian quá ngắn so với
thời gian trung bình cần có để giao dịch mua bán theo giá trị thị trường. Tại
một số nước, giá trị tài sản bắt buộc phải bán có thể liên quan đến tình
huống người bán tài sản chưa sẵn sàng bán và người mua tài sản biết rõ
việc chưa sẵn sàng bán đó.
- Giá trị đặc biệt (special value): là khái niệm có liên quan đến
những yếu tố đặc biệt có thể làm tăng giá trị tài sản lên vượt quá giá trị thị
trường. Giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi một tài sản này có thể gắn liền
với một tài sản khác về mặt kỹ thuật hoặc kinh tế mà sự liên kết đó chỉ thu
hút mối quan tâm đặc biệt của một số ít khách hàng mà không thu hút sự
quan tâm của nhiều người. Các yếu tố của giá trị đặc biệt có thể nảy sinh
khi xem xét yếu tố của giá trị tài sản đang quan tâm hoặc giá trị đầu tư.
Thẩm định viên phải phân biệt rõ ràng những thông số và nguyên nhân để
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
9
vận dụng các khái niệm giá trị thị trường nói trên thay vì sử dụng khái niệm
giá trị thị trường.
- Giá trị có thể bảo hiểm (insurable value): là giá trị của tài sản quy
định trong hợp đồng bảo hiểm.
- Giá trị có thể tính thuế (taxable value): là giá trị trong phạm vi luật
pháp liên quan đến việc thuê mướn hoặc thu thuế tài sản. Mặc dù một số
văn bản pháp quy trích
- Giá trị đầu tư (investment value): là giá trị của một tài sản đối với
một số nhà đầu tư áp dụng cho một dự án đầu tư nhất định. Khái niệm này liên
quan đến những tài sản riêng biệt với những nhà đầu tư riêng biệt. Không nên
nhầm lẫn giữa giá trị đầu tư và giá trị thị trường. Giá trị đầu tư của một tài sản
có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đó. Tuy nhiên giá trị
thị trường có thể phản ánh một số đánh giá cá nhân về giá trị đầu tư. Giá trị đầu
tư có liên quan đến giá trị đặc biệt
- Giá trị đang sử dụng (Value in use): là giá trị các tài sản khi nói
đang được một người cụ thể sử dụng cho một mục đích nhất định. Vì vậy,
tài sản đó không liên quan đến thị trường. Loại giá trị này đóng góp vào
một doanh nghiệp với tư cách là một bộ phận của tài sản doanh nghiệp,
không tính đến giá trị sử dụng tối ưu và tốt nhất của tài sản cũng như số
tiền mà tài sản đó mang lại khi nó được mang ra bán. Xét trên giác độ kế
toán, giá trị đang sử dụng là giá trị hiện tại của luồng tiền mặt ước tính có
thể mang lại trong tương lai kể từ khi bắt đầu sử dụng tài sản đến khi thanh
lý tài sản.
Giá trị doanh nghiệp đang hoạt động (going concern): là giá trị toàn
bộ của một doanh nghiệp. Khái niệm này liên quan đến định giá tài sản một
doanh nghiệp đang hoạt động mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh
10
10
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
nghiệp đó không thể tách rời và cũng không thể thẩm định trên cơ sở giá trị
thị trường.
1.2.3 Các nhân tố tác động tới giá trị doanh nghiệp
Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh
a) Môi trường kinh doanh tổng quát:
- Môi trường kinh tế: Bối cảnh kinh tế được nhìn nhận thông qua hàng
loạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá cả,
tỷ giá ngoại tệ, tỷ suất đầu tư,…Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất
như yếu tố khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị doanh nghiệp
lại là sự tác động trực tiếp, mỗi sự thay đổi nhỏ của yếu tố này bao giờ
cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về doanh nghiệp. Ví dụ: Chỉ số giá chứng
khoán phản ánh đúng quan hệ cung cầu, đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi
xuất có tính kích thích đầu tư sẽ trở thành cơ hội tốt cho doanh nghiệp mở
rộng quy mô sản xuất. Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, lạm phát phi mã là
biểu hiện môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang bị lung lay tận gốc.
- Môi trường chính trị: Sản xuất kinh doanh chỉ có thể tồn tại và phát
triển trong môi trường có sự ổn định về chính trị nhất định. Chiến tranh sắc
tộc, tôn giáo, sự lộng hành của Mafia và những yếu tố trật tự an toàn xã hội
khác bao giờ cũng tác động xấu đến mọi mặt đời sống xã hội chứ không
riêng gì với sản xuất kinh doanh.
Các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ như:
+ Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống pháp luật.
+ Quan điểm của nhà nước đối với sản xuất kinh doanh được thể hiện
thông qua các văn bản pháp quy như: luật cạnh tranh, sở hữu trí tuệ,…
- Môi trường văn hoá xã hội: Môi trường văn hoá được đặc trưng bởi
những quan niệm, những hệ tư tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức.
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
11
Thể hiện trong quan niệm về “chân, thiện, mỹ” quan niệm về nhân cách,
văn minh xã hội, thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng.
Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi,
mật độ, …..
- Môi trường khoa học công nghệ: Sự tác động của kỹ thuật - công nghệ
đang làm thay đổi một cách căn bản các điều kiện về quy trình công nghệ
và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Sản
phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng, phong phú, hàm lượng tri thức có
khuynh hướng chiếm ưu thế tuyệt đối trong giá bán sản phẩm.
Sự nhảy vọt của nền văn minh nhân loại không chỉ là cơ hội mà còn là
thách thức đối với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá về
doanh nghiệp phải chỉ ra được mức độ tác động của môi trường này đến sản
xuất kinh doanh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước những bước
phát triển mới của khoa học- công nghệ.
b) Môi trường đặc thù
- Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng: Thị trường đối với doanh
nghiệp thể hiện bằng yếu tố khách hàng, thông thường khách hàng sẽ chi
phối hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng cũng có trường hợp khách hàng
lại bị lệ thuộc vào khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Do vậy muốn đánh
giá đúng khả năng phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cần phải xác định tính chất, mức độ bền vững và uy tín của doanh
nghiệp trong quan hệ với khách hàng và đặc biệt là thị phần hiện tại, thị
phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ tiến triển của các chỉ tiêu đó qua
các chu kỳ kinh doanh.
- Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp: Doanh nghiệp thường
phải trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng hoá, nguyên vật
12
12
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
liệu, các dịch vụ điện, nước,… Tính ổn định đảm bảo cho sản xuất và tiêu
thụ được thực hiện theo đúng chỉ tiêu đã đề ra.
Để đánh giá khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào đảm bảo cho sản xuất kinh
doanh có thể ổn định phải xem xét đến: Sự phong phú của các nguồn cung
cấp, số lượng, chủng loại các nguyên liệu có thể thay thế được cho nhau, khả
năng đáp ứng lâu dài, tính kịp thời, chất lượng và giá cả.
- Các hãng cạnh tranh: Sự quyết liệt trong môi trường cạnh tranh được
coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, đánh
giá năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét 3 tiêu chuẩn: Giá cả, chất
lượng sản phẩm và dịch vụ hậu thương mại còn phải xác định được số
lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, năng lực thự sự và thế mạnh của
họ là gì.
- Các cơ quan Nhà nước: Sự hoạt động của doanh nghiệp luôn phải
được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước như: cơ
quan thuế, cơ quan thanh tra, các tổ chức công đoàn…Các tổ chức này có
bổn phận kiểm tra, giám sát, đảm bảo cho sự hoạt động của doanh nghiệp
không vượt ra khỏi những quy ước xã hội thể hiện trong luật thuế, luật môi
trường,…
Doanh nghiệp có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là những
doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với xã hội, như nộp thuế
đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động,… Đó cũng là biểu hiện của
những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh. Vì vậy, xác định sự tác
động của yếu tố môi trường đặc thù đến sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp còn cần phải xem xét chất lượng và thực trạng của doanh nghiệp với
các tổ chức đó.
Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
13
- Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp: Khi xác định giá trị doanh
nghiệp, bao giờ người ta cũng quan tâm ngay đến hiện trạng tài sản của
doanh nghiệp, vì 2 lý do chủ yếu:
Thứ nhất: Tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật chất
cần thiết, tối thiểu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất
lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loạ tài sản là yếu tố quyết
định đến số lượng và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra.
Thứ hai: Giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và
là một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị doanh nghiệp. Vì thay cho việc dự
báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ
lúc nào để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó.
Chính vì vậy, người ta thường đánh giá cao các phương pháp có liên
quan trực tiếp đến việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp.
- Vị trí kinh doanh: Được đặc trưng bởi các yếu tố như: địa điểm, diện
tích của doanh nghiệp và các chi nhánh thuộc doanh nghiệp, yếu tố địa
hình, thời tiết….
Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh.
Ví dụ: Những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ,
được đặt gần đô thị, các nơi đông dân cư, các trung tâm buôn bán lớn và
các đầu mối giao thông quan trọng có thể đem lại rất nhiều lợi thế cho
doanh nghiệp như: Chi phí vận chuyển, bảo quản, chi phí lưu kho, … Đồng
thời doanh nghiệp có những thuận lợi lớn để tiếp cận và nắm bắt nhanh
chóng nhu cầu, thị hiếu của thị trường, thực hiện tốt các dịch vụ hậu
thương mại… Tuy nhiên, với vị trí đó cũng có thể kéo theo sự gia tăng một
số khoản chi phí như thuê văn phòng giao dịch thuê lao động…
Vì vậy vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan
trọng hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá giá trị doanh nghiệp.
14
14
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Uy tín kinh doanh: Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng
về sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu
tố khác nhau từ bên trong doanh nghiệp, như: Do chất lượng sản phẩm cao,
do trình độ quản lý kinh doanh giỏi, …
Khi sản phẩm của doanh nghiệp đã được đánh giá cao trong con mắt
của khách hàng, thì uy tín trở thành một tài sản thực, chúng có giá và người
ta gọi đó là giá trị của nhãn mác. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có
thể mua bán quyền dán nhãn mác sản phẩm, quyền dán nhãn mác nhiều khi
được đánh giá rất cao. Vì vậy, uy tín của doanh nghiệp được đông đảo các
nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên giá trị
doanh nghiệp.
- Trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động: Đây là một yếu tố có ý
nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể
làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh do việc sử dụng hợp lý nguyên
liệu… trong quá trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng, góp
phần nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp.
Đánh giá về trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động không chỉ
xem ở bằng cấp, bậc thợ mà điều quan trọng là hàm lượng tri thức có trong
mỗi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Vì vậy đây cũng được coi là
một yếu tố nội tại quyết định đến giá trị của doanh nghiệp.
- Năng lực quản trị kinh doanh: Trong điều kiện hiện nay, một doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý sản
xuất kinh doanh đủ mạnh giúp để có thể sự dụng tốt nhất các nguồn lực cho
quá trình sản xuất, biết tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội nảy sinh, ứng phó
một cách linh hoạt với những biến động của môi trường. Vì lý do đó, năng
lực quản trị kinh doanh luôn được nhắc tới như một yếu tố đặc biệt quan
trọng tác động tới giá trị doanh nghiệp.
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
15
Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là định
lượng. Vì vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới tác động của môi
trường. Ngoài ra năng lực quản trị kinh doanh tổng hợp còn được thể hiện
thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp. Do đó, thực hiện phân
tích một cách toàn diện tình hình tài chính trong những năm gần với thời điểm
định giá cũng có thể cho phép rút ra những kết luận quan trọng về năng lực
quản trị và sự tác động của nó đến giá trị doanh nghiệp.
1.2.4. Sự cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị doanh
nghiệp là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ mô cũng
như hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin về giá trị doanh
nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân
có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp đến các doanh nghiệp được đánh giá. Sự
cần thiết của định giá trị doanh nghiệp được xuất phát từ các yêu cầu quản lý
và các giao dịch:
a) Đối với bản thân doanh nghiệp được định giá
- Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu
từ những năm 90 và đã cho những kết quả tương đối tốt, không ít các doanh
nghiệp sau khi cổ phần hóa đã đi vào làm ăn hiệu quả, kinh doanh có lãi, vai
trò của người lao động được nâng lên, quy mô sản xuất được mở rộng. Tính
hiệu quả của hoạt động này đã phát huy rất rõ và tiến trình đẩy nhanh cổ phần
hóa ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, vấn đề xác định giá trị
phần vốn góp nhà nước tại doanh nghiệp hiện vẫn đang còn nhiều tranh cãi và
là bước cản lớn nhất trong cả tiến trình, do đó, việc nâng cao chất lượng công
tác định giá sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động cổ phần hóa diễn ra
được nhanh chóng hơn.
16
16
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán,
sáp nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ các doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch
diễn ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản
ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho
sự tăng trưởng và phát triển bằng các yếu tố bên ngoài, nhằm tăng cường khả
năng tồn tại trong môi trường tự do cạnh tranh. Để thực hiện các giao dịch đó,
đòi hỏi phải có sự đánh giá trên một phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động tới
doanh nghiệp, trong đó giá trị doanh nghiệp là một yếu tố có tính chất quyết
định, là căn cứ trực tiếp để người ta thương thuyết với nhau trong tiến trình
giao dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ doanh nghiệp.
- Định giá doanh nghiệp để vay ngân hàng: Nhu cầu mở rộng đầu
tư,mua sắm mới các trang thiết bị và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay là rất lớn. Để có được
nguồn vốn tài trợ cho các nhu cầu đó, doanh nghiệp thường tìm đến các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng để vay. Tuy nhiên một đòi hỏi tất yếu là khoản tiền
cho vay cần được đảm bảo bởi chính tài sản của doanh nghiệp. Từ đó nảy sinh
nhu cầu định giá tài sản, định giá giá trị doanh nghiệp để làm cơ sỏ cho việc
vay vốn của ngân hàng.
b) Đối với các nhà quản trị
Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng để các nhà quản trị
phân tích, đánh giá trước khi ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có
liên quan đến doanh nghiệp được đánh giá. Nội dung cơ bản của quản trị tài
chính doanh nghiệp, xét cho cùng là phải tăng giá trị doanh nghiệp. Giá trị
doanh nghiệp là sự phản ánh năng lực tổng hợp, phản ánh khả năng tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đây các nhà quản trị kinh
doanh có thể thấy được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình, khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp khác. Theo đó, giá trị doanh nghiệp là một
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
17
căn cứ thích hợp, là cơ sở để đưa ra các quyết định về kinh doanh, về tài
chính… một cách đúng đắn.
c) Đối với các nhà đầu tư
Trong cách nhìn của các nhà đầu tư, của người cung cấp, thông tin về
giá trị doanh nghiệp cho người ta một sự đánh giá tổng quát về uy tín kinh
doanh, về khả năng tài chính và vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra các
quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc có tiếp tục cấp tín dụng cho doanh nghiệp
nữa hay không.
d) Đối với nền kinh tế nói chung
Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế
vĩ mô: Giá cả của các loại chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của
doanh nghiệp có chứng khoán được trao đổi, mua bán trên thị trường. Vì vậy,
trên phương diện quản lý nền kinh tế vĩ mô, thông tin về giá trị doanh nghiệp
là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức, các
hiệp hội kinh doanh chứng khoán đánh giá tính ổn định của thị trường, nhận
dạng hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường, thâu tóm quyền kiểm soát
doanh nghiệp … để từ đó có thể đưa ra các chính sách điều tiết thị trường một
các phù hợp.
Có thể nói, các hoạt động quản lý và những giao dịch kinh tế thông
thường trong cơ chế thị trường đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải xác định giá trị
doanh nghiệp. Chúng là mối quan tâm của 3 loại chủ thể, đó là: Nhà nước,
nhà đầu tư và nhà quản trị doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp vì vậy là một
đòi hỏi tất yếu đối với các quốc gia muốn xây dựng và phát triển kinh tế theo
cơ chế thị trường. Đối với Việt Nam, nền kinh tế mới được chuyển đổi từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, những nỗ lực cải cách nền
kinh tế đã được thế giới công nhận và đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), thì nhu cầu xác định giá trị doanh nghiệp và xác định giá trị
18
18
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
doanh nghiệp như thế nào càng trở nên cấp thiết vì trong quá trình chuyển đổi
cơ chế quản lý kinh tế, xác định giá trị doanh nghiệp còn là một bước đi quan
trọng để các quốc gia tiến hành cải cách doanh nghiệp Nhà nước, như: cổ
phần hoá, sát nhập, hợp nhất hay giao, bán, khoán và cho thuê nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này để đủ sức đứng vững và
phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang hội nhập một cách mạnh
mẽ, sức ép cạnh tranh ngày càng lớn.
1.2.5 Chất lượng công tác định giá và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng
công tác định giá.
a) Chất lượng công tác định giá
Chất lượng là một khái niệm mang tính trừu tượng và chủ quan của
người đánh giá nhất là đối tượng của việc đánh giá lại là một công việc, một
hoạt động cụ thểlại càng khó hơn. Tuy nhiên do tầm quan trọng của công tác
định giá mà người ta cần phải đánh giá được chất lượng của công tác này.
Công tác định giá doanh nghiệp được coi là có chất lượng khi mà giá xác định
luôn bám sát với giá thị trường, thực hiện theo đúng quy trình, dựa trên một
phương pháp định giá khoa học và đảm bảo được đúng mục tiêu, yêu cầu của
các chủ thể tham gia với thời gian,chi phí thấp nhất.
b) Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng công tác định giá.
Công tác định giá phải đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu và yêu cầu
của các chủ thể tham gia.
Như đã trình bày ở trên, công tác định giá luôn thu hút sự quan tâm của
3 loại chủ thể: Nhà nước, nhà đầu tư và Nhà quản trị. Mục tiêu của mỗi chủ
thể tham gia không giống nhau, thậm chí có những sự đối lập. Nhà quản trị
luôn mong muốn được định giá cao trong khi các nhà đầu tư lại mong muốn
định giá càng thấp càng tốt. Mâu thuẫn này cần được dung hòa để đi đến
thống nhất chung, tổ chức định giá phải là người trung gian đứng ra làm trọng
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
19
tài. Vì thế giá trị doanh nghiệp sẽ được định giá một cách khách quan và
thống nhất các mục đích riêng của các chủ thể tham gia.
Công tác định giá được thực hiện theo đúng quy trình
Công tác định giá là một công việc hết sức phức tạp và nhiều công
đoạn, mỗi công đoạn lại đòi hỏi nhiều kỹ thuật xử lý thông tin rất cao. Do vậy
để đảm bảo chất lượng của công tác này việc thực hiện theo đúng quy trình là
một yêu cầu tất yếu. Các bước công việc cần được thực hiện tuần tự và phải
tuân thủ theo nguyên tắc chung đặt ra như vậy công việc định giá sẽ được
thực hiện nhanh chóng, tránh thiếu sót và bám sát với kế hoạch đã định.
Công tác định giá dựa trên phương pháp định giá linh hoạt và khoa học
Đối với bất cứ hoạt động nào, nếu không có một phương pháp khoa học
thì hiệu quả của công việc sẽ không đạt được như ý muốn thậm chí còn gây
thiệt hại. Đối với công tác định giá cũng vậy, định giá doanh nghiệp bằng các
phương pháp khác nhau sẽ cho các kết quả khác nhau. Vì vậy, việc áp dụng
phương pháp nào cần phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn. Đó
chính là tính khoa học của phương pháp định giá được áp dụng.
Công tác định giá phải bám sát với giá thị trường
Các chuyên gia kinh tế nhận định rằng, định giá doanh nghiệp là hoạt
động khoa học có tính tổng hợp và khả năng dự đoán cao vì quá trình định giá
doanh nghiệp không chỉ căn cứ vào các thông tin hiện có của doanh nghiệp,
cung cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, lợi thế kinh doanh
của doanh nghiệp, giá trị các tài sản tương đương với tài sản của doanh
nghiệp, nhu cầu mua, bán về loại hình doanh nghiệp đang định giá…Gía trị
doanh nghiệp không thể tự xác định được nếu không gắn nó với thị trường,
chỉ có thông qua thị trường, giá trị các tài sản của doanh nghiệp mới phản ánh
một cách chính xác và khách quan. Chính vì vậy đòi hỏi các chuyên gia định
20
20
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
giá phải phải nắm vững kỹ thuật và đặc biệt là phải luôn gắn yếu tố thị trường
vào khi định giá.
Công tác định giá phải đảm bảo tốn ít thời gian và chi phí nhất.
Chất lượng của công tác định giá doanh nghiệp không thể coi là tốt khi
mà tiêu chí về thời gian và chi phí không được đảm bảo. Trong nền kinh tế thị
trường, các chủ thể tham gia luôn có sự cạnh tranh, các cơ hội kinh doanh
xuất hiện bất thường, nếu hoạt động định giá diễn ra trong thời gian quá dài sẽ
làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển kinh doanh của doanh
nghiệp. Hơn nữa giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động, bản thân các
yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp luôn có sự thay đổi theo biến động của thị
trường, giá trị của chúng luôn có sự tăng lên hoặc giảm đi và có sự ra đời
hoặc mất đi của một vài yếu tố nào đó. Vì vậy khi công tác định giá kéo dài
thí các yếu tố tạo nên giá trị doanh nghiệp cũng sẽ bị biến động, điều này dẫn
đến giá trị doanh nghiệp có nguy cơ bị đánh giá sai.
Xét về mặt chi phí, chúng ta khẳng định được rằng chất lượng của công
tác định giá không thể xem là cao khi mà chi phí bỏ ra để thực hiện quá cao.
Chi phí định giá dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng là khoản phí mà doanh
nghiệp phải gánh chịu vì vậy nếu công tác định giá đảm bảo được ở mức thấp
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp sau cuộc định giá.
1.2.6 Các phương pháp định giá và phạm vi ứng dụng của các phương
pháp đó.
a) Phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF).
* Cơ sở lý luận:
“Đầu tư” là khái niệm được dùng để chỉ hoạt đông bỏ vốn nhằm đạt
đến khả năng có thể thâu tóm quyền kiểm soát doanh nghiệp. Nói cách khác,
đó là hoạt động bỏ vốn đầu tư có tính chất đa số, chẳng hạn như mua một số
lượng chứng khoán nào đó nhằm trông đợi vào khoản thu nhập do sự tăng giá
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
21
chứng khoán và lợi tức cổ phần. Thu nhập đưa lại cho “ nhà đầu tư thiểu số”
có tính thụ động.
Phương pháp hiện tại hoá dòng tiền thuần là một phương pháp xác định
giá trị doanh nghiệp dựa trên quan điểm đánh giá của nhà đầu tư đa số. Trong
cách nhìn nhận của những người này thì quan niệm về giá trị doanh nghiệp có
những điểm khác căn bản so với các phương pháp khác, vì:
- Đối với nhà đầu tư đa số, việc bỏ tiền ra mua doanh nghiệp không
phải nhằm để trông đợi một cách thụ động có tính chất may rủi về những
khoản lợi tức cổ phần mà doanh nghiệp “ có thể” sẽ trả trong tương lai. Theo
quan điểm của nhà đầu tư đa số, mua doanh nghiệp giống như việc đổi lấy
một dự án đang được triển khai, giống như việc đổi lấy một cơ hội, để theo đó
nhà đầu tư sau khi nắm quyền kiểm soát còn có thể điều khiển dự án- doanh
nghiệp, hoạt động theo những dự định, những ý tưởng và sự tính toán của
riêng mình.
- Đối với nhà đầu tư, quá trình SXKD là một quá trình phát sinh các
dòng tiền vào và các dòng tiền ra ( xem sơ đồ 1.1):
Sơ đồ 1.1: Biểu diễn các dòng tiền của dự án đầu tư.
Nhà đầu tư luôn đánh giá mọi việc trên cơ sở các dòng tiền. Họ chỉ
quyết định mua doanh nghiệp trên cơ sở xem xét và đánh giá doanh nghiệp
theo tiêu chuẩn hiệu quả của dự án đầu tư. Tức là, người ta còn phải xem xét,
cân nhắc đến số lượng vốn phải tiếp tục bỏ ra trong tương lai, độ lớn của các
khoản thu nhập có thể đạt được. Và đặc biệt, trên quan điểm thời giá của tiền
tệ và đầu tư là hoạt động bỏ vốn với số lượng lớn, trong một khoảng thời gian
dài, cho nên, yếu tố mà người ta không thể bỏ qua là thời điểm phát sinh các
dòng tiền đó.
22
22
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
Do vậy, giá trị hiện tại của dòng tiền thuần mà việc đầu tư vào doanh
nghiệp cả ở thời điểm hiện tại và tương lai đem lại cho đầu tư là tiêu chuẩn
thích hợp để xác định giá trị doanh nghiệp.
* Phương pháp xác định:
Phương pháp chiết khấu dòng tiền thuần cũng được xây dựng dựa trên công
thức tổng quát (1.2). Nhưng điểm khác biệt căn bản đối với các phương pháp
hiện tại hoá lợi nhuận thuần và phương pháp hiện tại hoá lợi tức cổ phần là ở
chỗ: Các phương khoản thu nhập trong tương lai được thay thế bằng dòng tiền
thuần của dự án đầu tư vào doanh nghiệp:
-
Để dễ dàng phân biệt các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp, người
ta xây dựng công thức tổng quát (1.3) như sau:
Trong đó:
+ V
o
: Giá trị doanh nghiệp.
+ CF
t
: thu nhập thuần năm thứ t
+ V
n
: Giá trị doanh nghiệp ở cuối kỳ đầu tư ( năm thứ n)
+ i: Tỷ suất hiện tại hoá.
Việc xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp này thường được
chia ra thành các bước cơ bản sau:
- Bước 1: Thực hiện dự báo dài hạn về dòng tiền vào và dòng tiền ra có
thể phát sinh trong tương lai, bao gồm:
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
23
+ Dự báo về doanh thu, chi phí vận hành, các khoản vốn đầu tư bổ sung
và các khoản vốn rút ra khỏi quá trình luân chuyển trong từng năm.
+ Dự báo chu kỳ đầu tư ( n) và giá trị doanh nghiệp ở thời điểm cuối
của chu kỳ đó (V
n
). Thông thường thời điểm cuối của chu kỳ đầu tư được xác
định khi mà các số liệu dự báo trong tương lai xa không còn đủ độ tin cậy ở
mức độ cần thiết.
- Bước 2: Xác định tỷ suất chiết khấu dòng tiền.
Tỷ suất chiết khấu được lựa chọn trên nguyên tắc vừa thể hiện được
yếu tố thời giá của tiền tệ vừa tính đến yếu tố rủi ro. Đối với phương pháp
này, thường người ta tìm cách dự tính chi phí sử dụng vốn bình quân- phản
ánh chi phí cơ hội đầu tư vốn vào doanh nghiệp.
- Bước 3: Xác định giá trị hiện tại của dòng tiền thuần theo tỷ suất chiết
khấu nói trên để tìm ra giá trị doanh nghiệp.
* Ưu điểm:
- Doanh nghiệp coi như một dự án đầu tư đang triển khai, mỗi nhà đầu
tư nhìn nhận tương lai của dư án này khác nhau.
- Giá trị doanh nghiệp là mức giá cao nhất nhà đầu tư có thể bỏ thầu.
- Quan niệm về dòng tiền tránh được việc điều chỉnh số liệu kế toán sao
cho có thể phản ánh đúng thời điểm phát sinh các khoản tiền.
* Nhược điểm:
- Khó khăn trong khi dự báo các tham số : i, n…
- Đối với các doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh hoặc có
chiến lược kinh doanh không rõ ràng khó áp dụng phương pháp này.
- Đòi hỏi phải có một lượng thông tin lớn.
b) Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức (DDM)
- Giá trị doanh nghiệp (đối với chủ sở hữu) bằng tổng giá trị các loại cổ
phiếu mà doanh nghiệp đã phát hành.
24
24
Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa Tài chính – Ngân hàng
- Giá trị doanh nghiệp (tổng thể) bằng tổng giá trị các loại cổ phiếu
cộng giá trị của các trái phiếu mà doanh nghiệp đang lưu hành và giá trị các
khoản nợ khác.
* Phương pháp xác định:
Công thức tổng quát xác định giá trị thực của các loại chứng khoán như sau:
Trong đó:
+ Vo: Giá trị doanh nghiệp;
+ Rt: Thu nhập từ chứng khoán năm t;
+ i: Tỷ suất hiện tại hoá;
+ n: Số năm nhận được thu nhập.
- Xác định giá trị thực của trái phiếu: Nếu lợi tức trái phiếu giữ ổn định
hàng năm và bằng R, ta được:
Trong đó:
+ Pn: Mệnh giá trái phiếu phải trả vào năm thứ n.
- Xác định giá trị thực của cổ phiếu
+ Giả định 1: Doanh nghiệp có thể chi trả lưọi tức cổ phần một cách ổn
định hàng năm. Tức là mức lợi tức trong tương lai luôn là một hằng số D và
Cho t
→
+
∞
, ta có:
Trong đó:
+ Dt: Cổ tức năm t;
+ D: Cổ tức trung bình một năm.
+ Giả định 2: Cổ tức chi trả hàng năm tăng một cách đều đặn theo một
tỷ lệ ổn định là g ( với g < i), ta có:
Sinh viên: Bùi Thị Miền T i cà hính doanh nghiệp 46B
25