Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

QLNN về đào tạo sau đại học trong các trường đại học y tại khu vực đồng bằng sông Hồng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.13 KB, 123 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ ĐÀO TẠO SAO ĐẠI HỌC TRONG
CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y TẠI KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG
HỒNG Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG

Hà Nội – Năm 2009


2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển giáo dục luôn gắn với lịch sử phát triển loài người,
mục tiêu của bất cứ một nền giáo dục nào cũng là đào tạo nên những con
người có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Ngày
nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, xem giáo
dục là quốc sách hàng đầu, mục tiêu của giáo dục là: Đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đáp ứng được những yêu cầu mà xã
hội đòi hỏi ở mỗi con người mới, một trong những yếu tố quan trọng cấu
thành nên nó, đó là nâng cao chất lượng giáo dục. Để nâng cao chất lược giáo
dục thì quản lý nhà nước (QLNN) đối với giáo dục hơn bao giờ hết cần phải
thể hiện rõ vai trò của mình.
Sự phát triển của nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa đã có tác động


đến giáo dục đào tạo (GD&ĐT) trong đó có đào tạo sau đại học (ĐTSĐH) của
nhiều quốc gia. Nhiều nước đang tiến hành cải cách ĐTSĐH, đưa chiến lược
ĐTSĐH trong chiến lược phát triển quốc gia. Khi nền kinh tế và xã hội phát
triển, phức tạp và quốc tế hóa, ĐTSĐH càng phải đáp ứng nhu cầu đa dạng
hơn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát
triển nguồn nhân lực (NNL).
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 xác định mục tiêu,
giải pháp và các bước đi cần thiết nhằm xây dựng một nền giáo dục có tính
thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng: “chú
trọng xây dựng các cơ sở giáo dục tiên tiến, trọng điểm, chất lượng cao để đào
tạo bồi dưỡng các tài năng, nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế xã hội”.


3
Cùng với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn 2030 đã nêu rõ:
“Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực y tế cả về số lượng và chất lượng, phát
triển nhân lực y tế có trình độ cao nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của ngành Y tế;
tăng cường nhân lực y tế cho khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa
và một số chuyên khoa (cận lâm sàng, y tế dự phòng, nhi, truyền thông và tư
vấn sức khỏe…). Bảo đảm cân đối giữa đào tạo và sử dụng cán bộ y tế”.
Để đạt được mục tiêu đó, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
ngành Y tế là một yêu cầu khách quan, cấp thiết đảm bảo nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe (CSSK) nhân dân. Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao lại phụ thuộc vào chất lượng đào tạo ở bậc đại học và sau đại
học, đặc biệt là đào tạo SĐH – bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân,
đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra đội ngũ lao động có trình độ cao,
thích ứng với sự đòi hỏi của nền kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hóa
trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Có thể nói đào tạo SĐH tạo ra
một lực lượng lao động tối ưu, lực lượng đóng vai trò quyết định trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đồng bằng sông Hồng là nơi hội tụ nhiều các trường đại học, cao đẳng,
trong đó có các trường đại học y được đào tạo SĐH: Trường Đại học Y Hà
Nội, Học viện Quân Y, Trường Đại học Y Thái Bình, Trường Đại học Y Hải
Phòng, Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên. So với đồng bằng sông Cửu
Long, thì đồng bằng sông Hồng có vị trí địa lí và tài nguyên thiên nhiên thuận
lợi. Sự thuận lợi về vị trí và sự đa dạng, phong phú về tài nguyên thiên nhiên
nước ta (đất, khí hậu, nước, sinh vật, khoáng sản) là một thuận lợi cơ bản, là
nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Là nơi có nguồn lực tự
nhiên rất cơ bản và quan trọng cho quá trình phát triển.
Lịch sử của hệ thống đào tạo sau đại học ngành Y xuất hiện trước hệ
thống ĐTSĐH giáo dục quốc dân, bao gồm đào tạo bác sĩ nội trú (BSNT),
chuyên khoa cấp I (CKI) và chuyên khoa cấp II (CKII), bồi dưỡng sau đại


4
học. Trải qua gần 40 năm ĐTSĐH ngành Y (Đào tạo BSNT khóa đầu tiên
năm 1974 của Trường Đại học Y Hà Nội), nước ta đã tạo ra một đội ngũ cán
bộ khoa học đông đảo, có trình độ tri thức cao, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp phát triển ngành Y tế nói riêng và cũng như phát triển của đất nước
trong thời kỳ hội nhập về kinh tế - xã hội. Bên cạnh những kết quả đã đạt
được, quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học ngành Y trong thời gian qua
còn nhiều hạn chế như: Văn bản về chế độ thu hút, đãi ngộ đối với giảng viên
và học viên sau SĐH; tổ chức bộ máy; giáo trình, tài liệu tham khảo; kinh phí;
vấn đề phân cấp quản lý…
Trước thực tiễn đó, việc nghiên cứu một cách hệ thống về đào tạo
BSNT nhằm hướng tới những hiểu biết đầy đủ hơn, cung cấp cơ sở cho việc
hoạch định các chính sách, giải pháp liên quan là một nội dung có tính cấp
thiết về cả lý luận và thực tiễn. Đó chính là các lý do tác giả lựa chọn đề tài:
“Quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học trong các trường đại học y tại

khu vực đồng bằng sông Hồng ở nước ta hiện nay” cho Luận văn tốt nghiệp
chương trình đào tạo Thạc sĩ Quản lý hành chính công. Luận văn không chỉ
có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn hiện nay ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục và đào tạo giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi
quốc gia, do vậy, QLNN về ĐTSĐH đã thu hút được sự quan tâm và khai thác
sâu trong nhiều nghiên cứu có tính học thuật và ứng dụng. Có thể kể đến các
công trình sau:
- Nguyễn Minh Lợi (2003), Nâng cao quản lý chương trình, nội dung
đào tạo cán bộ y tế từ thực tiễn tại Trường Đại học Y Hà Nội, Luận văn Thạc
sĩ Quản lý hành chính công.
Mục đích nghiên cứu: Phân tích thực trạng công tác quản lý chương
trình, nội dung đào tạo cán bộ y tế bậc đại học từ thực tiễn tại một trường
trọng điểm quốc gia là Trường Đại học Y Hà Nội. Đề ra các giải pháp, kiến
nghị, góp phần nâng cao quản lý chương trình, nội dung đào tạo bậc đại học


5
Trường Đại học Y Hà Nội, từ đó có những kiến nghị về công tác quản lý
chương trình, nội dung đào tạo cán bộ y tế.
- Trần Quang Trung (2007), Hoàn thiện nội dung QLNN về giáo dục
đại học ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công.
Mục đích nghiên cứu: Luận văn góp phần tổng kết, phát hiện những lỗ
hổng, sự bất cập của những chồng chéo trong QLNN đối với giáo dục đại học;
làm rõ thêm nội dung QLNN về giáo dục; vai trò QLNN tác động đến chất
lượng giáo dục đại học; việc phân cấp quản lý cho các cơ sở đào tạo….cũng
như bổ sung cho cơ sở lý luận, luận cứ khoa học hành chính công. Luận văn
đề xuất các giải pháp đổi mới QLNN đối với giáo dục đại học góp phần hoàn
thiện QLNN, nâng cao chất lượng đào tạo đại học ở nước ta.
- Nguyễn Thị Lan Hương (2010), QLNN về giáo dục đại học từ thực

tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận và pháp luật về giáo dục đại
học, phân tích thực trạng QLNN đối với giáo dục đại học tại Tp. Hồ Chí Minh
để đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao QLNN trên lĩnh vực này,
từ đó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả QLNN đối với giáo dục đại học
trong phạm vi cả nước.
- Trần Thị Bích Hoà (2011), QLNN về đào tạo nguồn nhân lực sau đại
học ngành Y từ thực tiễn Trường Đại học Y Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Quản
lý hành chính công.
Mục đích nghiên cứu: Phân tích, đánh giá thực trạng của công tác
QLNN về đào tạo, nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế trong công tác
đào tạo cán bộ y tế trình độ SĐH ở Trường Đại học Y Hà Nội - một trong
những trường trọng điểm quốc gia. Xây dựng cơ sở lý luận cho công tác quản
lý đào tạo SĐH, tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN về đào tạo
nguồn nhân lực SĐH ngành Y tế từ thực tiễn tại Trường Đại học Y Hà Nội, từ
đó có những kiến nghị về QLNN đối với chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ


6
ngành Y tế có năng lực, trình độ chuyên môn cao đáp ứng nhu cầu chăm sóc
sức khỏe nhân dân.
Đã có không ít bài báo viết về giáo dục đào tạo đại học, sau đại học y
tế, từ các góc độ, phương diện khác nhau.
Tuy nhiên, các đề tài trên chưa đi sâu nghiên cứu ĐTSĐH trong các
trường đại học y tại khu vực đồng bằng sông Hồng dưới góc độ quản lý nhà
nước vì vậy đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu việc hoàn thiện nội dung quản
lý nhà nước đối với ĐTSĐH trong các trường đại học y tại khu vực đồng bằng
sông Hồng, do vậy đề tài không có sự trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu

Góp phần nâng cao chất lượng QLNN về ĐTSĐH trong các trường đại
học y tại khu vực đồng bằng sông Hồng ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và phát triển cơ sở lý luận QLNN về đào tạo SĐH trong
lĩnh vực Y.
- Phân tích thực trạng QLNN về ĐTSĐH trong các trường đại học y tại
khu vực đồng bằng sông Hồng từ năm 2008 đến nay; đánh giá những kết quả
đạt được, những tồn tại và đưa ra nguyên nhân.
- Xác lập các quan điểm và đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện
QLNN về ĐTSĐH trong các trường đại học y tại khu vực đồng bằng sông
Hồng ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là QLNN về ĐTSĐH trong các trường
đại học y tại khu vực đồng bằng sông Hồng.
4.2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Trong lĩnh vực đào tạo y có rất nhiều trường ĐTSĐH. Trong khuôn
khổ đề tài luận văn này chỉ nghiên cứu QLNN về ĐTSĐH trong các trường


7
đại học y tại khu vực đồng bằng sông Hồng ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu QLNN về ĐTSĐH của: Trường Đại học Y
Hà Nội, Trường Đại học Y Thái Bình, Trường Đại học Y Hải Phòng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu, phân tích dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
5.2. Phương pháp cụ thể
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận văn vận dụng kết hợp một

số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp khảo cứu tài liệu;
- Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu;
- Phương pháp tổng hợp, rút ra kết luận.
6. Những đóng góp của đề tài
- Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu QLNN về ĐTSĐH trong các
trường đại học y tại khu vực đồng bằng sông Hồng ở Việt Nam tiến tới hoàn
thiện QLNN về đào tạo SĐH góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng đào
tạo hiện nay, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phát triển và hội nhập quốc tế.
- Về chính sách: Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng tham khảo
cho hoạch định các chính sách, quy định liên quan của Bộ Y tế, Bộ Giáo dục
và Đào tạo và các trường đại học y.
- Về thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho thực tiễn QLNN về ĐTSĐH trong các trường đại học y tại khu vực đồng
bằng sông Hồng nói riêng, ĐTSĐH các trường đại học y trong phạm vi cả
nước nói chung.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung
chính của Luận văn được kết cấu thành 3 chương:


8
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học ngành
Y tế
Chƣơng 2. Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học trong các
trường đại học y tại khu vực đồng bằng sông Hồng nước ta từ năm 2008 đến nay
Chƣơng 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về
đào tạo sau đại học trong các trường đại học y tại khu vực đồng bằng sông
Hồng ở nước ta hiện nay



9
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC NGÀNH Y TẾ
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Khái niệm giáo dục - đào tạo và giáo dục y học
1.1.1.1. Khái niệm giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) đóng vai trò chủ yếu trong việc giữ
gìn, phát triển và truyền bá nền văn minh nhân loại. Trong thời đại của cuộc
cách mạng khoa học, công nghệ hiện nay, tiềm năng trí tuệ trở thành động
lực chính của sự tăng tốc phát triển và GD

&ĐT được coi là nhân tố quyết

định sự thành bại của mỗi quốc gia trên trường quốc tế và sự thành đạt của
mỗi con người trong cuộc sống của mình . Chính vì vậy , Chính phủ và nhân
dân các nước đánh giá cao vai trò của giáo dục.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là truyền
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có
giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc,
nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó không ngừng tiến lên.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm về giáo dục. Theo từ điển tiếng Việt,
2005, Nxb Thống kê: “Giáo dục nghĩa là tác động có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm
chất và năng lực nhất định. Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở thành người
có sự hiểu biết, có khả năng thực hành nghề nghiệp”.
Có thể hiểu “Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn liên quan trực
tiếp đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân, mọi tổ chức kinh
tế - xã hội, đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh

hay chậm của một quốc gia. Giáo dục phải đi trước một bước, giáo dục là
quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Do vậy,
bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù


10
phát triển hay đang phát triển, bao giờ cũng phải quan tâm đến giáo dục, mà
trong đó khâu quan trọng nhất là quản lý giáo dục, trước hết là QLNN về
giáo dục. Vì thông qua QLNN về giáo dục, việc thực hiện các chủ trương,
chính sách giáo dục quốc gia mới đạt hiệu quả, hiệu quả đầu tư cho giáo dục,
thực hiện các mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục …mới được
triển khai, thực hiện có hiệu quả. QLNN về giáo dục có thể được coi là khâu
then chốt của then chốt nhằm đảm bảo sự thắng lợi của mọi hoạt động giáo
dục” [30,45].
Khái niệm giáo dục bao gồm tất cả những thành tố tạo nên hệ thống
giáo dục, tham gia quá trình giáo dục, thực hiện chức năng giáo dục và tiến
hành các hoạt động giáo dục. Đó là nguồn lực vật chất của giáo dục, nhà
giáo, người học và việc học tập của họ, nhà quản lý giáo dục các cấp và hoạt
động, năng lực chuyên môn, các giá trị và phương tiện khoa học kỹ thuật,
kinh tế, văn hóa, thông tin, các quan hệ giáo dục, trường lớp, các nhà nghiên
cứu giáo dục, các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng.
Như vậy, giáo dục hiểu theo nghĩa rộng gồm cả giáo dục phổ thông và
giáo dục chuyên nghiệp, là quá trình truyền đạt những kinh nghiệm xã hội –
lịch sử chuẩn bị cho thế hệ trẻ trở thành lực lượng tiếp nối sự phát triển xã
hội, kế thừa và phát triển văn hoá của loài người và của dân tộc. Giáo dục
diễn ra thường xuyên, liên tục ở mọi môi trường hoạt động của con người;
gia đình, nhà trường, nơi làm việc và ngoài xã hội. Trong đó môi trường nhà
trường có vai trò quyết định đối với sự phát triển trí tuệ, tri thức và tay nghề.
Nhân cách chính là kết quả của giáo dục hiểu theo nghĩa rộng.
Đào tạo có nghĩa hẹp hơn giáo dục. Đào tạo thường đề cập đến giai

đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có trình độ nhất
định. “Có nhiều hình thức đào tạo: đào tạo cơ bản, đào tạo chuyên sâu, đào
tạo chuyên môn, đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa…” [10]
Đào tạo là “Quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho con
người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ


11
thống nhằm chuẩn bị cho con người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng
nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần vào sự phát triển của
xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh loài người. Về cơ bản, đào tạo là
giảng dạy và học tập ở nhà trường gắn liền với việc giáo dục đạo đức và
nhân cách”.
Đào tạo là hoạt động có mục đích, kế hoạch, tổ chức, mục đích cao
nhất là để đối tượng trở thành những người có năng lực theo yêu cầu nhất
định, tạo điều kiện cho họ có thể hành nghề hiệu quả.
Giáo dục và đào tạo được coi là lâu đài khoa học, trí tuệ con người
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ta hiện nay. Lâu đài đó là nơi nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, cho xã hội. Nó có
vai trò quyết định sự thành công trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục y học
Con người là vốn quý nhất của xã hội. Con người sáng tạo ra xã hội,
làm cho xã hội phát triển đến những đỉnh cao của nền văn minh, sự phồn
thịnh. Trong quá trình đó, con người cũng tự hoàn thiện mình, trở thành con
người có trí tuệ cao và có nếp sống văn minh. Nguồn lực con người là nhân tố
quyết định đến sự phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời nó cũng là mục tiêu
của sự phát triển đó. Đặc biệt đối với nước ta “khi các nguồn lực tài chính và
vật chất khác còn hạn hẹp thì nguồn lực con người là nguồn lực quý báu nhất
để phát triển đất nước” [10].

Nói đến nguồn lực con người, trước hết là nói đến sức mạnh trí tuệ, tay
nghề của họ. Sức mạnh của con người xét cho cùng là bắt nguồn từ tri thức
mà họ có được, từ khả năng vận dụng các tri thức đó vào hành động nhằm
giải quyết các vấn đề thực tế. Sức mạnh đó chính là sự gia tăng giá trị con
người, mà trong đó phần hết sức quan trọng là sự học tập tích lũy và các kỹ
năng lao động, biến chúng thành khả năng hoạt động thực tiễn của con người.
Những giá trị đó được tích lũy lại, phát huy lên, tạo ra những giá trị mới cho


12
xã hội, đồng thời phát triển bản thân con người. Trí tuệ và tay nghề của con
người không tự nhiên sinh ra mà chủ yếu là kết quả của quá trình được
GD&ĐT.
Giáo dục và đào tạo là những hoạt động nhằm hoàn thiện con người, nó
được coi là lâu đài khoa học, trí tuệ con người trong sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước ta hiện nay. Lâu đài đó là nơi nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước, cho xã hội. Nó có vai trò quyết định sự thành
công trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
“Giáo dục y học là một ngành của giáo dục học chuyên nghiên cứu các
vấn đề giáo dục trong nhóm khoa học sức khoẻ” [28, 11-12].
Trong khi dạy và học y học, các giáo viên, học viên, các bộ môn và bộ
phận của nhà trường phải làm việc với nhiều nội dung, nhiều phương pháp
luận khác nhau. Cũng như các lĩnh vực khác, trong đào tạo và giáo dục y học
thường xảy ra sự phân tán, tản mạn, thiếu tập trung của người học. Để khắc
phục hiện tượng này và để nâng cao hiệu quả giáo dục, mọi người và mọi bộ
phận tham gia giáo dục y học phải tập trung nỗ lực hướng vào ba mục tiêu
chung, có thể tóm tắt như sau:
* Dạy người (hoặc giáo dục y đức - thái độ của người cán bộ y tế).
Để phù hợp với xu hướng phát triển và tình hình cụ thể, giáo dục, đào
tạo y học nước ta đã và đang có những đổi mới: Biến đào tạo thành tự đào tạo,

đề cao tự học và tự định hướng - lấy người học làm trung tâm; tăng cường các
khoa học xã hội và khoa học hành vi, phát triển giao tiếp giáo dục sức khoẻ.
Học tập trên cơ sở từng vấn đề, dạy học hòa nhập – lồng ghép, phá vách ngăn
giữa các môn học để hướng vào các sức khoẻ ưu tiên: Học tập để hình thành
các năng lực, trên cơ sở các nhiệm vụ nghề nghiệp và các mục tiêu sức khoẻ,
quy tụ và tinh giản lý thuyết nhằm phục vụ các kỹ năng, các dịch vụ và các
chương trình sức khoẻ; Học tập trên cơ sở cộng đồng, hướng vào sức khoẻ
cộng đồng và tại cộng đồng chuẩn bị công tác trong tương lai; Học tập trên
các tình huống, xử trí các vấn đề sức khoẻ, luyện tập cách giải quyết vấn đề;


13
cải tiến việc lượng giá, đánh giá, tăng cường tự lượng giá để đẩy mạnh tự điều
chỉnh và tự học; Sử dụng tin học và các kỹ thuật mới để đổi mới công nghệ
dạy [12].
Cùng với xu hướng đổi mới đó, thì người cán bộ y tế tương lai cần phải
có các tiêu chuẩn nhất định. Mỗi loại hình cán bộ y tế cần có các tiêu chuẩn
riêng, đặc thù cho nghề nghiệp và lĩnh vực hoạt động của mình, nhưng đều
cần có các tiêu chuẩn chung sau:
- Là người cung ứng các dịch vụ và là người chăm sóc sức khoẻ cho
nhân dân;
- Là người ra quyết định liên quan đến sức khoẻ cá nhân và cộng đồng;
- Là người làm truyền thông, tư vấn, giáo dục và nâng cao sức khoẻ;
- Là người quản lý, lập kế hoạch tổ chức thực hiện và đánh giá các hoạt
động về sức khoẻ;
- Là người lãnh đạo cộng đồng trong chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ.
* Dạy nghề
* Dạy phương pháp luận
Sơ đồ 1.1. Chu trình giáo dục y học
Xác định các vấn đề sức khỏe

Ưu tiên-mô tả nhiệm vụXác định mục tiêu
Lập kế hoạch
về một hệ
thống đánh giá

Tiến hành
đánh giá

Chuẩn bị chương trình
– kế hoạch giáo dục tổ chức
thực hiện


14
1.1.2. Đào tạo sau đại học
1.1.2.1. Quan niệm về đào tạo sau đại học
Mỗi quốc gia trên thế có một hệ thống giáo dục quốc gia với tổ chức và
cấu trúc khác nhau tùy theo đặc điểm chính trị, lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã
hội quốc gia đó.
Đào tạo sau đại học bao gồm các loại hình học tập, đào tạo hoặc đào
tạo cho nghiên cứu cho những người đã tốt nghiệp đại học, bởi một cơ sở đại
học hoặc được công nhận như một cơ sở đại học; là thành phần chủ yếu của
sự phát triển văn hoá, kinh tế - xã hội và duy trì sinh thái đối với những cá
nhân, những cộng đồng và những dân tộc.
Ở Việt Nam, đào tạo sau đại học được quan niệm là “dành cho những
người đã tốt nghiệp đại học và nâng cao kỹ năng thực hành nhằm xây dựng
đội ngũ những người làm khoa học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức
phục vụ nhân dân, có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
khoa học - công nghệ của đất nước” (Điều 2, Quy chế đào tạo sau đại học).
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ đào tạo ngành Y

Tiến sĩ
Sau đại học

Đại học

Thạc sĩ
BSNT
CKI

Cao đẳng

Trung cấp

Sơ cấp

CKII
BDSĐH


15
Hoạt động về đào tạo và nâng cao trình độ ĐTSĐH trong các học viện,
các trường đại học bao gồm hoạt động đào tạo thạc sĩ (cao học), thời gian đào
tạo trung bình 2 năm dành cho những người đã có bằng đại học. Chương trình
đào tạo nhằm trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng chuyên sâu
hoặc liên ngành và hoạt động đào tạo trình độ tiến sĩ, thời gian đào tạo trung
bình 4 năm cho người tốt nghiệp đại học, từ 2 đến 3 năm cho người tốt nghiệp
thạc sĩ, giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực hành, có
năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, giải quyết những vấn đề khoa học,
công nghệ và hướng dẫn hoạt động chuyên môn.
Đào tạo SĐH ở bậc cao hơn so với đào tạo đại học, là cấp đào tạo cao

nhất trong hệ thống giáo dục quốc gia với các loại hình đào tạo: Bồi dưỡng
SĐH, đào tạo Thạc sĩ, đào tạo Tiến sĩ. Đây là quá trình phát triển về chất và
lượng nhằm tạo những người có tư duy và nhận thức tổng quan, có khả năng
tổ chức quản lý và điều hành một nhóm người cùng làm việc. Những người
này thường được gọi là “lãnh đạo”. Quan niệm chung nhất đối với từng cấp
độ ĐTSĐH như sau:
- Đào tạo tiến sĩ: Là bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc gia.
Đào tạo tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực
hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát hiện và giải quyết
những vấn đề mới về khoa học, công nghệ, hướng dẫn nghiên cứu khoa học
và hoạt động chuyên môn.
Việt Nam trước năm 1991 đào tạo sau đại học theo mô hình đào tạo của
Liên Xô cũ gồm 2 bậc: Phó tiến sĩ và tiến sĩ. Đào tạo thạc sĩ chỉ bắt đầu từ
1991. Đến cuối năm 1997 đào tạo phó tiến sĩ mới chính thức chấm dứt. Hiện
nay, chúng ta có hai cấp độ đào tạo sau đại học là thạc sĩ và tiến sĩ.
- Đào tạo thạc sĩ: Là hình thức đào tạo với mục tiêu trang bị cho học
viên kiến thức chuyên môn vững vàng, có năng lực thực hành và khả năng
thích ứng cao trước sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và kinh tế; có khả
năng phát hiện và giải quyết các vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.


16
Thời gian đào tạo thạc sĩ thường từ 1-3 năm tùy theo loại hình đào tạo, hình
thức học là tập trung hay bán tập trung.
Bên cạnh loại hình ĐTSĐH là thạc sĩ và tiến sĩ như các ngành khác,
đào tạo cán bộ y tế có trình độ SĐH là hết sức quan trọng hiện nay. Đào tạo
SĐH y tế, còn có các hình thức đào tạo sau:
- Đào tạo BSNT: Là mô ̣t loại hình đào tạo nhân tài của ngành Y tế. Đây
là một trong những hình thức đào tạo chuyên khoa SĐH, chuyên gia giỏi của
ngành. Hình thức đào tạo này đã được chính thức công nhận tại Nghị định số

43/2000/NĐ-CP ngày 30.8.2000 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Giáo dục. Loại hình đào tạo này cùng với thạc
sĩ và tiến sĩ là 5 loại hình đào tạo SĐH trong lĩnh vực y tế.
Theo Điều 1 Quy chế đào tạo BSNT ngày 04.7.2006 của Bộ Y tế thì
“đào tạo BSNT là loại hình đào tạo đại học đặc thù của ngành Y tế, nhằm mục
đích đào tạo bác sĩ chuyên khoa có kiến thức khoa học cơ bản vững, kiến thức
chuyên ngành hệ thống, kỹ năng thực hành cao, chủ động giải quyết thành
thạo những vấn đề chuyên môn cơ bản thuộc chuyên ngành đào tạo”.
Đào tạo BSNT là một trong những phương thức đào tạo những chuyên
gia giỏi, nhân tài trẻ của ngành Y tế áp dụng cho các chuyên ngành lâm sàng,
cận lâm sàng và y học dự phòng. Đào tạo BSNT là loại hình đào tạo sau đại
học mang tính đặc thù và truyền thống của ngành Y tế, nhằm mục đích đào
tạo các bác sĩ chuyên khoa có kiến thức khoa học cơ bản vững, kiến thức
chuyên ngành hệ thống, kỹ năng thực hành cao, chủ động giải quyết thành
thạo những vấn đề chuyên môn cơ bản thuộc chuyên ngành đào tạo. Đào tạo
BSNT là một trong những phương thức đào tạo các chuyên gia giỏi, nhân tài
trẻ của ngành Y tế áp dụng cho các chuyên ngành lâm sàng.
- Đào tạo chuyên khoa cấp 1 (CKI): Đây là loại hình ĐTSĐH đặc thù
của ngành Y tế, áp dụng cho tất cả các chuyên ngành lâm sàng và thực hành
nghề nghiệp trong lĩnh vực khoa học sức khỏe nhằm mục đích đào tạo nhân
lực Y tế có khả năng thực hành trong một chuyên ngành rộng, bổ sung một số


17
kiến thức khoa học cơ bản và y dược học cơ sở đã học trong đại học để có thể
tự học vươn lên, trở thành các chuyên gia Y tế thực hành chuyên khoa.
- Đào tạo chuyên khoa cấp 2 (CKII): Là loại hình ĐTSĐH đặc thù của
ngành Y tế, nhằm mục đích đào tạo các chuyên gia y tế bậc cao, có khả năng
thực hành giỏi trong một chuyên ngành hẹp. CKII là bậc học tiếp theo của các
bậc học: nội trú bệnh viện, chuyên khoa cấp I (CKI), là bậc đào tạo cao nhất

về thực hành và áp dụng cho tất cả các chuyên ngành lâm sàng và thực hành
nghề nghiệp trong lĩnh vực khoa học sức khỏe. Sau bậc đào tạo này, các cán
bộ CKII tiếp tục tự học vươn lên và không ngừng hoàn thiện.
- Bồi dưỡng sau đại học: Đào tạo sau đại học bao gồm việc học tập sau
khi tốt nghiệp đại học để lấy các loại văn bằng khác như chứng chỉ và bằng
Diplomas nhưng thường ở mức thấp hơn bằng Degree. Những văn bằng này
đôi khi được sử dụng như là một bước đệm để lấy bằng Degree hoặc là một
phần của quá trình đào tạo cho một nghề nghiệp riêng biệt hoặc được sử dụng
cho các lĩnh vực quá hẹp, không đủ để có thể nhận được bằng cấp tương
đương cho cả một khóa học.
Hiện tại, trên thế giới có nhiều loại hình bồi dưỡng sau đại học. Bồi
dưỡng sau đại học là hình thức bổ sung cho những người đã tốt nghiệp đại
học các kiến thức về chuyên ngành và các kiến thức liên quan để phục vụ cho
công việc. Ví dụ khoá bồi dưỡng sau đại học về luật cho phép sinh viên sau
khi tốt nghiệp đại học cập nhập thêm một số kiến thức mới về luật, các văn
bản mới ban hành để có thể đảm nhiệm công việc trong thực tế, trong ngành
Y tế có loại hình khóa học định hướng chuyên khoa để cấp chứng chỉ Định
hướng chuyên khoa, chứng chỉ bắt buộc để Bác sĩ được hành nghề. Đó có thể
là khoá bồi dưỡng về phương pháp sư phạm cho các giảng viên, các khoá bồi
dưỡng về tin học và ngoại ngữ... cho những người đã tốt nghiệp đại học nhằm
bổ sung và nâng cao các kỹ năng cần thiết cho công việc thực tế. Thời gian
cho các khoá bồi dưỡng sau đại học thông thường từ 1- 6 tháng.


18
1.1.2.2. Đặc trưng cơ bản của đào tạo sau đại học
Thứ nhất, nội dung chương trình và phương pháp đào tạo có xu hướng
thay thế rõ nét. Đặc điểm dễ nhận thấy là xuất hiện sự nhất thể hoá trong đào
tạo, thể hiện từ chương trình nội dung đến phương pháp đào tạo. Chương
trình đào tạo này theo hướng ngày càng thống nhất và tương đối giống nhau:

các trường đại học ở các nước đang phát triển thường tham khảo các chương
trình đào tạo của các nước có công nghệ tiên tiến và coi đó là chuẩn mực để
xây dựng các điều chỉnh chương trình của mình. Cũng như thế, nhiều nội
dung giảng dạy và giáo trình của các nước tư bản tiên tiến được các nước
đang phát triển sử dụng để giảng dạy trong các trường đại học.
Thứ hai, trước những thay đổi và điều chỉnh mang tính chuẩn hoá quốc
tế trong chương trình và nội dung đào tạo đã dẫn tới những thay đổi trong
việc cơ cấu các nguồn lực trong các trường đại học: Đội ngũ giảng viên được
cơ cấu lại cho phù hợp với mục tiêu và chương trình đào tạo, các hướng
nghiên cứu khoa học phục vụ cho công tác đào tạo cũng được điều chỉnh và
cơ cấu lại cho phù hợp với mục tiêu và chương trình đào tạo. Thậm chí những
thay đổi trong phương pháp đào tạo đã đặt ra những yêu cầu mới trong việc
thiết kế và xây dựng mới hệ thống giảng đường và phòng học hiện đại.
Thứ ba, khác với những quan niệm trước đây, ngày nay trong bối cảnh
quốc tế hoá, giáo dục và ĐTSĐH không còn thuần tuý là loại hoạt động
thuộc dịch vụ công cộng, đào tạo đã chứa đựng tính kinh doanh thương mại.
Do đó, nó mang tính cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ khi cấp độ hội nhập của
một quốc gia ngày càng cao. Do đó ĐTSĐH đã trở thành một lĩnh vực kinh
doanh và cạnh tranh ngày càng trở nên mạnh mẽ nên các trường đại học
hướng tới việc xác định rõ sứ mạng và kế hoạch hành động để phát triển
hình ảnh của nhà trường ra công chúng và quốc tế.
Thứ tư, các chương trình đào tạo sau đại học đã nhanh chóng chuyển
hướng tới đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng thị trường lao động trong nước và
quốc tế, các nội dung đào tạo ngày càng sát với thực tiễn kinh doanh và
chuyển sang hướng tăng cường thực hành công tác.


19
Thứ năm, hội nhập quốc tế mở ra nhiều cơ hội hợp tác trong lĩnh vực
đào tạo giữa các trường đại học trong nước và quốc tế: các hướng hợp tác

trong đào tạo thông qua nhiều hình thức như phối hợp cùng đào tạo, công
nhận trình độ của nhau, trao đổi giảng viên, cán bộ nghiên cứu và sinh viên.
Qua trao đổi và học tập lẫn nhau giữa các yếu tố quốc tế trong đào tạo đã
thâm nhập và hình thành đầy đủ trong chương trình, nội dung và giáo viên.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nƣớc
Quản lý nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, là sự quản
lý của nhà nước đối với xã hội và công dân.
QLNN là sự chỉ huy, điều hành xã hội để thực thi quyền lực nhà nước;
là tổng thể về thể chế, về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước có trách
nhiệm quản lý công việc hàng ngày của nhà nước, do các cơ quan nhà nước
(lập pháp, hành pháp và tư pháp) có tư cách pháp nhân công pháp (công
quyền) tiến hành bằng văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn mà nhà nước đã giao trong việc tổ chức và điều chỉnh
các quan hệ xã hội và hành vi của công dân.
QLNN là một dạng quản lý xã hội thực thi quyền lực nhà nước; dạng
quản lý này được thể hiện trong các cơ quan nhà nước. Điều 12 Hiến pháp
1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Theo định nghĩa của Liên hợp quốc,
QLNN tương đồng với khái niệm quản lý quốc gia (Governmance), nghĩa là:
QLNN một cách hợp lý, có hiệu quả, công khai, minh bạch và có sự tham gia
của chủ thể liên quan.
Quản lý nhà nước là thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam với
nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Theo nghĩa rộng: Quản lý nhà nước là hoạt động của BMNN, bao gồm
cả cơ quan quyền lực nhà nước là Quốc hội, cơ quan HCNN từ trung ương
đến địa phương, cơ quan tư pháp và hệ thống Tòa án nhân dân các cấp.


20
QLNN theo nghĩa tổng quát là nói đến chức năng chung của bộ máy

nhà nước với tư cách là một tổ chức quyền lực và mang tính pháp quyền, là tổ
chức công quyền quản lý toàn xã hội bằng các hoạt động lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
Theo nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước là hoạt động riêng của cơ quan hành
chính nhà nước : Các Bộ, cơ quan ngang Bộ , cơ quan thuộc Chiń h phủ , Ủy
ban nhân dân các cấp, các Sở, Phòng, Ban của Ủy ban nhân dân.
Theo nghĩa này thì QLNN không bao gồm hoạt động lập pháp và tư
pháp của nhà nước, mà đó là hoạt động điều hành công việc hàng ngày của hệ
thống bộ máy hành chính nhà nước.
Trong luận văn này, QLNN được hiểu theo nghĩa hẹp , là “QLNN là
mô ̣t da ̣ng quản lý đă ̣c biê ̣t , mang tiń h quyề n lực nhà nước , sử dụng quyề n lực
nhà nước để điề u chin
̉ h hành vi hoạt động của con người trên tấ t cả các lĩnh
vực của đời số ng xã hội , do các cơ quan trong B MNN thực hiê ̣n , nhằ m thỏa
mãn nhu cầ u hơ ̣p pháp của con người, duy trì sự ổ n điṇ h và phát triển của xã
hội”[ 29, 51].
1.1.4. Quản lý nhà nƣớc về đào tạo sau đại học
Giáo dục và Đào tạo có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội. Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày
nay, tiềm năng trí tuệ trở thành động lực chính của sự tăng tốc phát triển và
GD&ĐT được coi là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia trên
trường quốc tế và sự thành đạt của mỗi con người trong cuộc sống của mình .
Chính vì vậy , Chính phủ và nhân dân đánh giá rất cao vai trò của giáo dục

.

Điều 35 Hiến pháp 1992 quy định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”
Luật Giáo dục 2005 quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống
giáo dục quốc dân” (Điều 14); “Chiń h phủ thống nhất QLNN về giáo dục” và
“Bộ GD &ĐT chịu trách nhiệm trước Chiń h phủ thực hiện QLNN về giáo

dục” (Điều 100)


21
Quản lý nhà nước về GD&ĐT là sự tác động có tổ chức và điều hành
bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động GD&ĐT, do các cơ quan
quản lý giáo dục của nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ do nhà nước uỷ quyền nhằm phát triển sự nghiệp
GD&ĐT, duy trì trật tự, kỷ cương, thoả mãn nhu cầu GD&ĐT của nhân dân,
thực hiện mục tiêu GD&ĐT của nhà nước đặt ra.
Như vậy, quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học được hiểu là việc các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quyền lực công để điều hành, điều
chỉnh toàn bộ hoạt động đào tạo sau đại học trong phạm vi toàn xã hội để
thực hiện mục tiêu đào tạo sau đại học mà nhà nước đã đặt ra.
Từ quan điểm của Đảng về GD&ĐT, quản lý nhà nước về GD&ĐT là
một nhiệm vụ quan trọng trong công tác điều hành trong các lĩnh vực hoạt
động, Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII đã chỉ rõ: “Cương lĩnh cải cách
giáo dục, xây dựng chiến lược phát triển GD&ĐT trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và
chính sách của nhà nước về GD&ĐT. Tăng cường QLNN đối với các loại
hình đào tạo. Thực sự coi GD&ĐT là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc
giáo dục, đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho GD&ĐT là đầu tư phát triển.
Thực hiện chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với GD&ĐT đặc biệt là chính sách
đầu tư và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển
giáo dục”.
Giáo dục là quá trình trang bị và nâng cao kiến thức, hiểu biết về thế
giới khách quan, khoa học, kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động nghề
nghiệp cũng như hình thành nhân cách của con người.
Giáo dục diễn ra thường xuyên, liên tục ở mọi môi trường hoạt động

của con người (trong gia đình, nơi làm việc, trong nhà trường, trong quan hệ
xã hội,...), trong đó môi trường ở nhà trường có vai trò quyết định.
Nhà nước là một thiết chế quyền lực công có chức năng đối nội, đối


22
ngoại, quản lý mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội ở mỗi quốc gia (chính
trị, kinh tế, quân sự, an ninh, văn hóa, xã hội), trong đó QLNN về giáo dục
đào tạo là một khâu có vai trò hàng đầu trong QLNN về các vấn đề xã hội.
Có thể chia quản lý GD&ĐT ra làm 2 mảng: QLNN về GD&ĐT và
quản lý sự nghiệp GD&ĐT. Cần phải phân định rõ hai mảng quản lý này và
kết hợp tốt chúng để phát triển sự nghiệp GD&ĐT.
Quản lý nhà nước về GD&ĐT là sự tác động có tổ chức và điều hành
bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động GD&ĐT, do các cơ quan
quản lý giáo dục của nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ do nhà nước ủy quyền nhằm phát triển sự nghiệp
GD&ĐT, duy trì trật tự, kỷ cương, thỏa mãn nhu cầu GD&ĐT của nhân dân,
thực hiện mục tiêu GD&ĐT của nhà nước đặt ra.
Quản lý nhà nước là sự tác động, điều chỉnh thường xuyên của nhà
nước bằng quyền lực nhà nước đối với toàn bộ hoạt động GD&ĐT của một
quốc gia nhằm định hướng, thiết lập trật tự kỷ cương của hoạt động GD&ĐT,
hướng đến mục tiêu và yêu cầu của sự phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
Chủ thể của QLNN về GD&ĐT là nhà nước với hệ thống các cơ quan
quyền lực của nó mà trực tiếp là Chính phủ và hệ thống bộ máy QLNN về
GD&ĐT từ trung ương đến địa phương.
Theo Điều 100 của Luật Giáo dục, QLNN về giáo dục bao gồm:
* Cơ quan (chủ thể) QLNN về GD&ĐT gồm:
- Chính phủ thống nhất QLNN về giáo dục.
- Chính phủ trình Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn
có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả

nước, những chủ trương về cải cách nội dung chương trình của một cấp học;
hàng năm báo cáo Quốc hội về hoạt động giáo dục và việc thực hiện ngân
sách giáo dục.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
QLNN về giáo dục.


23
- Bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện
QLNN về giáo dục theo thẩm quyền.
- Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện QLNN về giáo dục theo sự phân
cấp của Chính phủ và có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện về đội ngũ nhà
giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các trường công lập thuộc
phạm vi quản lý, đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục tại địa phương.
* Khách thể QLNN về GD&ĐT là hệ thống các cơ sở GD&ĐT và
những người tham gia vào quá trình GD&ĐT.
Còn quản lý sự nghiệp GD&ĐT là sự tác động, điều khiển của người
đứng đầu cơ sở GD&ĐT và bộ máy quản lý của ông ta vào các hoạt động
GD&ĐT của đơn vị trên cơ sở chính sách, pháp luật về GD&ĐT của nhà
nước và hệ thống qui chế, nội qui hoạt động của tổ chức nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo, thực hiện tốt kế hoạch GD&ĐT được đặt ra.
Theo điều 99 của Luật Giáo dục, nội dung QLNN về GD&ĐT bao gồm:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển giáo dục;
- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo
dục; ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động
của cơ sở giáo dục khác;
- Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà
giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất

bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn
bằng, chứng chỉ;
- Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất
lượng giáo dục;
- Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục;
- Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục;
- Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục;


24
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp
giáo dục;
- Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực giáo dục;
- Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục;
- Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao
đối với sự nghiệp giáo dục;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.
Như vậy, trong các nguồn lực để phát triển, NNL có trí tuệ là nhân tố
cơ bản, quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. GD&ĐT nhằm
tạo ra lớp người lao động có trí tuệ thích hợp đó và được các quốc gia đặc biệt
quan tâm.
1.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI
HỌC NGÀNH Y
1.2.1. Mục tiêu phát triển đào tạo sau đại học ở Việt Nam
Mục tiêu tổng quát đào tạo sau đại học (ĐTSĐH) Việt Nam là đào tạo
các thạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Hay nói cách khác, đào tạo
người học có lý tưởng, phẩm chất chính trị, đạo đức, có sức khoẻ tốt, có kiến

thức chuyên môn và kỹ năng thực hành nghề nghiệp cao trong quá trình giải
quyết công việc và giải quyết các vấn đề thực tiễn phát sinh. Để thực hiện mục
tiêu tổng quát đó, ĐTSĐH Việt Nam cần giải quyết một số công việc sau:
- Đảm bảo hợp lý giữa quy mô đào tạo và chất lượng đào tạo nhằm đáp
ứng NNL có trình độ cao, phù hợp với cơ cấu KT-XH trong thời kỳ CNH, HĐH.
Giáo dục Việt Nam phải từng bước theo kịp với trình độ tiên tiến của các nước
trong khu vực và trên thế giới, tăng cường hợp tác quốc tế về ĐTSĐH.
- Đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy để
tạo ra những chuyển biến về chất của quá trình dạy và học SĐH.


25
1.2.2. Mục tiêu quản lý nhà nƣớc đối với đào tạo sau đại học ngành Y
Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến lợi
ích, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân, mọi tổ chức KT, XH, đồng thời
có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển nhanh hay chậm của một quốc
gia. Do vậy, bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng luôn quan tâm đến
chính sách phát triển giáo dục, coi là khâu then chốt. Quản lý nhà nước về
ĐTSĐH được coi là khâu then chốt của then chốt, là yếu tố đảm bảo nâng cao
chất lượng NNL của một quốc gia.
QLNN về đào tạo nói chung ĐTSĐH nói riêng, ngành Y tế đều nhằm
hướng đến mục tiêu làm cho kết quả của quá trình đào tạo đạt được mong
muốn về kiến thức, kỹ năng, thái độ…tạo NNL vừa hồng, vừa chuyên.
Không chỉ đào tạo về bằng cấp, ĐTSĐH ngành Y quan tâm, chú ý đến
tay nghề, có năng lực, trình độ chuyên môn cao, kỹ năng hoàn hảo. Do vậy,
để đảm bảo chất lượng ĐTSĐH cho ngành Y cần đảm bảo ngân sách cho đào
tạo, cơ sở vật chất, cơ sở thực hành và đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên
môn cao, kinh nghiệm giảng dạy tốt.
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu QLNN về ĐTSĐH ngành Y ở nước
ta được xác định là:

- Đào tạo đội ngũ y, bác sĩ có trình độ tay nghề cao, đáp ứng nhu cầu
khám, chữa bệnh cho nhân dân
- Đảm bảo phát triển ĐTSĐH đúng hướng, đáp ứng các mục tiêu chiến
lược phát triển GD&ĐT trong từng giai đoạn phát triển.
- Đảm bảo phát triển GDSĐH đi vào trật tự, kỷ cương, phát triển phù
hợp và ngang tầm với khu vực và thế giới.
- Tiến tới, đảm bảo NNL chất lượng cao nói chung, ngành Y tế nói
riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển KT- XH.
- Đưa ĐTSĐH Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trong khu
vực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, yêu cầu CNH, HĐH đất nước.


×