Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về định hướng XHCN trong lĩnh vực kinh doanh thương mại ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.8 KB, 101 trang )

1
I. Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Từ năm 1986 Đảng ta đã khởi xớng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nớc. Đó là quá trình chuyển đổi nền kinh tế tập trung, quan
liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trờng, có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN. Bối cảnh
quốc tế và trong nớc hiện nay, việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng tuy có sự quản lý của nhà nớc
XHCN nhng làm nh thế nào để đúng định hớng XHCN, tránh đợc nguy cơ
chệch hớng, đó không phải là vấn đề đơn giản.
Nền kinh tế quốc dân là tổng thể các bộ phận kinh tế hợp thành, là
tổng hợp các hoạt động của các nghành kinh tế nh công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải, thơng mại dịch vụ, bu chính viễn thông, ngân
hàng, tín dụng... Định hớng XHCN nền kinh tế phải là tổng hợp định hớng
của các bộ phận, các ngành kinh tế trong mối liên hệ với nhau và trên cơ sở
của các tiền đề khách quan nhất định về chính trị, văn hoá - t tởng...
Thơng mại là bộ phận hợp thành của nền kinh tế, là một ngành kinh tế
quan trọng của đất nớc. Thơng mại không những làm cho các bộ phận của
nền kinh tế gắn kết với nhau, sản xuất gắn với tiêu dùng, mà thơng mại còn
góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị trong việc tăng cờng củng cố liên
minh công - nông - trí thức, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông
nghiệp - nông thôn và nông dân. Đặc biệt, thơng mại là phơng thức chủ yếu
làm cho nền kinh tế nớc ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới để
phát triển. Nh vậy, việc chỉ ra xu hớng vận động, cũng nh những nhân tố và
giải pháp cơ bản đảm bảo định hớng XHCN của ngành thơng mại trong mọi
hoạt động của nó, nhất là trong phơng thức kinh doanh là quan trọng và cần
thiết, vừa đảm bảo mục tiêu định hớng XHCN của cách mạng nói chung,
vừa đảm bảo định hớng XHCN của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành
2
theo cơ chế thị trờng nói riêng, tránh nguy cơ chệch hớng, đảm bảo hoà


nhập nhng không hoà tan.
Do đó việc hình thành đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ Những
vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về định hớng XHCN trong lĩnh vực
kinh doanh thơng mại ở nớc ta hiện nay trở nên cần thiết, cấp bách và có
ý nghĩa thiết thực đối với việc thực hiện mục tiêu chiến lợc của cách mạng,
cũng nh mục tiêu xây dựng và phát triển ngành thơng mại ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Định hớng XHCN là vấn đề cơ bản và trọng yếu, có ý nghĩa to lớn cả
trên phơng diện lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới toàn diện đất n-
ớc. Định hớng XHCN không chỉ là sự khẳng định quyết tâm đi theo con đ-
ờng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, mà còn là lập trờng nguyên tắc
đảm bảo đổi mới thành công. Vấn đề định hớng XHCN đợc Đảng ta chính
thức đa ra từ đại hội Đảng lần thứ VII theo đờng lối đổi mới của đại hội VI,
vì vậy về mặt lý luận chung đã đợc các ban lý luận của Đảng, các nhà khoa
học trong cả nớc tập trung nghiên cứu. Tại cuộc hội thảo Một số vấn đề về
định hớng XHCN ở nớc ta do Bộ biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức ngày
26 - 1 - 1996 với sự tham gia của các đồng chí Đặng Xuân Kỳ - GS, Uỷ
viên Trung ơng Đảng, Viện trởng viện nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin
và t tởng Hồ Chí Minh; Nguyễn Duy Quý - GS.TS Uỷ viên Trung ơng
Đảng, giám đốc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia; Vũ Mão,
Uỷ viên Trung ơng Đảng, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, cùng nhiều
giáo s, tiến sĩ, các nhà nghiên cứu lý luận đầu đàn, các cán bộ biên tập Tạp
chí Cộng sản. Trong hơn 30 bản tham luận trình bày tại hội thảo (mà một số
đợc in trong Tạp chí Cộng sản từ số 4 đến số 6. 1996) các nhà khoa học
đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề. Các tham luận đã quán
triệt thêm một bớc sáu đặc trng của CNXH và bảy giải pháp lớn xây dựng
xã hội XHCN ở nớc ta mà Đại hội VII của Đảng đã nêu lên trong Cơng lĩnh
chính trị; khẳng định đây là định hớng XHCN rất đúng đắn đã đa đất nớc ta
vợt qua khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển, thực hiện CNH -
HĐH đất nớc; phê phán những quan điểm sai trái và xuyên tạc định hớng

3
XHCN. Lý luận về định hớng XHCN ở nớc ta ngày càng hoàn chỉnh hơn
bởi đợc kiểm chứng trong thực tế thông qua hoạt động thực tiễn của Đảng
và quần chúng cách mạng.
Song song với hội thảo, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều ấn
phẩm của các nhà khoa học có tên tuổi trên bình diện lý luận chung về con
đờng phát triển của nớc ta theo định hớng XHCN đợc xuất bản. Giáo s Trần
Xuân Trờng có các tác phẩm: Định hớng XHCN ở Việt Nam - Một số vấn
đề lý luận cấp bách do NXB Chính trị quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1996.
Từ định hớng chung, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu triển khai
trên từng lĩnh vực cụ thể. Trên lĩnh vực kinh tế có tác phẩm Xu hớng biến
động của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam do PGS.PTS Nguyễn
Tĩnh Gia chủ biên đã nêu lên sự định hớng và những nhân tố đảm bảo định
hớng XHCN của sự phát triển nền kinh tế ở Việt Nam. Ngoài ra còn có một
số bài viết nghiên cứu của các nhà khoa học đăng trên Tạp chí Cộng sản,
Tạp chí Thông tin lí luận, Tạp chí nghiên cứu kinh tế...Đặc biệt Hội đồng lý
luận Trung ơng thời gian qua đã tổ chức bốn cuộc hội thảo và đã đa ra
những kết luận bớc đầu về chủ đề kinh tế thị trờng và định hớng XHCN
đăng trên Tạp chí Cộng sản số 15,16 - 8/1999.
Trên lĩnh vực thơng mại, đặc biệt trong ngành kinh doanh thơng mại
có rất ít các công trình nghiên cứu về sự định hớng XHCN quá trình kinh
doanh. Giáo s Hoàng Đạt ở bộ Thơng Mại có một số bài viết đăng trong Tạp
chí Cộng sản (số 5-3/1996, 10-5/1996) nêu lên những nhận định, đánh giá
về thực trạng kinh doanh thơng mại ở nớc ta trong những năm gần đây theo
đờng lối đổi mới của Đảng, đề xuất một số kiến nghị cần thực hiện về chủ
trơng, chính sách, cơ chế... để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Gần đây
nhất có tác phẩm Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thơng mại
nhà nớc ở nớc ta hiện nay (NXB Lao Động, HN 2000) của tập thể tác giả
ở Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, khoa kinh tế phát triển do tiến
sĩ Võ Văn Đức chủ biên. Cuốn sách nêu lên một số những vấn đề lý luận cơ

bản về sự tồn tại tất yếu khách quan của các doanh nghiệp thơng mại nhà n-
ớc, thực trạng hoạt động kinh doanh và một số những giải pháp nhằm nâng
4
cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thơng mại nhà nớc ở nớc ta
hiện nay.
Nhìn chung, qua những công trình nghiên cứu đã đợc công bố chúng
tôi thấy cha có một lí luận tổng quát, có hệ thống về sự định hớng XHCN
trong lĩnh vực kinh doanh thơng mại, cũng nh những phơng hớng, biện
pháp cơ bản cần phải làm gì, làm nh thế nào để thực hiện sự định hớng đó.
Do vậy những vấn đề lí luận và thực tiễn cơ bản về định hớng XHCN
trong lĩnh vực kinh doanh thơng mại ở nớc ta hiện nay là một vấn đề
mới mẻ, hấp dẫn và cấp thiết cần phải đợc nghiên cứu trong chiến lợc định
hớng XHCN của Đảng và nhân dân ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Mục đích.
Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và những quan điểm của
Đảng ta, thông qua tổng kết thực trạng kinh doanh thơng mại trong thời
gian qua ở Việt Nam khái quát thành hệ thống lí luận về kinh doanh thơng
mại theo định hớng XHCN, từ đó xác định những phơng hớng, những nhân
tố và giải pháp cơ bản đảm bảo kinh doanh thơng mại ở nớc ta hiện nay
theo định hớng XNCN.
Nhiệm vụ.
- Về lí luận: từ lý luận chung về định hớng XHCN trong thời kỳ quá độ,
từ tổng kết, đánh giá thực trạng kinh doanh thơng mại theo định hớng
XHCN ở nớc ta trong thời gian qua mà hình thành nên lý luận về sự định h-
ớng XHCN trong lĩnh vực kinh doanh thơng mại.
- Về thực tiễn: chỉ ra những phơng hớng, những nhân tố và biện pháp
cơ bản đảm bảo kinh doanh thơng mại ở nớc ta theo định hớng XHCN.
4. Ph ơng pháp nghiên cứu .
- Phơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

- Phơng pháp điều tra, thống kê.
- Phơng pháp phân tích, tổng hợp và hệ thống.
5
5. Đối t ợng và phạm vi nghiên cứu .
Đối tợng nghiên cứu của đề tài là lĩnh vực kinh doanh thơng mại
trong tất cả các thành phần kinh tế ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: những vấn đề lý luận và thực tiễn đảm bảo kinh
doanh thơng mại theo đúng định hớng XHCN.
6. Những vấn đề mới của đề tài .
- Hình thành một lý luận tơng đối hoàn chỉnh, có tính hệ thống về định
hớng XHCN trong kinh doanh thơng mại.
- Chỉ ra những phơng hớng cơ bản, những nhân tố, biện pháp tác động
để đảm bảo kinh doanh thơng mại ở nớc ta theo định hớng XHCN.
7. ý nghĩa của đề tài .
- Làm t liệu phục vụ cho việc giảng dạy các môn học Mác - Lê nin và
các môn học kinh tế ở trờng đại học Thơng mại và các trờng khối nghành
kinh tế.
- Làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn
nghành thơng mại của cán bộ các cấp.
8. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề
tài đợc kết cấu thành ba chơng:
Chơng 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về định hớng XHCN nói
chung và định hớng XHCN trong kinh doanh thơng mại ở nớc ta.
Chơng 2. Thực trạng kinh doanh thơng mại ở nớc ta trong thời gian
qua.
Chơng 3. Những phơng hớng, giải pháp cơ bản đảm bảo kinh doanh
thơng mại theo định hớng XHCN ở nớc ta.
II. nội dung
Ch ơng 1 .

6
Những vấn đề lý luận cơ bản về định h-
ớng XHCN nói chung và định hớng XHCN
trong kinh doanh thơng mạI ở nớc ta.
1.1. Lý luận về con đờng phát triển x hội theo định hã -
ớng x hội chủ nghĩa ở nã ớc ta.
1.1.1 Quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nớc ta là tất yếu
lịch sử.
1. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở đúng
đắn của sự phát triển xã hội loài ngời.
Đã có nhiều lí thuyết về sự phát triển của xã hội loài ngời. Đầu thế kỷ
XIX nhà không tởng ngời Pháp - Phăngxoa Mari Sáclơ Phuriê (1772 -
1837) trong tác phẩm đầu tay Lý thuyết về bốn giai đoạn phát triển và số
phận chung đã vạch ra bức tranh lịch sử phát triển của xã hội loài ngời,
cho đến CNTB đã trải qua những giai đoạn khác nhau: mông muội, dã man,
gia trởng, văn minh. Ông quan niệm mỗi giai đoạn là một nấc thang trong
quá trình phát triển của xã hội loài ngời. Ông còn chia mỗi chế độ xã hội
thành bốn giai đoạn tơng ứng với bốn lứa tuổi trong một đời ngơì: 1) Thơ
ấu, 2) Thanh niên, 3) Trởng thành, 4) Tuổi già. Ông cho rằng chế độ văn
minh (tức CNTB) giữ một vai trò quan trọng trong dãy liên tiếp các các nấc
thang vận động, bởi vì chính nó đã tạo ra những động lực cần thiết để bớc
theo con đờng đi tới sự liên hiệp, nó tạo ra nền sản xuất lớn, các khoa học
mỹ thuật cao . Chế độ văn minh qua khỏi giới hạn cuối cùng của nó sẽ bớc
vào một thời kỳ mới - Thời kỳ của những đảm bảo xã hội . Phuriê mong
muốn xây dựng một xã hội mới - qua giai đoạn xã hội đảm bảo và tiến tới
xã hội hài hoà (45. tr 173, 174).
Một số học giả t sản đề xuất thuyết kỹ trị và thuyết hội tụ . Họ
cho rằng xã hội loài ngời ngày nay không phải giai cấp công nhân, cũng
không phải giai cấp t sản thống trị mà là khoa học kỹ thuật giữ vai trò thống
trị. CNTB hay CNXH chỉ là những con đờng khác nhau để phát triển khoa

học kỹ thuật và rồi hai chế độ xã hội đó sẽ hội tụ , gặp nhau ở xã hội
hậu công nghiệp hay xã hội tiêu dùng .
7
Nhà tơng lai học ngời Mỹ - A. Tôffle - trong tác phẩm ba làn sóng
văn minh lại mô tả xã hội loài ngời trải qua ba làn sóng văn minh của sự
phát triển: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và hiện nay đang
trải qua văn minh hậu công nghiệp - văn minh tin học, điện tử. Ông coi yếu
tố quyết định duy nhất chi phối sự phát triển của xã hội loài ngời là khoa
học - công nghệ, là lực lợng sản xuất.
Theo Mác, sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội;
phơng thức sản xuất biểu thị cách thức con ngời thực hiện quá trình sản
xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài ngời, đó
chính là sự thống nhất giữa lực lợng sản xuất ở một trình độ nhất định với
quan hệ sản xuất tơng ứng. Toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội
trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội
đó để rồi dựng lên một kiến trúc thợng tầng gồm hệ thống những quan hệ
về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, văn hoá... phù hợp. C. Mác
viết: Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thợng tầng
pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tơng ứng với
cơ sở hiện thực đó (1. tr.15). Đó chính là học thuyết Mác về hình thái kinh
tế - xã hội.
Học thuyết Mác về HTKT - XH đã chỉ rõ: lịch sử phát triển của xã hội
loài ngời là một quá trình lịch sử - tự nhiên, là sự phát triển kế tiếp nhau của
các HTKT - XH từ thấp đến cao theo quy luật cơ bản, chung nhất của chủ
nghĩa duy vật lịch sử là quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lợng sản xuất, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thợng tầng. Ph.
Ăngghen viết: ... trong mỗi thời đại lịch sử, phơng thức chủ yếu của sản
xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phơng thức đó quyết
định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự

phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới cắt
nghĩa đợc lịch sử đó (1. Tr 523). Học thuyết Mác về HTKT - XH là biểu
hiện tập trung nhất của quan niệm duy vật về lịch sử, là cơ sở phơng pháp
8
luận của sự phân tích khoa học về xã hội, là hòn đá tảng của khoa học xã
hội.
Nh vậy, rốt cuộc chỉ có học thuyết về HTKT - XH của Mác là đúng đắn
nhất, là quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để phân tích lịch sử và
nhận thức các vấn đề xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
đã kết luận: hình thái kinh tế - xã hội T bản chủ nghĩa nhất định sẽ đợc thay
thế bằng hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa và sự thay thế này
cũng là quá trình lịch sử - tự nhiên. Chính vì vậy nhìn chung, cho đến nay,
lịch sử nhân loại đã phát triển trải qua bốn HTKT - XH: Cộng sản nguyên
thuỷ, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, T bản chủ nghĩa và đang quá độ sang
Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của HTKT - XH Cộng sản chủ nghĩa. Sự
thay thế đó đợc thực hiện thông qua cách mạng Xã hội chủ nghĩa mà hai
tiền đề vật chất quan trọng nhất của nó là sự phát triển của lực lợng sản xuất
và sự trởng thành của giai cấp công nhân.
Nhng quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra bằng con đờng phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua một
hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những điều kiện lịch sử
nhất định. ở một quốc gia nào đó do đặc điểm về lịch sử, về không gian và
thời gian, do những điều kiện khách quan và chủ quan, bên trong và bên
ngoài chi phối đã bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong tiến
trình phát triển của mình. Một số nớc không qua hình thái này hay hình
thái khác là một sự thật lịch sử và là quá trình lịch sử - tự nhiên đối với quốc
gia đó. Vì trong lịch sử thờng có những trung tâm phát triển cao hơn về sản
xuất vật chất, về kỹ thuật hay về văn hoá, chính trị... Sự giao lu, xâm nhập,
tác động qua lại với các trung tâm đó làm xuất hiện khả năng một số nớc đi
sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không lặp lại tuần tự các quá trình

phát triển của lịch sử nhân loại. Tính quy luật chung của sự phát triển
trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại còn bao hàm một số
giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình
tự của sự phát triển đó (5. Tr 431).
9
Lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin cũng đã khẳng định khi đi
lên CNXH bất kể từ trình độ phát triển kinh tế nào tất yếu phải trải qua thời
kỳ quá độ - là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các lĩnh vực của
đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình
thành một xã hội mà trong đó những nguyên tắc của CNXH sẽ đợc thực
hiện. Thời kỳ này bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động
đã giành đợc chính quyền nhà nớc và kết thúc khi đã xây dựng đợc những
cơ sở của CNXH trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, t tởng - văn hoá.
Các nhà kinh điển của CNXH khoa học đã nêu ra hai kiểu quá độ: quá độ
trực tiếp từ chế độ TBCN phát triển lên CNXH và quá độ gián tiếp từ chế độ
tiền TBCN lên CNXH. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH chung
quy đợc quy định bởi hai lý do cơ bản sau đây:
Một là, CNXH là một chế độ xã hội khác về chất so với xã hội cũ, nó
không thể tự phát ra đời trong lòng xã hội cũ. Xã hội cũ - ngay cả chủ nghĩa
t bản - chỉ chuẩn bị những tiền đề vật chất cho sự ra đời của CNXH. Giai
cấp công nhân và nhân dân lao động sau khi giành đợc chính quyền nhà n-
ớc phải có thời kỳ xây dựng các yếu tố bản chất của Chủ nghĩa xã hội.
Hai là, khi chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đ-
ợc thiết lập giai cấp t sản mới bị đánh bại về chính trị chứ cha bị tiêu diệt,
nó vẫn nuôi hy vọng hồi phục. Trong xã hội còn tồn tại những tàn d của xã
hội cũ. Do đó cần phải có thời kỳ quá độ để tiến hành cải tạo xã hội cũ,
từng bớc xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN.
Lê Nin viết: Cần phải có một thời kỳ quá độ lâu dài từ chủ nghĩa t bản
lên chủ nghĩa xã hội vì cải tổ sản xuất là một việc khó khăn, vì cần phải có
thời gian mới thực hiện đợc những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của

cuộc sống, và phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài mới có thể
thắng đợc sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tiểu t sản và t
sản. Bởi vậy Mác nói đến cả một thời kỳ chuyên chính vô sản, thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội (3. Tr 464).
Quá độ lên CNXH ở mỗi nớc có những nét đặc thù do điều kiện lịch
sử cụ thể của nớc đó qui định. Nhiệm vụ của các ĐCS và nhân dân mỗi nớc
10
là vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về thời
kỳ quá độ lên CNXH vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể phù hợp với đặc điểm và
truyền thống của dân tộc mình, đồng thời tận dụng các yếu tố của thời đại
để định ra mục tiêu, phơng hớng và bớc đi thích hợp nhằm thực hiện thành
công bớc quá độ lên CNXH. Lê Nin viết: Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên
CNXH, đó là điều không tránh khỏi. Nhng các dân tộc tiến tới CNXH
không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đa đặc điểm của
mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại
này hay loại khác của Chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ
khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội
(2. Tr 160).
Trớc những diễn biến phức tạp của sự phát triển xã hội loài ngời, đặc
biệt là sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu nhiều ngời đặt câu hỏi:
Nhân loại sẽ đi về đâu?
Trả lời câu hỏi đó, nhiều nhà khoa học đã có những dự báo lớn về
thiên niên kỷ tới, họ cho rằng quang cảnh toàn cầu sẽ thật tráng lệ và đa
sắc trong thiên niên kỷ tới. Đó là, sự thay đổi phơng thức t duy và phơng
pháp luận khoa học sẽ chắp cánh cho khoa học kỹ thuật phát triển mạnh
thêm. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự gia tăng giá trị của kiến thức, sự
thâm nhập của nền kinh tế vợt biên giới lãnh thổ và sự tăng cờng quản lý
kinh tế làm cho kinh tế thế giới nẩy sinh những đặc điểm mới. Sự xung đột
về hình thái ý thức và lợi ích quốc gia ảnh hởng lẫn nhau, cùng những kỹ
thuật mới có trình độ cao, cộng với các nhân tố về môi trờng sinh thái ngày

càng hoà nhập với quan hệ quốc tế. Kinh tế thay đổi dẫn theo sự thay đổi về
văn hoá, quan niệm thẩm mỹ sẽ mang dấu ấn của thế kỷ mới. Lối sống xã
hội, sự phân hoá giai tầng xã hội, cảnh sống xã hội sẽ nẩy sinh những biến
đổi mang tính thế kỷ (42. Tr 17). Dự thảo báo cáo chính trị tại đại hội IX
của Đảng cũng đã dự đoán thế kỷ 21 có những biến đổi to lớn và sâu sắc
trong đó chủ yếu là:
1- Khoa học và công nghệ sẽ có những bớc nhảy vọt cha từng thấy.
Kinh tế tri thức sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong quá trình phát triển.
11
Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ rất nhanh và
ngày càng nhanh hơn với những bớc tiến nhảy vọt về công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu, công nghệ năng lợng, công nghệ thông tin trong đó mũi
nhọn là công nghệ thông tin, có tác động thúc đẩy sự hình thành nền kinh
tế tri thức và lôi cuốn các ngành công nghệ khác, tạo ra biến đổi lớn và
nhanh chóng không những trong đời sống kinh tế và kỹ thuật mà còn cả
trong các lĩnh vực văn hoá xã hội, nhân văn, môi trờng. Nó tạo điều kiện
cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, lợi thế của các quốc gia không
ngừng biến đổi, chu trình luân chuyển vốn và thay đổi công nghệ, sản phẩm
ngày càng rút ngắn, đòi hỏi các quốc gia cũng nh doanh nghiệp phải rất
nhanh nhạy để thích ứng, để làm chủ. Trình độ làm chủ thông tin, tri thức
(trong đó có sở hữu trí tuệ) có ý nghĩa quyết định sự phát triển của kinh tế.
Nếu nh trớc kia ngời ta thờng coi các yếu tố của sản xuất chỉ bao gồm lao
động và vốn, còn tri thức, công nghệ, giáo dục...là các yếu tố bên ngoài của
sản xuất có ảnh hởng tới sản xuất thì gần đây các nhà nghiên cứu kinh tế
nh Romer, Schumpeter, R. Solo... đều thừa nhận tri thức, công nghệ là yếu
tố bên trong của hệ thống kinh tế. Romer coi tri thức và công nghệ là yếu tố
thứ ba của sản xuất bên cạnh vốn và lao động. Lập luận này đã đợc các nhà
kinh tế chấp nhận. Ngời ta gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự
sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với
sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lợng cuộc sống (GS. VS.

Đặng Hữu UVTƯĐ, trởng ban khoa giáo trung ơng). Trong nền kinh tế tri
thức khoa học và công nghệ trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp, do đó
chiếm đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu
mới nhất của khoa học và công nghệ. Nền kinh tế tri thức với tất cả những
đặc trng cơ bản của nó đang đặt các nớc đứng những thời cơ lớn và những
thách thức lớn. Các nớc đang phát triển có cơ hội thu hẹp khoảng cách, cải
thiện vị thế của mình, đồng thời cũng đứng trớc nguy cơ tụt hậu xa hơn và
bị lệ thuộc nếu không tranh thủ đợc cơ hội, khắc phục yếu kém để vơn lên.
Tình hình đó đòi hỏi các nớc phải có một chiến lợc phát triển đúng đắn và
các giải pháp chủ yếu hợp lý.
12
2- Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan ngày càng có nhiều nớc tham
gia, đang bị một số nớc phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia
chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu
cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.
Toàn cầu hoá xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của
lực lợng sản xuất xã hội, sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và sự phát triển
của nền kinh tế hàng hoá, mở rộng thơng mại quốc tế. Toàn cầu hoá đã đợc
dự kiến và bắt đầu từ lâu, đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 phát triển rất
mạnh một phần quan trọng là nhờ vào sự phát triển bột phát của khoa học
và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin. Đến nay toàn cầu hoá đã lôi
cuốn hầu hết các nớc và mở rộng ra hầu nh khắp các lĩnh vực, từ lu chuyển
hàng hoá, dịch vụ đến đầu t, tài chính, công nghệ v.v... làm tăng sức ép
cạnh tranh, sự tuỳ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế. Hình thức hợp tác đa
phơng và song phơng giữa các quốc gia đang ngày càng sâu rộng, cả trong
kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trờng, phòng chống tội phạm, phòng chống
thiên tai, dịch bệnh. Mặt khác, các công ty đa quốc gia đang tiếp tục cấu
trúc lại, hình thành những tập đoàn khổng lồ chi phối các lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh quan trọng.
Trong xu hớng toàn cầu hoá hiện nay, đặc biệt toàn cầu hoá kinh tế

các nớc phát triển có nhiều thuận lợi về công nghệ, tiền vốn, thị trờng đều
muốn đẩy nhanh quá trình để mu lợi cao nhất cho mình, cho nên về cơ bản
toàn cầu hoá mang tính chất t bản chủ nghĩa. Song các nớc đang phát triển
không thể không tìm cách tranh thủ các điều kiện tích cực về thu hút vốn,
công nghệ và kinh nghiệm quản lý phục vụ cho sự phát triển của mình, nh-
ng cuộc cạnh tranh phát triển có nhiều rủi ro do kết cấu hạ tầng yếu kém và
điểm xuất phát thấp nên dễ bị thua thiệt, lệ thuộc. Vì vậy hội nhập quốc tế
là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh rất phức tạp, nhất là đấu tranh
chống sự chi phối của các cờng quốc kinh tế và các tập đoàn kinh tế lớn.
Các nớc đang phát triển cần chủ động hội nhập, phải lựa chọn những
ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
13
Nh vậy là cách mạng công nghệ và xu thế toàn cầu hoá đang là lợi
thế của Chủ nghĩa t bản, song không có nghĩa là lợi thế đó đang làm thay
đổi bản chất của Chủ nghĩa t bản. Cách mạng công nghệ và toàn cầu hoá
kinh tế cuối thế kỷ 20 giúp cho Chủ nghĩa t bản kéo dài sự tồn tại của nó,
song càng làm sâu sắc thêm các mâu thuẫn vốn có của nó cũng nh các mâu
thuẫn của thời đại ngày nay. Toàn cầu hoá đang diễn ra trớc mắt chúng ta
với bao nhiêu là mâu thuẫn đủ loại cực kỳ phức tạp, đan xen. Đó là mâu
thuẫn giữa một bên là quyền lực và lợi ích chi phối, thao túng của những thế
lực t bản quốc tế, các nớc t bản chủ nghĩa với một bên là chủ quyền và lợi
ích các quốc gia, dân tộc. Đó là mâu thuẫn giữa ngay các nớc t bản chủ
nghĩa, giữa các tập đoàn t bản với nhau. Đó là mâu thuẫn giữa tăng trởng
của cải với phân phối không công bằng dẫn tới phân cực giàu nghèo ngày
càng tăng giữa các quốc gia và trong mỗi nớc, giữa trung tâm với ngoại vi,
giữa Bắc và Nam , phân chia giàu nghèo ngày càng tăng ngay giữa các nớc
phát triển. Đó là mâu thuẫn giữa kinh tế thì tăng trởng với văn hoá, đạo đức,
xã hội thì suy đồi do tác động của mặt trái của kinh tế thị trờng toàn cầu
hoá. Thử đa ra vài số liệu:

Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc tỷ lệ thu nhập trung bình ở các nớc
giàu nhất với các nớc nghèo nhất năm 1960 là 30/1, năm 1990 là 60/1 và
năm 1997 là 74/1. Có 48 nớc kém phát triển nhất chiếm 10% dân số thế
giới nhng chỉ chiếm 0,1% tổng thu nhập. Trong khi đó nhóm nớc G7 chiếm
12% dân số nhng chiếm 62,5% tổng thu nhập thế giới; 200 ngời giàu nhất
thế giới có giá trị tài sản tơng đơng với tổng thu nhập của 2,6 tỷ ngời nghèo
khổ trên hành tinh.
Theo báo cáo của UNDP toàn thế giới còn 1,3 tỷ ngời nghèo, trong
đó 4,4 tỷ ngời ở các nớc đang phát triển, gần 3/5 sống thiếu các phơng tiện
vệ sinh cơ bản, gần 1/3 thiếu nớc, 1/4 không có nhà ở và 1/5 không có dịch
vụ y tế.
Cũng theo báo cáo của UNDP tổng số nợ nớc ngoài của các nớc
đang phát triển lên đến gần 2000 nghìn tỷ USD, trong đó 250 tỷ thuộc 41 n-
14
ớc kém phát triển nhất, nó là viên đá tảng đeo trên cổ , nó kéo lùi tăng tr-
ởng kinh tế, làm vi phạm quyền phát triển của các nớc đó. (17. Tr38).
Cốc Văn Khang, một học giả Trung Quốc, trong tác phẩm Cuộc đọ
sức giữa hai chế độ xã hội đã rất có cơ sở đúng đắn khi trả lời câu hỏi: Thế
giới t bản sẽ đi tới đâu? Điểm lại lịch sử phát triển của Đế quốc t bản, Ông
cho rằng đúng nh Mác đã nói trong bộ T bản: T bản mới ra đời lại có máu
và bùn nhơ rỉ ra từ các lỗ chân lông, từ đầu đến chân, bởi vì nó tớc đoạt đối
với bên ngoài trong thời kỳ tích luỹ ban đầu, trong thời kỳ t bản tự do và cả
trong thời kỳ t bản lũng đoạn. Dới tác động của cách mạng khoa học và
công nghệ bắt đầu từ những năm 80, chủ nghĩa t bản hiện đại đã đạt đợc
những kỳ tích, kinh tế đã bắt đầu phát triển. Trong báo cáo Tổng quan kinh
tế mới đây, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã đánh giá rằng tình trạng suy thoái
kinh tế ở các nớc t bản chủ yếu đã có chiều hớng chấm dứt. Tốc độ tăng tr-
ởng đã nhúc nhích đi lên. Năm 1994 đạt 3% trong khi năm 1991 chỉ đạt
0,1%. Các nớc thuộc nhóm G7 vẫn có nền kinh tế phát triển mạnh nhất.
Tốc độ tăng trởng của Mỹ đạt 3,7% năm 1994, Canađa 4,1%, Nhật Bản

0,9%. Nền kinh tế của các nớc EU có chiều hớng phát triển khá. GDP của
các nớc EU tăng từ 2,6% năm 1994 đến 2,9% năm 1995 và dự kiến 3,2%
năm 1996 (10. tr 30 - 31). Ông đánh giá tình hình đó là:
1. Một số rất ít các nớc t bản phát triển đã phát triển bằng cách hy sinh
sự phát triển của các nớc t bản khác.
2. Sự phát triển của các nớc t bản phát triển đợc đánh đổi bằng cách hy
sinh sự phát triển của thế giới thứ ba. (32. tr158).
Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa các nớc t bản với nhau, giữa các nớc t
bản phát triển với các nớc đang phát triển và kém phát triển ngày càng thêm
gay gắt và không thể giải quyết nổi.
Còn trong nội bộ bản thân các nớc t bản tình hình trên mọi mặt của
đới sống xã hội cũng không có gì là sáng sủa hơn trong quá trình phát triển.
Ngày nay chủ nghĩa t bản cùng với lực lợng sản xuất phát triển nhanh và trở
nên đồ sộ hơn so với trớc. Sự giàu có của các nớc t bản là có thật: nhà cửa
nguy nga tráng lệ, đờng xá - giao thông tối tân, hiện đại, hàng hoá chất đầy
15
ắp trong các nhà kho và ngày càng có nhiều chủng loại với nhiều hình thức
vô cùng phong phú, với hàng triệu mặt hàng trong một siêu thị. Đây là điều
mà sinh thời của Mác - Ăngghen ít ai nghĩ tới. Nhng sự giàu có đó, nh một
số học giả đánh giá là nền kinh tế bong bóng xà phòng và lại phân phối
không công bằng: Tổng giám đốc hãng Pho có thu nhập 13 triệu USD một
năm, trong khi đó công nhân bình thờng của hãng chỉ kiếm đợc 25 000
USD, có nghĩa là ngời đó phải làm việc trong 534 năm mới có đợc khoản
thu nhập đó; Giám đốc công ty Oan - Di - xnây có thu nhập 200 triệu USD
năm 1993, bằng thu nhập của 400.000 công nhân ở mức 500 USD/năm; Về
mức độ bóc lột theo tờ Lao động ngày nay của phong trào công đoàn Chi-
ca-gô cách đây gần 20 năm cũng thấy đợc sự tàn nhẫn của giới chủ: năm
1947, trong tám giờ làm việc một công nhân công nghiệp phải bỏ ra 3 giờ
23 phút để tạo ra một lợng hàng hoá đủ để trả mọi chi phí cho cuộc sống
hàng ngày nh tiền lơng, bảo hiểm xã hội, y tế, nghỉ ngơi... Năm 1981 ngời

đó chỉ phải làm 2 giờ 24 phút. Có nghĩa là trong suốt thời gian dài đó, giới
chủ đã cớp không 59 phút làm việc không trả tiền cho ngời lao động. Về
mức độ nghèo khổ, năm 1979 ở Mỹ 18,9% lao động trong biên chế đợc trả
lơng không đủ để họ vợt qua mức nghèo khổ. Đến năm 1989 con số này là
23,1% và đến giữa năm 1992 đã vợt quá 25,7%, có nghĩa là cứ 4 ngời đi
làm thì một ngời sống dới mức nghèo khổ. ở nớc láng giềng Ca-na-đa, tình
trạng cũng không có gì khá hơn. Thu nhập bình quân của 10% gia đình
nghèo nhất năm 1993 là 15.819 USD, ba năm sau đã giảm 13% còn 13.522
USD/ năm. Trong khi đó lơng của các giám đốc công ty tăng 15% năm
1995, 11% năm 1996 và 13% năm 1997, trung bình đạt 862.000 USD/năm
hoặc hơn 1,5 triệu USD nếu tính cả cổ phiếu. Còn lơng của công nhân chỉ
tăng 2% trong suốt thời gian đó, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ lạm phát.
Nớc Mỹ có tuổi đời 220 năm vẫn đợc một số ngời mệnh danh là nớc
giàu nhất thế giới, nhng ngời ta đã buộc phải hỏi: Sự giàu có của nớc Mỹ
thuộc về ai vậy một khi 30 triệu dân da đen hoàn toàn bị bỏ rơi, năm 1993
có tới 37,5 triệu ngời sống dới mức nghèo khổ, tăng 12,5 triệu ngời so với
năm 1970 , còn hiện nay 20% ngời giàu chiếm 85% tài sản của nớc Mỹ,
80% dân số còn lại chia nhau 15% tài sản quốc gia. Với số ngời đói khổ
16
ngày càng đông nh vậy, Chính phủ Mỹ phải giao cho một số nhà thờ mỗi
tuần có một bữa ăn kiểu phát chẩn cho ngời nghèo (46. tr8).
Rõ ràng dới chủ nghĩa t bản không bao giờ có khái niệm dân giàu
mà chỉ có khái niệm Ngời giàu và đây chính là điểm dừng của nó.
ở Mỹ tội ác tăng khủng khiếp, cứ 20 phút có một vụ giết ngời, mỗi
năm có 2,5 vạn ngời bị giết; 14,5 triệu ngời nghiện ma tuý thờng xuyên;
đồng tính luyến ái, mẹ độc thân (không chồng mà có con) là phổ biến, đã
làm cho nớc Mỹ da trắng kinh hoàng. Vô sản lu manh ở thành thị nhiễm đủ
thứ thói h, tật xấu hiện đại (ma tuý, nát rợu, bạo lực, loạn luân), trong phần
lớn các gia đình ngời da đen cứ 3 gia đình thì 2 gia đình con không bố...con
cái đánh đập cha mẹ là chuyện cơm bữa...Một chủ tiệm da trắng giết một nữ

sinh da đen thì đợc tha, còn một ngời đàn bà da đen đánh một con chó thì bị
qui vào tội ngợc đãi và phải ngồi tù 3 tháng; 35% dân số nớc Mỹ không hề
có bất cứ một tí đảm bảo xã hội nào, trong khi đó một ca sinh đẻ phải chi
phí 6.000 đôla, nếu mổ nằm viện 5 ngày phải chi phí 30.000 đôla. Chính
phủ Mỹ không làm bất cứ việc gì để ngăn chặn ma tuý, hơn thế nữa, họ cố
tình cho các chất độc hại này lu hành tự do cùng với vũ khí để cộng đồng
ngời da đen tự huỷ diệt mình. Đó là một thứ diệt chủng đợc cân nhắc rất kĩ,
một giải pháp cuối cùng đợc đề ra một cách lạnh lùng bởi những ngời lãnh
đạo của nớc Mỹ da trắng. Oen - đen Pho - xtơ, một ngời da đen ở Niu - óc
nói rằng: chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là đặc trng của nền pháp lí Mỹ,
một nền pháp lí không công nhận bất cứ một thứ quyền nào của ngời da
đen, nớc Mỹ là một nớc hung bạo. Tấn bi kịch Lốt An - giơ - lét chất vấn
toàn thể nhân dân... chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là một thứ ung th đang
tàn phá chúng ta. Hãy dẹp câu chuyện hoang đờng rằng Mỹ là xứ sở của
nhân quyền tự do; đừng có tự mình huyễn hoặc lấy mình nữa. Nếu không
ngày mai sẽ còn tệ hại hơn gấp bội ... Nền dân chủ Mỹ, đó cũng là sự
chuyên chế không tài nào chịu nổi của số đông các nhà chính trị khôn
ngoan không hơn không kém (46. tr9)
Theo các tài liệu của Liên Hiệp Quốc và tổ chức lao động quốc tế
(ILO), trong lực lợng lao động 2,8 tỷ ngời trên thế giới có 1,1 tỷ ngời sống
17
dới mức nghèo khổ, một tỷ ngời sống trong điều kiện nhà ở tồi tàn, 100
triệu ngời không có nhà ở, 900 triệu ngời thất nghiệp hoặc thiếu việc làm,
450 triệu ngời bị đói và suy dinh dỡng.
Rõ ràng là, khi lột cái vỏ hào nhoáng bên ngoài đi thì sự trần trụi của
nền văn minh t sản thật sự đáng ghê sợ. Một xã hội mà nền văn minh, giàu
sang chỉ là của một nhóm ngời, còn đa số nhân dân lao động thì đói rách,
bần hàn, trên cơ thể toàn xã hội còn đầy thơng tích, bệnh hoạn thì sức khoẻ
của cơ thể đó, những vấn đề của ngày hôm qua vẫn tiếp tục trầm trọng hơn
và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các n-

ớc t bản đã mang một tầm vóc mới (16).
Tất cả những tình hình kể trên xét cho cùng, đều bắt nguồn từ mâu
thuẫn cơ bản nhất, sâu xa nhất, bao trùm nhất của chủ nghĩa t bản là mâu
thuẫn giữa lực lợng sản xuất đợc xã hội hoá đến cao độ, vợt khỏi biên giới
quốc gia, với chế độ chiếm hữu t nhân t bản chủ nghĩa về t liệu sản xuất cơ
bản từ trong mỗi nớc, đặc biệt là các nớc lớn, bủa ra khắp toàn cầu, từ trung
tâm đến ngoại vi. Mâu thuẫn này cần đợc xét trong quan hệ biện chứng hai
mặt , không nên thấy bớc diễu hành chiến thắng của chủ nghĩa t bản mà
choáng ngợp. Còn phải thấy mặt khác là nếu nh Giai cấp t sản không thể
tồn tại nếu không luôn cách mạng hoá t liệu sản xuất thì cũng chính bằng
cách đó, về khách quan, nó đang đẩy nhanh việc tạo tiền đề cho một xã hội
tơng lai từ trong lòng chủ nghĩa t bản mà ngày nay là cả trên quy mô toàn
thế giơí. Cho nên chủ nghĩa t bản ngày càng không thể chấp nhận đợc trớc
toàn thế giới, không phải chỉ với giai cấp những ngời lao động, mà cả đối
với toàn nhân loại. Nhà tài phiệt Mỹ nổi tiếng G. Xô -rốt trong cuốn sách
khủng hoảng của Chủ nghĩa t bản toàn cầu cũng đã phải thừa nhận điều
đó. Ông Xô-rốt nói: Trớc hết, Chủ nghĩa t bản có hệ t tởng riêng của nó.
Tôi gọi đó là trào lu chính thống thị trờng. Hiện tại nó là một hệ t tởng rất
có ảnh hởng. Nhng nó không phải là một hệ t tởng duy nhất. Có nhiều ngời
cảm thấy rất không thoải mái với Chủ nghĩa t bản vì đó là một hệ thống vô
nhân đạo hiểu theo nhiều cách. Có những ngời lo ngại về sự thiếu công
bằng xã hội và tôi nằm trong số những ngời đó. Những ngời khác lo ngại về
18
sự xâm lợc chủ quyền quốc gia. Vì vậy trong thế kỷ 21 sẽ không phải là
thời điểm chấm dứt vấn đề hệ t tởng. Sẽ có nhiều cuộc xung đột mang hình
thức hệ t tởng(36.t ).
Rõ ràng chủ nghĩa t bản không phải là niềm hy vọng và tơng lai của xã
hội loài ngời. Tơng lai và niềm hy vọng đó loài ngời chỉ có thể trông đợi
vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
2. ở Việt Nam Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cũng

là một tất yếu lịch sử.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận chung để
nhận thức con đờng đi lên CNXH ở nớc ta. Từ một nớc có nền kinh tế kém
phát triển tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ T bản chủ nghĩa là sự lựa
chọn lịch sử duy nhất đúng của Đảng ta, của nhân dân ta và của Bác Hồ. ở
Việt Nam Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là lý tởng của
Đảng ta, dân tộc ta. Điều đó đã đợc khẳng định cả về lý luận và thực tiễn.
Trớc hết, độc lập dân tộc gắn với CNXH là một tất yếu lịch sử. Độc lập,
tự do là khát vọng của mọi dân tộc, là mục tiêu trực tiếp của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, đô hộ và xâm lợc của chủ nghĩa
đế quốc, thực dân; độc lập dân tộc khẳng định quyền làm chủ đất nớc và
quyền phát triển của dân tộc, sự thống nhất lãnh thổ và chủ quyền quốc gia,
đảm bảo sự độc lập và tự chủ trong mối quan hệ với các quốc gia, dân tộc
khác và với cộng đồng thế giới. Vì thế, yêu nớc, ý thức thuộc về một quốc
gia - dân tộc, lòng tự tôn, tự hào dân tộc, quyết tâm giành và bảo vệ nền độc
lập dân tộc nh là cái bẩm sinh, tâm linh vốn có ở mỗi con ngời trong mọi
quốc gia - dân tộc. Bình thờng, trong cuộc mu sinh ngời ta có thể phát sinh
mâu thuẫn, cạnh tranh với nhau, thậm chí lừa lọc nhau nhằm giành mục tiêu
lợi nhuận, nhng khi có giặc ngoại xâm, có kẻ thù làm phơng hại đến lợi ích
quốc gia - dân tộc thì mọi ngời sẵn sàng gạt bỏ mọi thù riêng mà lo toan
công việc chung của toàn dân tộc là toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chủ quyền
quốc gia.
ở Việt Nam cái yêu nớc ấy có rất sớm, từ trong buổi bình minh của lịch
sử dân tộc, nó đã trở thành truyền thống và đã đi vào ca dao, thần thoại.
19
Ngay từ thế kỷ XI (1077) Lý Thờng Kiệt trong cuộc đấu tranh chống giặc
Tống đã thay mặt nhân dân ta hát lên bài tuyên ngôn bất hủ: Sông núi nớc
Nam vua Nam ở, rành rành định phận ở sách trời, cớ sao quân giặc sang
xâm phạm, chúng bay sẽ bị đánh tơi bời . Nguyễn Trãi trong Bình Ngô
đại cáo đã nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cờng, khẳng định

đanh thép quyền đợc sống trong thái bình thịnh vợng của nhân dân ta. Hồ
Chủ Tịch trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc ở quảng trờng Ba Đình ngày 2
tháng 9 năm 1945 đã nêu nguyên lý: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sớng và
quyền tự do , từ đó Ngời khẳng định: Nớc Việt Nam có quyền hởng tự do
và độc lập, và sự thật đã trở thành một nớc tự do độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lợng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy . Khi nhận định về nhân dân, về dân tộc
Bác đã nói: Dân ta có lòng nồng nàn yêu nớc, đó là một truyền thống cực
kỳ quý báu của ta. Từ xa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần
yêu nớc ấy lại bùng lên sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng to lớn,
mạnh mẽ, nó lớt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bọn
bán nớc và lũ cớp nớc (7.Tr36). Kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác
động viên toàn dân: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nớc, nhất định không chịu làm nô lệ . Trong cuộc đấu tranh chống đế
quốc Mỹ xâm lợc Bác lại nói: Không có gì quý hơn độc lập tự do .
Yêu nớc, nhân dân ta đã đem hết tài năng và ý chí, tính mạng và của cải
phục vụ công cuộc đấu tranh và đã giành độc lập, tự do cho dân tộc vào
năm 1954 ở miền Bắc và vào năm 1975 trong phạm vi cả nớc. Nhng vấn đề
đặt ra là sau khi giành độc lập dân tộc chúng ta sẽ đi con đờng nào? Độc lập
dân tộc là mục tiêu trớc mắt, mục tiêu của giai đoạn thứ nhất của cách
mạng, có độc lập dân tộc rồi phải tiến tới phồn vinh dân tộc, phải làm cho
dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh . Con đờng đi
tới của cánh mạng Việt Nam đã đợc chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra sau bao
nhiêu năm bôn ba hải ngoại và đợc nêu ra trong Chánh cơng vắn tắt của
Đảng là làm t sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản (6. tr 295), vì nh Bác nói: nớc đợc độc lập mà dân không đợc
20
hởng hạnh phúc, tự do thì độc lập ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chỉ có
CNXH mới giải phóng đợc nhân dân lao động khỏi mọi áp bức, bất công,

mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Độc lập dân
tộc ngày nay gắn với dân chủ, tự do, bình đẳng và công bằng xã hội cho
quần chúng nhân dân lao động. Muốn vậy Độc lập dân tộc phải gắn với đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân và cách mạng XHCN, phải chuyển lên
CNXH. CNXH là đảm bảo chắc chắn và bền vững nhất cho nền độc lập của
dân tộc. CNXH thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, là cơ sở đảm bảo độc lập dân tộc thực sự. CNXH đảm bảo
sự phát triển phồn vinh dân tộc về kinh tế, văn hoá, tinh thần, tạo cơ sở kinh
tế - xã hội bền vững cho độc lập dân tộc.
Thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam dới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam là việc chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
với mục tiêu độc lập dân tộc lên cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu
CNXH. Đó là bớc chuyển tất yếu hợp quy luật, phù hợp với tiến trình cách
mạng nớc ta, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lợc thực dân cũ của đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ: trên nửa triệu quân
xâm lợc nhà nghề của thực dân Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu, khoảng
3.000 tỷ phrăng của nớc Pháp và 2 tỷ 600 triệu đô la Mỹ viện trợ tiêu phí vì
chiến tranh; 20 lần chính phủ Pháp bị đổ, 7 lần toàn quyền Pháp bị thay thế,
8 tổng chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau thua trận (40. tr218). Với thắng
lợi của cuộc kháng chiến, nhân dân ta đã bảo vệ và phát triển thành quả của
Cách mạng Tháng Tám, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đa miền Bắc đi lên
CNXH. Cũng với mục tiêu độc lập dân tộc nhân dân ta đã tiếp tục cuộc
chiến đấu chống bọn xâm lợc Mỹ. Trải qua 21 năm chiến đấu gian khổ
(1954 - 1975) nhân dân ta đã đánh tan cuộc chiến tranh can thiệp và xâm l-
ợc của Đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, năm đời tổng thống Mỹ nối chân
nhau điều hành qua bốn kế hoạch chiến lợc thực dân mới và chiến tranh
xâm lựơc. Chúng đã chi trực tiếp cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam tới 676
tỷ USD (so với 341 tỷ trong chiến tranh thế giới thứ 2 và 54 tỷ trong chiến
tranh Triều Tiên) và nếu tính cả chi phí gián tiếp thì lên tới 920 tỷ. Chúng

21
huy động lúc cao nhất 55 vạn quân viễn chinh, lôi kéo 5 nớc ch hầu với số
quân lúc cao nhất hơn 7 vạn vào cuộc chiến tranh, trực tiếp chiến đấu và
làm nòng cốt cho hơn một triệu quân Nguỵ tay sai. Năm tháng sẽ trôi qua,
nhng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nớc mãi mãi đợc ghi và lịch sử dân tộc ta nh một trong những trang chói lọi
nhất, một biểu tợng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng và trí tuệ con ngời, và đã đi vào lịch sử thế giới nh một chiến
công lớn vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn
và có tính thời đại sâu sắc (9. tr 5).
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi, Đảng ta rút ra một
bài học kinh nghiệm xuyên suốt quá trình cách mạng, làm nên chiến thắng
lẫy lừng của nhân dân ta là đờng lối giơng cao hai ngọn cờ: độc lập dân tộc
và CNXH. Đờng lối đó đã phát huy đợc truyền thống yêu nớc 4000 năm của
dân tộc, kết hợp với sức mạnh của phong trào cách mạng và tiến bộ, của
CNXH trong nớc và trên thế giới. Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã
nêu bật một chân lý: trong thời đại ngày nay, một dân tộc nớc không rộng,
ngời không đông, kinh tế kém phát triển, song đoàn kết chặt chẽ và đấu
tranh kiên quyết dới sự lãnh đạo của một đảng Mác - Lênin có đờng lối và
phơng pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ đôc lập dân tộc và
CNXH, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại thì hoàn
toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lợc, dù đó là nớc đế quốc đầu sỏ.
Nh vậy là dới sự lãnh đạo của Đảng - một đảng Mác xít -
Lêninnít chân chính, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng t tởng và kim chỉ nam cho hành động - nhân dân ta đã giành thắng
lợi trọn vẹn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sau thắng lợi,
nhân dân ta dới sự lãnh đạo của Đảng không thể lựa chọn con đờng t bản
chủ nghĩa. Đi theo chủ nghĩa t bản là trao quyền lãnh đạo cho giai cấp t sản,
đem lợi ích của đông đảo quần chúng lao động, mà vì lợi ích đó nhân dân ta
đã hy sinh biết bao xơng máu mới giành lại đợc, đặt vào tay giai cấp t sản

để rồi sau đó phải hy sinh một lần nữa để giành lại. Cũng qua thực tế chiến
đấu nhân dân ta hơn ai hết đã thấu hiểu bản chất áp bức bóc lột, phản động,
22
phản dân chủ, phản tiến bộ của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Trên thực tế từ
sau ngày miền Bắc đợc hoàn toàn giải phóng (năm 1954) Đảng đã lãnh đạo
nhân dân bớc ngay vào công cuộc xây dựng CNXH vừa để củng cố, phát
triển miền Bắc, làm cơ sở - hậu phơng - cho sự nghiệp giải phóng miền
Nam. Sau ngày đất nớc hoàn toàn độc lập thống nhất Đảng đã lãnh đạo cả
nớc đi lên CNXH.
Thực tiễn của quá trình cách mạng Việt Nam là quá trình kết hợp độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trớc năm 1954 sự nghiệp giải phóng dân
tộc của nhân dân ta vì mục tiêu trớc mắt là thoát khỏi áp bức lầm than của
chủ nghĩa Đế quốc, thực dân nhng sâu xa và căn bản hơn còn đợc thôi thúc
bởi mục tiêu chủ nghĩa xã hội, bởi hình ảnh của đất nớc Liên xô (cũ) và các
nớc Đông Âu xã hội chủ nghĩa nh Ba - Lan, Tiệp - Khắc, Cộng hoà dân chủ
Đức, Hung - Ga - Ri, Bun - Ga - Ri... mà cuộc sống của nhân dân các nớc
đó là thiên đờng, là ớc mơ của hàng triệu ngời lao động. Sau chiến thắng
Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, miền Bắc đợc hoàn toàn giải phóng, hai
miền thực hiện hai nhiệm vụ chiến lợc khác nhau nhng có quan hệ mật thiết
với nhau. Miền Bắc tiến hành khôi phục và cải tạo kinh tế, từng bớc tiến
nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội theo mục tiêu và đờng lối của Đảng
qua các kỳ đại hội. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc không
chỉ vì miền Bắc, mà còn biến miền Bắc thành hậu phơng lớn chi viện sức
ngời sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, trung tâm lãnh đạo cách mạng
cả nớc. Sau 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng kinh tế, ta đã phát triển
nhanh trên các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Cơ sở vật chất trong công nghiệp,
nông nghiệp, cơ sở hạ tầng bớc đầu đợc xây dựng: sản xuất công nghiệp
trong 5 năm 1955-1960 tăng bình quân 36,9%, 1961 - 1965 tăng13,6%; sản
xuất nông nghiệp 3 năm 1955 - 1957 tăng 10%, 1961 - 1965 tăng 5,6%.
Trong báo cáo tại hội nghị chính trị đặc biệt họp tháng 3 năm 1964 tại thủ

đô Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: Miền Bắc đã tiến những b-
ớc dài cha từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nớc, xã hội và con ngời đều
đổi mới . Hội nghị biểu thị khối đoàn kết toàn dân và ý chí quyết tâm sắt
đá chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Nhờ đó chúng ta có tiềm lực chi viện cho cách mạng Miền Nam: năm 1964,
23
bộ đội từ miền Bắc vào Nam chiến đấu tăng 14 lần so với năm 1960
(17.427/1.217) trong đó có nhiều cán bộ quân sự cấp cao có kinh nghiệm
xây dựng và tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực; vũ khí, phơng tiện vận
chuyển vào Nam tăng 10 lần so với năm 1960 (3.435 tấn/337 tấn (41. tr
311). ở miền Nam quân và dân ta đã liên tiếp đánh bại các chiến lợc chiến
tranh của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục
bộ, Việt Nam hoá chiến tranh... Thắng lợi đó có tác dụng trực tiếp tới sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc đồng thời góp phần bảo
vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Trung ơng Đảng và Bác Hồ. ở đây
tính biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách
hết sức độc đáo, chủ nghĩa xã hội không còn là một tơng lai mà đã đợc bắt
đầu thực hiện. Miền Bắc đánh Mỹ bằng sức mạnh của CNXH và của cả độc
lập dân tộc. Miền Nam đánh Mỹ bằng sức mạnh của độc lập dân tộc và của
cả CNXH. Miền Bắc mạnh không phải chỉ do CNXH đã trở thành chế độ
mà còn do sức mạnh của cả độc lập dân tộc, của ý chí giải phóng miền
Nam, thống nhất nớc nhà, sức mạnh ấy thôi thúc Mỗi ngời làm việc bằng
hai . Còn sức mạnh của miền Nam thì vừa là sức mạnh của độc lập dân tộc
vừa là sức mạnh của CNXH. Đồng bào miền Nam chiến đấu hy sinh không
chỉ để giải phóng miền Nam, mà còn để bảo vệ miền Bắc XHCN, để thống
nhất nớc nhà, để rồi cùng miền Bắc tiến lên CNXH. Sức mạnh của miền
Nam vừa là tại chỗ, vừa là bắt nguồn từ ngay miền Bắc - hậu phơng lớn và
căn cứ địa cách mạng của cả nớc.
Sau đại thắng mùa xuân 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, nớc
nhà độc lập thống nhất, bớc vào giai đoạn xây dựng CNXH trong phạm vi

cả nớc. Nhờ kiên định mục tiêu CNXH dựa trên nền tảng t tởng chủ nghĩa
Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí Minh, nhờ đờng lối đổi mới đúng đắn và nỗ
lực của của toàn Đảng, toàn dân nên mặc dầu CNXH ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chúng ta đã từng bớc
vợt mọi khó khăn trở ngại, khắc phục mọi sai lầm khuyết điểm, thoát ra
khỏi khủng khoảng kinh tế - xã hội, hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ của
chặng đờng đầu tiên, chuyển qua chặng đờng tiếp theo đẩy nhanh một bớc
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc để biến nớc ta thành một nớc công
24
nghiệp XHCN vào năm 2020. Đánh giá chung 10 năm thực hiện chiến lợc
kinh tế-xã hội (1991-2000) dự thảo báo cáo chính trị Đại hội lần thứ IX
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhận định: chúng ta đã giành đợc những
thành tựu to lớn và rất quan trọng. Biểu hiện trên một số mặt sau đây:
1. Tổng sản phẩm trong nớc (GDP) tăng bình quân hàng năm trong 10
năm là 7,5% (chiến lợc đề ra là 6,9 - 7,5%); giá trị sản xuất nông nghiệp
tăng 5,4% (mục tiêu là 4 - 4,2%); công nghiệp tăng 12,9% (mục tiêulà 9,5 -
12,5%) và các ngành dịch vụ tăng 8,2% (mục tiêu là 12 - 13%). Nổi bật
nhất là nông nghiệp phát triển liên tục góp phần quan trọng vào mức tăng
trởng chung và giữ vững ổn định kinh tế - xã hội.
2. Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế quốc dân tăng đáng kể, hệ thống tài
chính tiền tệ có tiến bộ và đổi mới; vốn đầu t phát triển kinh tế - xã hội tăng
đáng kể.
3. Kinh tế đối ngoại có bớc phát triển khá, vị thế của ta trên trờng quốc
tế đã đợc nâng cao.
4. Cơ cấu kinh tế có bớc chuyển dịch tích cực.
5. Trình độ dân trí, chất lợng nguồn lực và tính năng động trong xã hội
đợc nâng cao.
6. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội có bớc phát triển khá.
7. Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, tiềm lực an ninh quốc phòng của
đất nớc đã đợc tăng cờng. (Bài của đồng chí Trần Xuân Giá, UVTƯĐ Bộ tr-

ởng Bộ Kế hoạch và Đầu t)
Nh vậy về cơ bản ta đã khắc phục đợc tình trạng nớc nghèo và kém
phát triển, nâng cao khả năng độc lập, tự chủ, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh
công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Ông Đen - ni Đơ - trây, đại diện thờng trú
cao cấp quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) làm việc tại Việt Nam từ tháng 9 - 1999
nhận xét: Việt Nam có nhiều điều đáng tự hào trong dịp kỷ niệm lần thứ
55 ngày Độc lập. Một thập kỷ qua nền kinh tế Việt Nam đã chuyển mình
đáng kinh ngạc, từ giữa những năm 80 khi ngời dân còn tất tả ngợc xuôi lo
miếng ăn, chốn ở thì nay điều họ quan tâm là mua loại xe máy gì, dùng loại
25
ti vi nào. Có đợc những thành tựu thật sự về mức sống của ngời dân là nhờ
đổi mới, chính sách cải cách mạnh mẽ Việt Nam tiến hành từ năm 1986
(Báo Nhân Dân 23.8.2000).
Có một vấn đề đặt ra là, từ một nớc kinh tế kém phát triển chúng ta
lựa chọn con đờng tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa.
Một số nớc xung quanh ta, có điều kiện giống ta, họ lựa chọn con đờng t
bản chủ nghĩa và họ đã thành công , đã hoá rồng , đó là Nhật Bản, Đài
Loan, Xinh Ga Po, Hồng Công, Hàn Quốc... Phải chăng con đờng phát triển
theo chủ nghĩa t bản là đúng đắn, là có triển vọng? Hai tác giả Trần Khuê và
Nguyễn Thị Thanh Xuân đã rất có lý khi cho rằng: Chớ nhầm lẫn về sự
cất cánh của năm con rồng vì những con rồng Châu á đợc hởng khối lợng
viện trợ của Mỹ rất lớn và họ đã sử dụng có hiệu quả những khoản viện trợ
này. Theo thống kê, từ năm 1952 - 1989 toàn bộ đầu t của Mỹ vào Đài Loan
là 2,75 tỉ USD, của Nhật là 2,86 tỉ USD và của Tây Âu là 1,73 tỷ USD.
Ngoài ra còn 3,56 tỷ USD là của Hoa Kiều.
Còn Nhật Bản thì chiến tranh Triều Tiên đã có ảnh hởng quan trọng
đến sự phát triển và hồi sinh của kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950 - 1954 Mỹ
đặt hàng quân nhu trị giá 4 tỷ USD, cộng với 2 tỷ USD viện trợ trớc đó là 6
tỷ USD.
Chính những con số viện trợ khổng lồ cộng với việc chuyển giao công

nghệ của chủ nghĩa t bản phơng tây đã tạo những lực đẩy chính cho sự phát
triển kinh tế ở các nớc hoá rồng (47).
Bài học rút ra ở đây là muốn Hoá Rồng phải có vốn và công nghệ chứ
không phải nhờ lựa chọn con đờng t bản chủ nghĩa. Cho nên Việt Nam
trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, một mặt phải giữ vững độc
lập tự chủ, đồng thời phải mở cửa, hoà nhập, phải đa phơng đa dạng trong
quan hệ quốc tế, phát huy nội lực nhng đồng thời tranh thủ nguồn vốn từ
bên ngoài.
Phải khẳng định rằng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là chân
lý của thời đại ngày nay. Việc Đảng và nhân dân ta lựa chọn mục tiêu chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn có tính lịch sử duy nhất đúng. Sự lựa chọn đó

×