Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.87 KB, 89 trang )

1

LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành xu hướng phát triển
chung của thế giới. Việt Nam không thể đứng ngoài xu hướng này mà
phải nắm bắt cơ hội để đưa đất nước nhanh chóng hội nhập với khu
vực và thế giới một cách chủ động, tích cực, đạt hiệu quả cao. Thực
hiện chủ trương đó, trong những năm qua Việt Nam đã tích cự tham
gia vào quá trình này, hiện Việt Nam đã là thành viên của ASEAN,
APEC, ASEM, đã ký kết hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ và
trong năm 2006 Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
WTO và chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO kể từ ngày
11/01/2007.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng có
không ít thách thức cho các quốc gia đang phát triển. Bởi vì, Hội nhập
kinh tế quốc tế nhằm tới đích là tự do hóa thưong mại, điều này cũng
đồng nghĩa với việc phải dỡ bỏ những rào cản do các nước lập nên
nhằm hàng hoá di chuyển giữa các nước được thuận lợi hơn trên cơ sở
cạnh tranh bình đẳng. Lợi ích lớn nhất của tự do hoá thương mại là
thúc đẩy ngày càng nhiều nước tham gia buôn bán trao đổi hàng hoá
từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tranh thủ được vốn, khoa học-công
nghệ, nguyên liệu, thị trường…, người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa
chọn hàng hoá tốt hơn với giá rẻ hơn. Tuy nhiên không phải ngẫu
nhiên mà các nước lại dựng lên những hàng rào làm ảnh hưởng đến sự
lưu thông hàng hoá. Lý do để các nước làm việc này là nhằm bảo hộ
sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hoá bên ngoài. Điều


2

này có ý nghĩa lớn vì sản xuất trong nước mà bị suy giảm sẽ ảnh


hưởng đến công ăn việc làm, ảnh hưởng đến ổn định xã hội; ảnh
hưởng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến cán cân
thanh toán, nguy cơ bệnh tật gia tăng do hàng hoá nhập khẩu…Tự do
hoá thương mại ở những mức độ khác nhau sẽ làm yếu đi hoặc mất
dần các hàng rào nói trên và như thế sẽ làm ảnh hưởng đến mục đích
đặt ra khi thiết lập hàng rào.
Trong các rào cản được các nước sử dụng gồm thuế quan và biện
pháp phi thuế quan. Trong đó thuế quan chiếm vị trí quan trọng trong
đàm phán thương mại. Bởi vì mục tiêu của đàm phán thương mại là
nhằm gỡ bỏ rào cản đối với lưu thông hàng hoá giữa các nước mà thuế
quan là rào cản quan trọng nhất.
Đối với nước ta, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp cho Việt Nam
có thêm cơ hội giao lưu kinh tế với nhiều nền kinh tế, có thêm nhiều
đối tác kinh doanh, mở rộng thị trường, thu hút thêm nguồn vốn đầu
tư nước ngoài. Từ đó có thể tận dụng được những nguồn lực từ bên
ngoài để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Tuy nhiên, nền
kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp, cơ sở vật chất còn nghèo
nàn, lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật còn yếu kém cùng với hệ
thống pháp luật còn chưa hoàn chỉnh, khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam, hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới là
rất thấp.Vì vậy, trong quá trình hội nhập, nhà nước phải áp dụng các
chính sách bảo hộ đối với nền kinh tế để giúp các ngành kinh tế có thể
đứng vững trước sự cạnh tranh khốc liệt của xu hướng toàn cầu hóa.
Vấn đề đặt ra ở đây là bảo hộ với những ngành kinh tế nào, bảo hộ ở


3

mức độ nào mới là hợp lý? Pháp luật thuế nhập khẩu phản ánh rõ nhất
mức độ hội nhập và sự bảo hộ của nhà nước đối nới nền kinh tế. Vì

vậy cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu như
thế nào để vừa có thể bảo hộ đúng mức, hợp lý dựa trên năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế, đồng thời bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa
vụ và các cam kết của mình với tư cách là thành viên của các tổ chức
kinh tế quốc tế. Hay nói cách khác pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt
Nam cần phải được xây dựng và hoàn thiện như thế nào để đảm bảo
cho việc hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
đạt hiệu quả cao nhất.
Từ những trăn trở trên đây, em đã quyết định chọn đề tài: “Pháp
luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế ” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình với mục đích được
tham gia làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật thuế
nhập khẩu ở nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa pháp luật thuế nhập
khẩu Việt Nam với những cam kết quốc tế của Việt Nam; bước đầu
đưa ra những đánh giá những sự tương thích và chưa tương thích của
nó với luật pháp quốc tế và với những cam kết của Việt Nam trong
tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, từ đó đề xuất một số những
giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế nhập nhằm đáp ứng yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện yêu cầu của đề tài đặt ra, kết cấu khoá luận được
trình bày bao gồm ba chương (ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo) cụ thể như sau:


4

Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế nhập khẩu và
pháp luật về thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương II: Thực trạng pháp luật thuế nhập khẩu trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Chương III: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật
thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế


5

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ NHẬP KHẨU
VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU
KIÊN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
1.1.Khái quát chung về thuế nhập khẩu
1.1.1.Khái niệm, đặc điểm của thuế nhập khẩu
Sản xuất hàng hoá phát triển, xuất hiện các quan hệ trao đổi
hàng hoá được thực hiện giữa các tổ chức, cá nhân ở các quốc gia
khác nhau. Các quốc gia đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá
mang qua cửa khẩu, biên giới nước mình. Thứ thuế này gọi là thuế
quan. Có nước thuế quan chỉ là thuế nhập khẩu không bao gồm thuế
xuất khẩu.
Tùy thuộc vào từng giai đoạn lịch sử và điều kiện kinh tế – xã
hội của mỗi nước mà thuế quan được sử dụng với nhiều mục tiêu khác
nhau. Ở những nước kinh tế phát triển hàng hoá có sức cạnh tranh lớn,
thị trường ổn định, thuế quan với ý nghĩa là công cụ bảo hộ sản xuất
trong nước, điều chỉnh hoạt động ngoại thương ít được coi trọng, thậm
chí nhiều nước muốn xoá bỏ. Còn ở những nước đang phát triển trong
đó có nước ta, thuế quan là loại thuế rất quan trọng không chỉ trong
việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước hàng năm mà quan trọng
hơn, nó còn là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước để kiểm soát hoạt
động nhập khẩu hàng hóa với nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước
và thực hiện các mục tiêu đối ngoại của Chính phủ trong từng thời

kỳ... Điều này xuất phát từ hai lý do :
- Nền sản xuất trong nuớc còn yếu, chưa đủ khả năng cạnh tranh;


6

- Nguồn tài chính eo hẹp, thu nhập dân cư thấp thì thuế quan là
nguồn thu chính và dễ hành thu.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế nhâp khẩu tùy
thuộc vào góc độ tiếp cận.
Xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu được quan niệm là
khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà
nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi nhập khẩu hàng
hóa, dịch vụ qua biên giới một nước.Với cách tiếp cận này, thuế nhập
khẩu được quan niệm như là một quan hệ phân phối các nguồn lực tài
chính, phát sinh giữa các chủ thể là tổ chức, cá nhân nộp thuế với
người thu thuế là Nhà nước.Mặt khác, thuế nhập khẩu còn có thể được
hiểu như là đòn bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để Nhà nước điều
tiết trực tiếp đối với quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi
quốc gia và chi phối một cách gián tiếp đối với hoạt động kinh tế trên
phạm vi khu vực và toàn cầu.
Xét trên phương diện pháp lý, thuế nhập khẩu là quan hệ pháp
luật phát sinh giữa Nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân
(người nộp thuế), về việc tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ
pháp lý cho các bên trong quá trình hành thu thuế nhập khẩu.Quan hệ
pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý là đạo luật thuế nhập khẩu do
Quốc hội ban hành mà hậu quả pháp lý chủ yếu của việc áp dụng đạo
luật đó trong thực tiễn là làm phát sinh quyền thu thuế cho Nhà nước
và nghĩa vụ đóng thuế cho các tổ chức,cá nhân là người nộp thuế.
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa

qua biên giới với nước ngoài được điều tiết và kiểm soát bởi hai công


7

cụ chủ yếu là “hàng rào thuế quan” và “hàng rào phi thuế quan”.Hàng
rào thuế quan ở những nước này được hiểu thực chất là thuế nhập
khẩu đánh vào hàng hóa nhập khẩu, chứ không bao gồm cả thuế xuất
khẩu đánh vào hàng hóa xuất khẩu như Việt Nam hay Trung Quốc.
Do có quan niệm khác nhau như trên giữa các nước về nội hàm khái
niệm “thuế quan” nên chính sách thuế quan của các nước cũng có sự
khác nhau. Nhưng khái niệm thuế quan được Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) định nghĩa đồng nhất với thuế nhập khẩu :“Thuế hải quan
đánh vào hàng hóa nhập khẩu gọi là thuế quan.Thuế quan tạo ra lợi
thế về giá cả cho hàng hóa sản xuất trong nước so với hàng hóa tương
tự được nhập khẩu và đem lại nguồn thu cho các chính phủ1.”
Tuy nhiên, trên thực tế chưa có một định nghĩa thống nhất, hoàn
chỉnh mang tính pháp lý về thuế nhập khẩu. Dựa trên Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 và Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung
năm 2005 thì thuế nhập khẩu có thể được định nghĩa là loại thuế đánh
vào hàng hóa được nhập khẩu vào “những khu vực trong lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, nơi Luật hải quan được áp
dụng”.Từ định nghĩa này, có thể thấy thuế nhập khẩu có đặc điểm sau:
Thứ nhất, thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng
hóa được phép vận chuyển qua biên giới. Khái niệm “hàng hóa” là đối
tượng chịu thuế nhập khẩu có thể hiểu theo nghĩa “là các động sản bao
gồm hàng hóa nhập khẩu, vật dụng trên phương tiện vận tải nhập
cảnh, hành lý, tiền, kim khí quý, đá quý, cổ vật, văn hóa phẩm, bưu
phẩm và các loại tài sản khác…Chúng có mã số và tên gọi theo quy

1

Giáo trình Luật thuế Việt Nam- Đại học Luật Hà Nội


8

định của pháp luật, được nhập khẩu vào địa bàn hoạt động hải quan
Việt Nam” (khoản 1, khoản 2, điều 4 Luật hải quan sửa đổi, bổ sung
năm 2005).
Thuế nhập khẩu không tác động vào đối tượng nhập khẩu là các
loại hình dịch vụ.
Thứ hai, thuế nhập khẩu về bản chất là thuế gián thu, tuy nhiên
tính gián thu chỉ có ý tương đối. Điều này thể hiện ở chỗ, khi một nhà
nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và tự tiêu dùng số hàng hóa nhập khẩu
đó chứ không bán ra bên ngoài thì khi đó khoản thuế nhập khẩu đã
nộp có tính chất là thuế trực thu vì chính người nhập khẩu vừa là
người nộp thuế đồng thời là người chịu thuế. Ngược lại, khi nhà nhập
khẩu đã nộp thuế nhập khẩu và bán lại số hàng hóa đó cho người khác
thì số tiền thuế nhập khẩu đã nộp có xu hướng chuyển sang cho người
mua hàng chịu và khi đó, khoản thuế nhập khẩu này lại có tính chất là
thuế gián thu, vì người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một.
Có điều này là vì theo Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005
và Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 thì không có sự phân biệt
tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa có mục đích kinh doanh hay
không kinh doanh.
Thứ ba, thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại
của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ bởi hoạt động ngoại thương là
một trong những hình thức hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại mà
thuế nhập khẩu là công cụ góp phần thực hiện vai trò quản lý, kiểm

soát hoạt động ngoại thương của Nhà nước. Việc tác động bằng thuế
nhập khẩu vào hàng hóa nhập khẩu không chỉ để tạo nguồn thu cho


9

ngân sách nhà nước mà còn thể hiện cả những chủ trương, chính sách
đối ngoại của nhà nước đó.
Thứ tư, thuế nhập khẩu được quản lý thu bởi cơ quan chuyên
trách là cơ quan Hải quan.
Thứ năm, thuế nhập khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu tố đặc biệt là
yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia.
1.1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là một công cụ quan trọng và cần thiết của mỗi
nhà nước để thực hiện các mục tiêu sau:
Thứ nhất, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
Cũng giống như bất kỳ loại thuế nào, thuế nhập khẩu có chức
năng tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.Ở nước ta, trong những
năm đầu của thập kỷ 90, do Nhà nước có chính sách mở rộng hoạt
động ngoại thương nên đã thúc đẩy các hoạt động xuất, nhập khẩu
hàng hóa phát triển.Theo đó, số thu về thuế xuất, nhập khẩu cũng tăng
nhanh, chiếm tỷ trọng đáng kể (từ 25% đến 30%) trong tổng số thu về
thuế và trở thành khoản thu quan trọng của ngân sách Nhà nước.
Những năm gần đây, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tự do
hóa thương mại, Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo các
cam kết quốc tế nhưng thuế nhập khẩu vẫn là nguồn động viên một
phần quan trọng cho ngân sách Nhà nước.Theo số liệu công khai ngân
sách nhà nước của Bộ tài chính từ năm 2000 đến năm 2005 thu hải
quan luôn chiếm từ 20% đến 25% tổng thu ngân sách nhà nước.Cụ thể
:



10

Năm

2000 2001 2002 2003 2004

2005

Tỷ trọng thu hải quan
trong tổng thu ngân sách 20,9

22,1

25,5

23,8

21,3

20,6

nhà nước
Nguồn : Bộ tài chính
Thứ hai, là công cụ điều tiết hoạt động ngoại thương, hướng
dẫn tiêu dùng xã hội
Thuế nhập khẩu là thuế gián thu, việc đánh thuế nhập khẩu cao
hay thấp nó ảnh hưởng đến giá cả, từ giá cả ảnh hưởng sức mua, qua
đó nhà nước điều tiết hoạt động ngoại thương và hướng dẫn tiêu dùng

xã hội . Chẳng hạn, Nhà nước muốn giảm bớt nhập khẩu các hàng hoá
mà nhà nước không khuyến khích vì ảnh hưởng tới đời sống, môi
trường, đạo đức xã hội (ví dụ như rượu bia, thuốc lá, ô tô…) Nhà
nước sẽ đánh thuế nhập khẩu cao vào hàng hoá này dẫn đến giá bán
của hàng hoá đó cao, người tiêu dùng không dễ dàng thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng của mình nên hạn chế tiêu dùng, sức mua của hàng hoá
đó giảm xuống như vậy buộc nhà nhập khẩu hàng hoá đó hạn chế
nhập khẩu vì nhập nhiều sẽ không tiêu thụ được.
Thứ ba, là công cụ hỗ trợ và bảo hộ nền sản xuất trong nước
Thông qua thuế nhập khẩu, nhà nước gián tiếp tác động vào việc
điều tiết sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu đánh thuế ở mức khác
nhau đối với từng loại hàng hoá nhập khẩu, từ đó điều chỉnh khả năng
cạnh tranh của hàng hóa chịu thuế trên thị trường và từ đó tạo ra sự
phân bổ lại nguồn lực trong các ngành sản xuất. Điều đó thể hiện như
sau: khi một ngành sản xuất được nhà nước chú trọng đầu tư phát triển


11

thì chính sách thuế nhập khẩu dành cho nguyên liệu, máy móc, trang
thiết bị sản xuất phải nhập khẩu từ nước ngoài sẽ thấp trong khi thuế
nhập khẩu đánh vào hàng hóa tiêu dùng lại cao hơn.
So với các loại thuế nội địa khác như thuế giá trị gia tăng, thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất…thì thuế
nhập khẩu có vai trò khá đặc thù, đó là bảo hộ nền sản xuất trong
nước, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước với
hàng hóa ngoại nhập. Điều này xuất phát từ đặc trưng cơ bản của thuế
nhập khẩu là đánh vào các hàng hóa nhập khẩu và sau đó được cấu
thành trong giá cả của hàng hóa đó.Vai trò này của thuế nhập khẩu
được thê hiện như sau:

Đối với hàng hóa nhập khẩu, do bị đánh thuế nhập khẩu nên về
lý thuyết, giá cả của loại hàng hóa này trên thị trường nước nhập khẩu
sẽ tăng lên, trong khi đó các hàng hóa được sản xuất trong nước do
không phải chịu thuế nhập khẩu nên giá thành sản phẩm của loại hàng
hóa này có xu hướng rẻ hơn và do đó có sức cạnh tranh cao hơn so với
hàng ngoại nhập. Điều này cho thấy việc đánh thuế nhập khẩu thực
chất là một biện pháp để bảo hộ nền sản xuất trong nước, khi Chính
phủ nhận thấy những bất lợi nghiêng về phía các hàng hóa được sản
xuất từ các doanh nghiệp trong nước. Đối với nước ta có một số ngành
công nghiệp non trẻ cần được đầu tư, về lâu dài nó có khả năng sinh
lợi và phát triển cần được sự bảo hộ trong khoảng thời gian nhất định.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho
nó phát triển đồng thời có chính sách thuế quan có tính bảo hộ hợp lý
ngành sản xuất trong nước đó theo tinh thần bảo hộ có chọn lọc – có
điều kiện và có thời hạn, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.


12

Ngoài ra, thuế nhập khẩu còn là cơ sở cho việc đàm phán trong
thương mại quốc tế. Đối với những nước kinh tế phát triển thuế nhập
khẩu còn mục tiêu chính trị: áp dụng chính sách thuế quan ưu đãi với
một số quốc gia thân thiện hoặc sử dụng nó như biện pháp trả đũa
trong chính sách đối ngoại hoặc gây sức ép chính trị với quốc gia khác
;
1.2.Khái quát chung về pháp luật thuế nhập khẩu
1.2.1.Khái niệm pháp luật thuế nhập khẩu
Pháp luật về thuế nhập khẩu là danh từ pháp lý dùng để chỉ tập
hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, tính

thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lý
các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu, phát sinh giữa Nhà nước
với người nộp thuế.
Xét về phương diện hình thức, pháp luật về thuế nhập khẩu bao
gồm các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của
Quốc hội, nghị định và nghị quyết của Chính phủ, quyết định và chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ, quyết định, thông tư và chỉ thị của các
bộ…Còn xét trên phương diện nội dung, pháp luật về thuế nhập khẩu
lại bao hàm các vấn đề chủ yếu như phạm vi áp dụng (được thể hiện
qua các quy định về chủ thể nộp thuế và đối tượng chịu thuế, đối
tượng không chịu thuế nhập khẩu), căn cứ tính thuế nhập khẩu, chế độ
miễn giảm thuế nhập khẩu và hoàn thuế nhập khẩu, xử lý vi phạm và
giải quyết tranh chấp về thuế nhập khẩu…


13

Ngày nay, trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập
kinh tế quốc tế đang trở thành xu hướng toàn cầu thì việc hình thành,
thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan đến thuế nhập khẩu là
điều tất yếu. Do đó, nội hàm của khái niệm thuế nhập khẩu không chỉ
quy định trong pháp luật quốc gia mà còn bao hàm cả quy định trong
pháp luật quốc tế có liên quan trực tiếp đến thuế nhập khẩu như Hiệp
định CEPT(Common Effective Preferential Tarriff – Hiệp định ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung), Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ, Hiệp định WTO…Nguồn của pháp luật thuế nhập khẩu còn là các
điều ước song phương hoặc đa phương khác mà quốc gia tham gia
hoặc ký kết. Những Hiệp định này sau khi có hiệu lực sẽ được áp
dụng trực tiếp ngay cho các quan hệ về thuế nhập khẩu giữa Nhà nước
và người nộp thuế hoặc được “nội luật hóa” tại các nước thành viên

hiệp định để áp dụng một cách hiệu quả.
Như vậy, nội hàm của khái niệm “pháp luật về thuế nhập khẩu”
phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ các quy định trong pháp
luật quốc gia mà còn bao gồm cả các quy định trong pháp luật quốc tế
về thuế nhập khẩu2 .
1.2.2. Những yếu tố chi phối pháp luật thuế nhập khẩu trong
điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
Trong điều kiện Việt Nam đang ở trong giai đoạn phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh
tế quốc tế theo xu hướng chung của thế giới thì pháp luật thuế nhập
khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là bị chi phối của
2

Giáo trình Luật thuế Việt Nam-Đại học Luật Hà Nội


14

các quan hệ kinh tế. Trong rất nhiều yếu tố chi phối đến pháp luật thuế
nhập khẩu thì có một số yếu tố cơ bản sau :
Thứ nhất, chính sách phát triển kinh tế của nhà nước:
Chính sách kinh tế của một quốc gia là sự điều hành của nhà
nước đối với nền kinh tế của một quốc gia. Chính sách kinh tế thực
chất thể hiện thái độ, quan điểm của nhà nước đối với các quan hệ
kinh tế và được thể hiện thông qua hệ thống pháp luật. Pháp luật thuế
nhập khẩu nằm trong hệ thống các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh
tế của quốc gia nên khi hệ thống này có sự thay đổi thì bản thân pháp
luật thuế nhập khẩu cũng có sự thay đổi để phù hợp với toàn bộ hệ
thống. Điều này thể hiện rõ nhất khi có sự thay đổi trong chính sách
kinh tế đối ngoại.

Pháp luật thuế nhập khẩu thể hiện chính sách thương mại quốc
tế của quốc gia. Chính sách thương mại gồm hai dạng điển hình là
chính sách tự do hóa thương mại và chính sách bảo hộ mậu dịch. Hai
xu hướng này tuy về mặt lý thuyết chúng trái ngược nhau nhưng trên
thực tế chúng lại tồn tại song song với nhau. Chính sách tự do hóa
thương mại nhằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh bình đẳng giữa hàng
hóa trong nước với hàng ngoại nhập thông qua việc cắt giảm thuế xuất
khẩu hoặc các biện pháp khuyến khích khác để thúc đẩy xuất khẩu,
xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế nhập khẩu để hàng hóa nước ngoài tràn vào
nhằm mở rộng thị trường nội địa, đặc biệt là hàng hóa nước mình sản
xuất với chi phí cao. Đây là quá trình giảm bớt sự can thiệp mang tính
chất bảo hộ của nhà nước vào hoạt động thương mại, theo đó vai trò
của nhà nước chỉ nên giới hạn ở việc tạo ra môi trường phù hợp cho


15

các quan hệ thương mại.Chính sách bảo hộ mậu dịch lại bảo hộ nền
sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài
bằng cách áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu cao đối với một số mặt
hàng nhập khẩu. Pháp luật thuế nhập khẩu có chức năng đặc thù là bảo
hộ nền sản xuất trong nước, chống lại xu hướng cạnh tranh không cân
sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa nước ngoài. Nhưng trong
điều kiện hộ nhập kinh tế quốc tế, xu hướng tự do hóa thương mại
ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trên thê giới thì pháp luật thuế
nhập khẩu cũng phải theo xu hướng giảm dần mức thuế suất. Như vậy,
pháp luật thuế nhập khẩu luôn bị ảnh hưởng của chính sách thương
mại quốc tế trong quá trình hội nhập.
Thứ hai, những yêu cầu và cam kết trong hội nhập kinh tế quốc
tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của các quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm
2001), Đảng ta nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách
quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một
số nước phát triển vá các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi
phối,chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu
cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”. Như vậy, các quốc gia không
thể đứng ngoài xu hướng toàn cầu hóa mà phải nắm bắt những cơ hội
của nó để đưa đất nước nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế. Hội
nhập kinh tế quốc tế thể hiện qua việc một quốc gia tham gia vào các
tổ chức hay liên minh kinh tế quốc tế giữa hai nước, trong khu vực
hay trên thế giới. Sự tham gia đó được chứng nhận thông qua việc


16

quốc gia tiến hành ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa
phương và quốc gia đó phải tuân thủ những điều ước đó một cách
nghiêm túc ngay khi điều ước đó có hiệu lực.Để làm được điều này thì
quốc gia thành viên phải xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp
với quy chế của điều ước quốc tế đã ký kết. Luật thuế nhập khẩu là
một trong hệ thống pháp luật quốc gia, nó là loại thuế phản ánh rõ
nhất tiến trình hội nhập của quốc gia đó nên khi xây dựng hệ thống
pháp luật thuế nhập khẩu thì mỗi quốc gia phải “nội luật hóa” các cam
kết quốc tế về thuế nhập khẩu bằng cách bổ sung, ban hành các quy
định mới về thuế nhập khẩu hoặc sửa đổi những quy định cũ về thuế
nhập khẩu để phù hợp với các cam kết đó.
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ
ngày 7/11/2006 và chính thức trở thành thành viên của WTO từ này
15/01/2007. Trước khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã tiến hành

cải cách hệ thống pháp luật (như Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
sửa đổi, bổ sung năm 2005 là một ví dụ) để tương thích với các quy
chế của WTO. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật bổ sung, hướng dẫn thực hiện các quy định
pháp luật thời kỳ hậu WTO.Như vậy, những yêu cầu về hội nhập kinh
tế quốc tế và viêc thực hiện các cam kết thương mại quốc tế đã ảnh
hưởng rất lớn đến hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật thuế nhập
khẩu.
Thứ ba, nhu cầu thu ngân sách của nhà nước
Ngân sách nhà nước được hình thành để Nhà nước thực hiện
việc điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội, đồng thời tạo ra các hàng


17

hóa, dịch vụ công cộng phục vụ cho người dân. Thuế, trong đó có thuế
nhập khẩu là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Thuế nhập
khẩu tuy có chức năng chính là bảo hộ nền sản xuất trong nước trước
sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài nhưng đối với Việt nam - một
nước đang phát triển thì thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng
của ngân sách nhà nước. Những số liệu về tỷ trọng của số thu hải quan
so với tổng thu ngân sách nhà nước từ trong nhưng năm qua đã thể
hiện rõ điều đó (từ năm 2000 đến năm 2005 số thu hải quan luôn
chiếm hơn 20% trong tổng thu ngân sách nhà nước). Khi hội nhập
kinh tế quốc tế, Việt Nam ký kết và thực hiện các cam kết về thương
mại quốc tế, trong đó có những cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu. Việc
cắt giảm này cũng gây ra những tác động đến nguồn thu ngân sách
nhà nước. Khi thuế nhập khẩu bị cắt giảm, giá cả một số mặt hàng
như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước ngoài cũng
giảm theo. Từ đó, những sản phẩm sản xuất trong nước cũng tăng lên

về sản lượng và giảm giá thành. Việc hàng hóa trong nước tăng về số
lượng và giảm về giá thành sẽ thúc đẩy nhu cầu mua sắm, tiêu dùng
trong nước và làm tăng thu ngân sách nhà nước từ các loại thuế khác
như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp…Mặt khác, khi
Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại quốc tế thì những nước
thành viên khác cũng phải cắt giảm thuế quan, điều này sẽ kích thích
các doanh nghiệp trong nước tăng lượng hàng xuất khẩu và từ đó sẽ
tăng thu ngân sách từ các hoạt động xuất khẩu đó. Như vậy, việc cắt
giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh
trong nước và tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên việc


18

giảm thuế nhập khẩu cũng làm cho nguồn hàng nhập khẩu trở nên dồi
dào với giá thành thấp, từ đó đặt hàng hóa trong nước vào tình thế
phải cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa ngoại nhập. Các doanh nghiệp
trong nước sẽ phải tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh, nâng cao
chất lượng đồng thời hạ giá thành sản phẩm nếu như không muốn bị
loại ra khỏi cuộc chơi. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu cũng làm giảm đi
một một nguồn thu khá quan trọng của ngân sách nhà nước và cũng
giảm đi một phần thu từ các loại thuế khác có liên quan đến nhập khẩu
như thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt…Như
vậy, viêc cắt giảm thuế nhập khẩu vừa làm giảm nguồn thu ngân sách
nhà nước từ hàng nhập khẩu nhưng đồng thời lại làm tăng nguồn thu
tương ứng cho ngân sách nhà nước từ các loại thuế khác. Số thu ngân
sách nhà nước sẽ không thay đổi nhiều nếu như Việt Nam thực hiện
các cam kết thương mại quốc tế.Tuy nhiên sẽ có sự thay đổi trong cơ
cấu thu ngân sách nhà nước. Vì vậy, khi tiến hành xây dựng chính
sách pháp luật thuế nhập khẩu thì phải tính đến nhu cầu thu ngân sách

nhà nước để bảo đảm cho ngân sách quốc gia có được nguồn thu ổn
định lành mạnh.
Thứ tư, thực trạng kinh tế -xã hội của quốc gia
Pháp luật bao giờ cũng là sự phản ánh dưới hình thức pháp lý
các quan hệ xã hội, một sự phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi xã
hội. Để phát huy được vai trò, tác dụng của mình trong đời sống xã
hội, pháp luật luôn phản ánh đúng, đầy đủ hiện thực khách quan,
những tiến trình đang diễn ra trong cuộc sống xã hội. Nếu không có
những khảo sát, đánh giá từ thực tiễn cuộc sống thì không thể có cơ sở


19

khoa học và thực tiễn xác đáng để xây dựng và thực hiện pháp luật,
không phát huy được vai trò của nó trong cuộc sống.
Đối với pháp luật thuế nhập khẩu có mục tiêu quan trọng là công
cụ khuyến khích hộ trợ bảo vệ nền sản xuất trong nước việc ban hành
sửa đổi, bổ sung bộ phận pháp luật này cần thiết căn cứ thực trạng
phát triển của nền sản xuất trong nước, sức cạnh tranh của hàng hoá
nước mình trên thị trường quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế các quốc gia phải cam kết giảm thuế quan theo lộ
trình nhất định. Vì vậy mỗi quốc gia cần phải nghiên cứu đánh giá
những lợi thế so sánh trong từng ngành hàng cụ thể để xác định những
ngành hàng sản xuất nào cần được bảo hộ, mức độ bảo hộ và thời hạn
bảo hộ…Đối với hàng hoá có uy tín trên trường quốc tế có khả năng
cạnh tranh cao thì không cần sự bảo hộ mà lấy đó làm cơ sở cho việc
đàm phán về thuế quan với các quốc gia khác...Qua đó có những cơ sở
cho việc đàm phán thương mại và quy định mức thuế đối với từng
nhóm hàng hoá nhập khẩu trong pháp luật thuế nhập khẩu của mình.
Từ thực trạng hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá để phát hiện ra

hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế và tác
động cụ thể của nó đối với nền kinh tế quốc gia mình để từ đó ban
hành sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật thuế nhập khẩu
nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia mình trong khuôn khổ cho phép.
Ngoài những yếu tố trên, pháp luật thuế nhập khẩu còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác như ý chí chủ quan của nhà lập pháp,
trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thực hiện
pháp luật thuế nhập khẩu hay trình độ nhận thức của người dân…


20

1.3. Những nguyên tắc và quy định của WTO về thuế quan
và những vấn đề có liên quan đến thuế quan.
WTO là một tổ chức lớn, gồm nhiều thành viên với hệ thống luật
lệ khá rộng và phức tạp. Trong các quy định về thuế quan ngoài hiệp
định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1994) còn rất nhiều
hiệp định cụ thể hoá các điều trong GATT 1994 có liên quan đến thuế
quan. Nhìn chung, mục tiêu của các hiệp định trong WTO đều hướng
tới mục tiêu tự do hoá thương mại cạnh tranh công bằng, bình đẳng
trong thương mại…
-Tự do hoá thương mại là việc dỡ bỏ những rào cản do các nước
lập nên nhằm làm cho luồng hàng hoá di chuyển từ nước này sang
nước khác được thuận lợi hơn trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Những
hàng rào nói trên là thuế quan, giấy phép nhập khẩu, quy định về tiêu
chuẩn chất lượng hàng hoá, yêu cầu kiểm dịch, phương pháp đánh
thuế …Các hàng rào nói trên đều là những đối tượng của các hiệp
định mà WTO đang giám sát và thực thi. Trên cơ sở lý thuyết lợi thế
so sánh, lợi ích lớn nhất của tự do hoá thương mại là thúc đẩy ngày
càng nhiều nước tham gia buôn bán trao đổi hàng hoá từ đó thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế. Với người tiêu dùng hàng hoá lưu thông dễ dàng
hơn đem lại lợi ích cho họ cơ hội lựa chọn hàng hoá tốt hơn với giá rẻ
hơn. Tuy nhiên không phải ngẫu nhiên mà các nước lại dựng lên
những hàng rào làm ảnh hưởng đến sự lưu thông hàng hoá. Lý do để
các nước làm việc này là nhằm bảo hộ sản xuất trong nước trước sự
cạnh tranh của hàng hoá bên ngoài. (Điều này có ý nghĩa lớn vì sản
xuất trong nước suy giảm sẽ ảnh hưởng đến công ăn việc làm, ảnh


21

hưởng đến ổn định xã hội), tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
(thông qua thu thuế quan); tiết giảm ngoại tệ (chi mua hàng hoá nhập
khẩu); bảo vệ sức khoẻ cho con người và động thực vật khỏi những
hàng hoá kém chất lượng hay có nguy cơ bệnh tật…Tự do hoá thương
mại ở những mức độ khác nhau sẽ làm yếu đi hoặc mất dần các hàng
rào nói trên và như thế sẽ làm ảnh hưởng đến mục đích đặt ra khi thiết
lập hàng rào.
1.3.1. Các nguyên tắc chung về thuế quan và thương mại
Trong hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) có
đặt ra bốn nguyên tắc nền tảng, cụ thể gồm:
Thứ nhất, Chỉ được phép bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế
quan, không cho phép hạn chế định lượng trừ những trường hợp đặc
biệt.
Mặc dù GATT chủ trương về một nền thương mại tự do toàn
cầu, nhưng GATT cũng công nhận rằng do trình độ phát triển của các
nước còn khác nhau và mỗi nước cũng có những mục tiêu riêng cần
theo đuổi nên GATT cho phép các nước duy trì bảo hộ chống lại sự
cạnh tranh của nước ngoài. Sự bảo hộ này được phép duy trì với hai
điều kiện: ở mức độ hợp lý và thể hiện thông qua thuế quan.

Bảo hộ ở đây có nghĩa là bảo vệ hỗ trợ cho sản xuất trong nước
thông qua thuế quan và hàng rào phi thuế quan. (Hàng rào phi thuế
quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở đối với
thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học hoặc bình
đẳng như hạn ngạch, cấm nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, quyền
kinh doanh nhập khẩu, yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá,


22

kiểm dịch, phương pháp xác định trị giá tính thuế hải quan; quy định
về xuất xứ hàng hoá…). Bảo hộ hợp lý sẽ giúp cho nền sản xuất trong
nước có điều kiện vươn lên thích nghi dần với môi trường cạnh tranh
quốc tế. Nhưng nếu bảo hộ tràn lan không có điều kiện, không có thời
hạn thì sẽ đem lại hiệu quả xấu cho nền kinh tế vì nó làm suy yếu môi
trường cạnh tranh, dẫn đến doanh nghiệp ỷ lại vào bảo hộ của nhà
nước mà không chịu sự vận động trên thị trường bằng chính năng lực
của mình.
Việc bảo hộ thông qua thuế quan để bảo đảm tính minh bạch và
dễ đoán trước. Thuế quan thể hiện bằng đại lượng rõ ràng là những
con số, do đó người ta dễ dàng nhận thấy mức độ bảo hộ dành cho
một mặt hàng, ngành hàng .Thuế quan cao tức mức bảo hộ cao vì như
vậy hàng hoá tương tự của nước ngoài khó xâm nhập thị trường.
Thông qua đàm phán và lịch trình giảm thuế quan của một nước,
người ta cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc dự đoán tốc độ cắt giảm thuế
quan, đồng nghĩa với những thay đổi trong mức độ bảo hộ và mức độ
mở cửa thị trường. Chính vì thế thuế quan chiếm vị trí quan trong
trong đàm phán thương mại. Sở dĩ như vậy vì mục tiêu của đàm phán
thương mại là nhằm gỡ bỏ rào cản đối với lưu thông hàng hoá giữa
các nước mà thuế quan là rào cản quan trọng nhất.

Chỉ bảo hộ bằng thuế quan hay nói cách khác phải thuế quan hoá
tức là sự lượng hoá tác dụng bảo hộ của các biện pháp phi thuế quan.
WTO cho phép các nước thành viên WTO được nâng mức thuế suất
thuế quan lên để bù lại việc bỏ bảo hộ bằng các biện pháp phi thuế
quan.


23

Hạn chế định lượng: thể hiện dưới các hình thức cụ thể như hạn
ngạch, cấm, giấy phép, chỉ tiêu… là những biện pháp phi thuế quan
điển hình gây cản trở luồng di chuyển tự do của hàng hoá giữa các
nước. Đây thường là những biện pháp võ đoán ít dựa trên những căn
cứ khoa học mà chủ yếu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. WTO coi
những biện pháp này làm hạn chế rõ rệt tác dụng của tự do thương
mại, đồng thời lại không thể tính toán, dự đoán được trước nên yêu
cầu xoá bỏ chúng. Thay vào đó nhu cầu bảo hộ nếu có sẽ phải thể hiện
thành thuế quan.
Các biện pháp tương tự thuế quan: Là từ chỉ các loại phí, lệ phí
hoặc phụ thu áp dụng đối với hàng nhập khẩu cao quá mức cần thiết
do đó làm tăng chi phí nhập khẩu. Các biện pháp này đòi hỏi người
nhập khẩu nộp một khoản tiền nhất định nhưng đây lại không phải là
tiền trả cho thuế nhập khẩu. Vì thế chúng được gọi là tương tự thuế
quan. Các biện pháp này cũng có tác dụng bảo hộ nhất định nên đôi
khi cũng được coi là một hàng rào phi thuế quan và bị yêu cầu loại bỏ.
Thứ hai, Thuế quan phải giảm dần và bị ràng buộc không tăng
trở lại.
Ngay sau khi kết thúc đàm phán, các nước phải giảm thuế quan
nhưng không phải giảm ngay mức đã thoả thuận trong vòng đàm phán
mà việc giảm thuế quan thường diễn ra từ từ qua một số năm để các

ngành sản xuất trong nước có thể thích nghi dần với việc giảm bảo hộ
qua thuế quan. Các mặt hàng công nghiệp thường giảm thuế quan
trong thời hạn 5 năm với mức giảm bằng nhau cho mỗi năm. Các mặt
hàng nông sản thường được giảm thuế quan trong 6 năm.


24

Sau mỗi vòng đàm phán, thuế suất mà các nước thoả thuận với
nhau được ghi vào một bản gọi là danh mục thuế quan. Mỗi nước có
một bản danh mục riêng. Thuế suất ghi trong bản danh mục này được
gọi là thuế suất ràng buộc tức là sau này nước đó sẽ không được phép
tăng thuế suất cao hơn mức thuế suất đã ghi trong danh mục. Như vậy
nếu đã đưa ra danh mục thuế quan là mặt hàng đó đã bị ràng buộc,
những mặt hàng không đưa vào danh mục thuế quan thì được tự do
tăng mức thuế suất.
Thuế suất trần là một sự nới rộng của thuế suất ràng buộc.
Thông thường sau khi đàm phán, các nước phải áp dụng thuế suất đã
đạt được tại đàm phán và không tăng lên quá mức này. Nhưng đối với
một mặt hàng nào đó, nước đàm phán có thể đưa ra một mức thuế cao
hơn mức thuế đang áp dụng gọi là mức thuế suất trần. Sau này, nước
đó có thể tăng thuế quan lên đến mức thấp hơn hoặc bằng thuế thuế
suất trần mà không bị coi là vi phạm GATT. Trong trường hợp này,
thuế quan bị ràng buộc không phải ở mức thuế đang áp dụng mà là
mức thuế suất trần. Như vậy thuế suất trần có tác dụng như là một sợi
dây bảo hiểm cho quá trình giảm thuế quan.
Về nguyên tắc sau khi đã ràng buộc thuế quan thì sẽ không được
tăng thuế suất quá mức ràng buộc. Tuy nhiên có ngoại lệ, nếu một
nước thực sự muốn tăng mức độ bảo hộ với một mặt hàng nào đó đã
trót cam kết ràng buộc ở mức thuế suất thấp, nước đó cần phải đàm

phán với các nước cung cấp chủ yếu mặt hàng đó để được phép tăng
thuế suất cao hơn thuế suất ràng buộc (hoặc cao hơn thuế suất trần nếu
mặt hàng đó có chỉ định thuế suất trần). Thông thường, nước đó phải


25

đánh đổi bằng cách chịu nhượng bộ ở một mặt hàng khác. Còn trong
trường hợp khẩn cấp, khi lượng hàng nhập khẩu tăng đột biến đe doạ
đến sản xuất trong nước thì nước có thể tăng thuế quan quá mức ràng
buộc, nhưng chỉ sau một quá trình điều tra khách quan và đủ căn cứ.
Danh mục thuế quan: đó là tập hợp tất cả các cam kết thuế quan
và những ưu đãi khác của một nước thành viên WTO sau các vòng
đàm phán thương mại. Theo điều II của GATT danh mục thuế quan là
những cam kết ràng buộc có tính pháp lý.
Danh mục thuế quan bao gồm mã số, mô tả hàng hoá, thuế suất
ràng buộc, ngày đạt được thoả thuận ưu đãi và quyền đàm phán ban
đầu.
Các danh mục thuế quan của vòng đàm phán Uruguay chia làm
hai phần: nông nghiệp và phi nông nghiệp. Cả hai phần đều có thuế
suất cơ sở và thuế suất ràng buộc, quyền đàm phán ban đầu, các loại
thuế và phí khác. Ngoài ra trong phần nông nghiệp còn nêu thời gian
thực hiện và biện pháp tự vệ đặc biệt.
Thứ ba, nguyên tắc không phân biệt đối xử bao gồm cả đối xử
tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
Tối huệ quốc có nghĩa là việc dành cho một nước những ưu đãi
thương mại không kém hơn những ưu đãi dành cho một nước thứ ba.
(Điều I, GATT)
Đãi ngộ quốc gia là việc dành cho hàng hoá nước ngoài sau khi
trả thuế hải quan , những ưu đãi không kém thuận lợi hơn hàng hoá

sản xuất trong nước cùng loại. Quy chế này thể hiện sự đói xử công


×