Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Những điểm mới của chế độ bảo hiểm hưu trí trong luật Bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.35 KB, 60 trang )

1

Lời mở đầu
20 năm qua với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn
Đảng, toàn dân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Cùng với sự phát triển kinh tế,
các vấn đề xã hội nói chung cũng được quan tâm ở mức độ thích
đáng; việc làm, thu nhập, đời sống của đội ngũ lao động và sau lao
động không ngừng được cải thiện. Là một bộ phận của chính sách bảo
hiểm xã hội , chế độ hưu trí đang là vấn đề bức xúc hiện nay, bởi lẽ
nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người lao động khi về già. Trong
bối cảnh nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trườngcó sự quản lý của Nhà nước, khi mà có sự phân tầng và phân
cực xã hội đang diễn ra ngày càng rõ nét giữa người lao động và
người sử dụng lao động nên chế độ bảo hiểm hưu trí phải là sự tương
trợ cộng đồng, là người trẻ giúp người già nhằm giảm bớt những bất
cập bảo đảm xã hội, bảo đảm cuộc sống vật chất và tinh thần cho
người lao động khi về hưu an dưỡng lúc tuổi già.
Để thực hiện yêu cầu này, trong những năm gần đây Nhà
nước đã đầu tư rất nhiều cho việc nghiên cứu cải cách chế độ bảo
hiểm xã hội nói chung, chế độ bảo hiểm hưu trí nói riêng. Cho đến
nay, những nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm hưu trí đã được luật hoá
và định hình một cách cụ thể bằng việc ban hành luật bảo hiểm xã hội
mới có hiệu lực từ ngày 1/1/2007. Vì chế độ bảo hiểm hưu trí giữ vị
trí quan trọng trong hệ thống bảo hiểm xã hội, là vấn đề quan tâm của
tất cả mọi người lao động, nên việc đi sâu tìm hiểu, phân tích, đánh
__________________________ ______________________________________


2


giá những điểm tiến bộ, những mặt còn tồn tại của các quy định mới
về bảo hiểm hưu trí, từ đó đưa ra phướng hướng hoàn thiện trong thời
gian tới là việc làm cần thiết. Hơn nữa, từ khi luật BHXH 2006 có
hiệu lực chưa có tài liệu nào đề cập đến nội dung này, do đó em chọn
đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình là: “Những điểm mới của
chế độ bảo hiểm hưu trí trong luật BHXH 2006” . Mặc dù chế độ
bảo hiểm hưu trí bao gồm 2 nội dung: chế độ bảo hiểm hưu trí tự
nguyện và chế độ bảo hiểm hưu trí bắt buộc, nhưng do thời gian có
hạn, việc gộp chung chúng lại trong giới hạn một khoá luận tốt nghiệp
sẽ không đảm bảo tính sâu sắc, chi tiết, cụ thể, vì thế em tạm thời chỉ
đề cập đến nội dung của chế độ bảo hiểm hưu trí bắt buộc trong khoá
luận này, còn chế độ bảo hiểm hưu trí tự nguyện em sẽ dành để
nghiên cứu vào dịp khác.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là phương
pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác với kim chỉ nam là chủ
nghĩa Mác – Lênin. Điều này sẽ tạo sự gắn bó và logic trong toàn bộ
đề tài.
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp phân tích, so sánh,
tổng hợp, phương pháp lịch sử với ý nghĩa thực tiễn là nhằm giúp cho
nghiên cứu đề tài tốt hơn.
Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, khoá luận được kết cấu làm 3
chương:

Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm hưu trí

và sự cần thiết đổi mới chế
độ bảo hiểm hưu trí.

__________________________ ______________________________________



3

Chương II: Những điểm mới của chế độ bảo hiểm hưu trí theo
luật BHXH 2006
Chương III: Đánh giá và kiến nghị hoàn thiện chế độ bảo hiểm
hưu trí ở nước ta.

__________________________ ______________________________________


4

Chương i
khái quát chung về bảo hiểm hưu trí
và sự cần thiết đổi mới chế độ bảo hiểm hưu trí
1.1. Khái quát chung về chế độ bảo hiểm hưu trí:
1.1.1. Quan niệm về chế độ bảo hiểm hưu trí:
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải lao
động, trong quá trình lao động con người luôn luôn tác động vào tự
nhiên và tác động qua lại lẫn nhau để tạo ra những sản phẩm, những
giá trị cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình. Sản phẩm tạo ra
càng nhiều thì đời sống con người càng đầy đủ, văn minh – nghĩa là
việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người
phụ thuộc vào khả năng lao động của chính họ. Nhưng một mặc,
trong quá trình tác động, khai thác tự nhiên, con người luôn chịu sự
tác động của quy luật khách quan, các điều kiện tự nhiên và điều kiện
xã hội, những tác động này nhiều khi con người không kiểm soát nổi
làm ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh sống, làm việc của người lao
động. Mặc khác cuộc sống con người luôn tuân theo quy luật: Sinh ra,

trưởng thành, tuổi già và chết. Khi sinh ra phải dựa vào sự nuôi dưỡng
và chăm sóc của cha mẹ, khi lớn lên thì phải tự lao động để nuôi sống
mình và những người phụ thuộc. Trong quá trình đó, con người
không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi mà nhiều khi gặp khó khăn, bất
lợi làm cho bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống
khác như: bị ốm đau, tai nạn, mất việc làm, tuổi già,...Khi rơi vào các
trường hợp đó các nhu cầu cần thiết của cuộc sống tăng lên, có khi
__________________________ ______________________________________


5

xuất hiện thêm các nhu cầu mới. Để vượt qua những khó khăn, rủi ro
phát sinh, từ lâu người ta thường áp dụng các biện pháp phòng ngừa,
khắc phục hậu quả khác nhau, trong đó hữu hiệu nhất là lập quỹ dự
trữ và tiến hành bảo hiểm tập trung trên phạm vi toàn xã hội. Về vấn
đề này, Các Mác đã khẳng định: “Vì nhiều rủi ro khác nhau nên dành
phải dành một số thặng dư nhất định cho quỹ bảo hiểm xã hội để đảm
bảo cho sự mở rộng theo kiểu lũy tiến quá trình tái sản xuất ở mức
độ cần thiết, phù hợp với sự phát triển của nhu cầu và tình hình tăng
dân số”1
Hệ thống bảo hiểm xã hội ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ
XIX là công trình của chính phủ Đức dưới thời thủ tướng Bismark
(1883-1889) với cơ chế 3 bên (Nhà nước – Giới chủ – Giới thợ) cùng
đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động trong một số trường
hợp họ gặp rủi ro. Chế độ bảo hiểm xã hội này bao gồm: Chế độ bảo
hiểm ốm đau (1883), bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp (1884), và bảo
hiểm tuổi già, tàn tật( 1889). Sau đó, trước tác dụng tích cực của bảo
hiểm xã hội trong quan hệ lao động, nhiều nước bắt đầu áp dụng hệ
thống bảo hiểm xã hội. Từ những năm 30 của thế kỷ XX, một số nước

còn mở rộng thêm những chế độ khác ngoài bảo hiểm xã hội và xuất
hiện khái niệm mới Social Security (an sinh, an toàn xã hội). Bản
tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua
ngày 10/12/1948 cũng quy định:”Tất cả mọi người với tư cách là
thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo đảm xã hội … quyền đó
được đặt ra trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội “.
Trong xã hội hiện đại, các Nhà Nước cũng nhận thấy rằng người lao
1

Xem: C. Mác – Ph.Ăngghen tuyển tập, t5. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984.

__________________________ ______________________________________


6

động là nguồn lực chính, là thành phần quan trọng nhất của xã hội .
Nếu cuộc sống của những người lao động và những người không còn
tham gia vào quan hệ lao động nữa gặp khó khăn sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến sản xuất, đến vấn đề ổn định xã hội. Vì vậy, bảo hiểm xã
hội , bảo hiểm hưu trí luôn được chính phủ các nước coi là một trong
những chính sách cơ bản mà Nhà Nước cần quan tâm. Trong đó, chế
độ bảo hiểm hưu trí có tầm quan trọng đặc biệt đối với người lao
động, là một trong các trụ cột của bảo hiểm xã hội. Do đó, đến nay,
hầu hết các nước có quy định về bảo hiểm xã hội trên thế giới đều quy
định và thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí, với mục đích nhằm đảm
bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động sau khi đã hoàn thành
nghĩa vụ lao động đối với xã hội, đảm bảo ổn định cuộc sống cho
người lao động khi họ đã hết tuổi lao động về nghỉ hưu an dưỡng lúc
tuổi già.

Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động Quốc tế, được Hội đồng
quản trị của Văn phòng Lao động Quốc tế triệu tập tại Giơ - ne-vơ
ngày 4 tháng 6 năm 1952, trong kỳ họp thứ 35; sau khi đã quyết định
chấp thuận 1 số đề nghị về các quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội,
là vấn đề thuộc điểm thứ 5 trong chương trình nghị sự kỳ họp; sau khi
đã quyết định rằng những đề nghị đó sẽ mang hình thức 1 Công ước
quốc tế, nó được thông qua ngày 28/6/1952, có tên là Công ước số
102 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội. Công ước gồm 87 điều
chia làm 14 phần, trong đó có đưa ra 9 dạng trợ cấp như sau:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
__________________________ ______________________________________


7

3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già (hưu bổng)
5. Trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp thai sản
8. Trợ cấp tàn tật
9. Trợ cấp tiền tuất
Các quốc gia phê chuẩn công ước này phải áp dụng ít nhất 3
trong số 9 dạng trợ cấp nói trên, trong đó phải bao gồm : hoặc trợ cấp
thất nghiệp, hoặc trợ cấp tuổi già hoặc trợ cấp tai nạn lao động – bệnh
nghề nghiệp hoặc trợ cấp tàn tật hoặc trợ cấp tiền tuất. Việc lựa chọn
dạng trợ cấp để áp dụng tuỳ thuộc vào từng quốc gia, nhưng nhìn
chung là chỉ có thể ở mức cao hơn các quy định trong công ước chứ
không được thấp hơn. Trong đó, trợ cấp tuổi già được quy định từ

Điều 25 đến Điều 30 trong phần V của công ước. Các trường hợp
được bảo vệ là tình trạng sống lâu hơn một độ tuổi quy định. Độ tuổi
quy định không được quá 65, tuy nhiên các nhà chức trách có thẩm
quyền có thể ấn định một độ tuổi cao hơn, xét theo khả năng làm việc
của những người cao tuổi trong nước đó.
Công ước số 128 ngày 7/6/1967: công ước về trợ cấp tàn tật,
tuổi già và tiền tuất quy định thêm: “nếu độ tuổi quy định bằng hoặc
cao hơn 65, độ tuổi đó phải được hạ thấp trong những điều kiện quy
định nhằm mục đích cấp trợ cấp tuổi già, đối với những người đã làm
những công việc được pháp luật quốc gia coi là nặng nhọc hoặc độc
hại.
__________________________ ______________________________________


8

Người được bảo vệ đã có một thâm niên 30 năm đóng góp hay
làm việc. Mức trợ cấp tối thiểu so với thu nhập (trước đó) là 40% (với
người có vợ ở tuổi về hưu). Các trường hợp nhận trợ cấp phải được
trả trong suốt thời gian xảy ra trường hợp bảo vệ. Tuy nhiên, trợ cấp
có thể bị đình chỉ nếu người thụ hưởng tiến hành những hoạt động có
thu nhập đã được quy định, hoặc có thể giảm bớt trợ cấp có tính chất
đóng góp khi thu nhập của người đó vượt quá một mức quy định và
có thể giảm bớt trợ cấp không có tính chất đóng góp khi thu nhập hay
những phương tiện sinh sống khác của người đó, hoặc cả hai thứ cộng
lại vượt quá một mức quy định.
Trên đây là những quy phạm tối thiểu mà tổ chức lao động
quốc tế (ILO) đã đưa ra, các quốc gia là thành viên phê chuẩn công
ước chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ pháp lý, nghĩa là khi công ước có
hiệu lực thì nước đó phải áp dụng trong pháp luật và thực tiễn nước

mình nội dung của công ước; những quy định không phù hợp cần sửa
đổi, bổ sung, trừ những quy định có lợi hơn cho người lao động.
Như vậy, theo quan điểm của ILO và hầu hết các nước trên thế
giới, bảo hiểm hưu trí là chế độ bảo hiểm quan trọng, chủ yếu giành
cho người già, người cao tuổi, sau một thời gian dài tham gia lao
động và đóng góp cho quỹ bảo hiểm. Kể từ khi đủ điều kiện hưởng,
người lao động không phải đóng quỹ bảo hiểm nữa mà được hưởng
bảo hiểm lâu dài, không xác định thời hạn, cho đến hết cuộc đời họ.
Vì vậy, việc xác định thời gian đóng, tuổi được hưởng và mức hưởng
là những nội dung quan trọng của bảo hiểm hưu trí.

__________________________ ______________________________________


9

ở Việt Nam, chế độ bảo hiểm hưu trí là một trong các chế độ
nòng cốt trong hệ thống bảo hiểm xã hội và nó luôn được bổ sung,
hoàn thiện hơn, vì bất cứ người lao động nào cũng sẽ đến lúc già yếu,
hết tuổi lao động nhưng vẫn có nhu cầu được đảm bảo cuộc sống và
lương hưu là nguồn thu nhập chính của họ trong lúc này. Chính vì vậy
mà trong lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí là
một trong những chế độ bảo hiểm được thực hiện sớm nhất.
Khi còn bị Pháp đô hộ, chính quyền thực dân tuy không thực
hiện nhiều chế độ bảo hiểm nhưng đã thực hiện chế độ bảo hiểm hưu
trí cho người lao động . Tuy nhiên, đối tượng áp dụng chế độ bảo
hiểm này còn rất hạn hẹp, chủ yếu là những người tham gia phục vụ
cho chính quyền thực dân.
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngay sau khi giành
được chính quyền cũng đã quan tâm đến chế độ bảo hiểm xã hội dài

hạn, trong đó có chế độ bảo hiểm hưu trí đối với người lao động. Sắc
lệnh 54/SL ngày 1/1/1945 ấn định những điều kiện cho công chức về
hưu. Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định cấp hưu bổng cho công
chức. Sắc lệnh 76 ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể hơn chế độ trợ cấp
hưu trí đối với công chức. Sắc lệnh 77 ngày 22/5/1950 ấn định cụ thể
các chế độ trợ cấp hưu trí đối với công nhân. Tuy nhiên, do hoàn cảnh
chiến tranh kéo dài , kinh tế còn nghèo nàn nên chính sách bảo hiểm
xã hội , bảo hiểm hưu trí còn hạn chế. Sau hoà bình lặp lại, ngày
27/12/1961 Chính phủ đã ban hành điều lệ bảo hiểm tạm thời kèm
theo Nghị định số 218/CP về bảo hiểm xã hội cho công nhân viên
chức Nhà Nước trong đó có chế độ hưu trí. Tiếp đến ngày 18/9/1995
__________________________ ______________________________________


10

cùng với việc cải cách chế độ tiền lương , Hội đồng bộ trưởng ban
hành Nghị định số 236/HĐBT sửa đổi bổ sung các quy định về cách
quy đổi thời gian công tác, cũng như quy định lại cách tính lương hưu
trong chế độ hưu trí.
Tuy nhiên, chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ bảo
hiểm hưu trí nói riêng thực sự có thay đổi căn bản bắt đầu từ năm
1993 với nghị định số 43/CP (ngày 23/6/1993) và tiếp sau đó là các
quy định của Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành .
Những đổi mới qua tất cả các thời kỳ đều tập trung vào các nội dung
quan trọng của bảo hiểm hưu trí như đối tượng tham gia, điều kiện
tuổi đời, thời gian đóng và hưởng trợ cấp .
Như vậy, Việt Nam cũng như các nước khác, chế độ hưu trí là
một trong những chế độ bảo hiểm xã hội được Nhà nước hết sức quan
tâm, luôn có sự sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với thực

tế. Người lao động tham gia bảo hiểm khi hết tuổi lao động hoặc
không còn tham gia quan hệ lao động nữa được hưởng chế độ bảo
hiểm hưu trí 1 lần hoặc hàng tháng theo quy định của pháp luật. Đây
là khoản trợ cấp nhằm đảm bảo thu nhập và đời sống cho người về
hưu, thay thế cho khoản tiền lương trước đây mà họ có được khi còn
đang tham gia quan hệ lao động.
Có thể thấy ở hầu hết các nước và theo quan niệm của ILO, bảo
hiểm hưu trí đều được hiểu là một chế độ bảo hiểm xã hội quan trọng
nhằm đảm bảo thu nhập cho người lao động khi hết tuổi lao động hoặc
khi không còn tham gia quan hệ lao động.

__________________________ ______________________________________


11

Dưới góc độ pháp luật, chế độ bảo hiểm hưu trí là tổng hợp các
quy phạm pháp luật quy định các điều kiện và mức trợ cấp cho những
người tham gia bảo hiểm xã hội, khi đã hết tuổi lao động hoặc không
còn tham gia quan hệ lao động.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của chế độ Bảo hiểm hưu trí
Trong hệ thống Bảo hiểm xã hội, chế độ bảo hiểm hưu trí giữ vị
trí quan trọng. Tầm quan trọng đó không chỉ vì chế độ hưu trí là vấn
đề quan tâm của mọi người lao động khi tham gia quan hệ bảo hiểm
mà còn do hầu hết mọi người tham gia bảo hiểm xã hội đều là đối
tượng của bảo hiểm hưu trí. Nếu như các chế độ bảo hiểm xã hội khác
chỉ áp dụng cho một số đối tượng lao động nhất định thì chế độ bảo
hiểm hưu trí lại được áp dụng cho hầu hết các đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội. Hơn nữa, phần lớn phí đóng góp vào bảo hiểm xã hội đều
dành cho việc chi trả chế độ bảo hiểm hưu trí. Trong số 20% quỹ

lương mà người lao động và người sử dụng lao động đóng góp vào
quỹ bảo hiểm thì có tới 15% dành chế độ hưu trí và tử tuất. Thời gian
người lao động hưởng chế độ hưu trí thường lâu dài nên chế độ này
ảnh hưởng, chi phối tới đời sống của người lao động nhiều hơn so với
các chế độ bảo hiểm xã hội khác. Nó có vai trò hết sức quan trọng
trong đời sống kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, điều đó đã được
chứng minh trong thực tế, tất cả những người tham gia vào bảo hiểm
xã hội đều có mong muốn được tham gia và hưởng chế độ hưu trí. Vì
vậy, có thể thấy vai trò của chế độ bảo hiểm hưu trí từ 2 góc độ sau:

__________________________ ______________________________________


12

Đối với người lao động: Chế độ bảo hiểm hưu trí có vài trò rất
lớn cho việc bù đắp về thu nhập, đảm bảo đời sống vật chất cho người
lao động khi họ bị mất thu nhập từ lao động nghề nghiệp do hết tuổi
lao động, về nghỉ hưu an dưỡng. Tiền lương hưu mà họ nhận được là
kết qủa tích luỹ trong suốt quá trình làm việc thông qua việc đóng góp
vào quỹ bảo hiểm xã hội. Đây là khoản thu nhập chủ yếu và là chỗ
dựa chính nhằm đảm bảo cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho
người lao động trong quãng đời còn lại sau quá trình lao động. Có thể
khi lúc về già, nhiều người lao động cũng có những khoản tích luỹ, có
chỗ dựa là con cháu, song phần lớn là họ trông cậy vào khoản trợ cấp
hưu trí. Hơn nữa, khoản trợ cấp hưu trí này còn là chỗ dựa tinh thần
cho những người hết tuổi lao động. Những người về hưu sẽ cảm thấy
yên tâm trong cuộc sống khi họ được hưởng lương hưu, không bị mặc
cảm là gánh nặng xã hội.
Đối với nhà nước và xã hội: Nhà nước là người trực tiếp tổ chức,

chỉ đạo và quản lý toàn bộ sự nghiệp phát triển của BHXH nói chung
và bảo hiểm hưu trí nói riêng và kiểm tra việc thực hiện các quy định
đó. Chế độ bảo hiểm hưu trí đã thể hiện được trách nhiệm của Nhà
nước trong việc thực thi các công việc của xã hội khi thông qua việc
đảm bảo cuộc sống cho người già, thực hiện các chương trình an sinh
xã hội và đề ra định hướng cho sự hoạt động, phát triển của chế độ
bảo hiểm hưu trí, là điều kiện góp phần nhất định vào công cuộc ổn
định, phát triển kinh tế – chính trị ... Ngoài ra, Nhà nước còn ban hành
các quy định cụ thể để gắn trách nhiệm của chủ sự lao động đối với
người lao động trong và sau quá trình sử dụng lao động, họ không chỉ
__________________________ ______________________________________


13

phải trả tiền lương cho người lao động khi làm việc mà còn phải đóng
quỹ bảo hiểm để đảm bảo đời sống người lao động khi nghỉ hưu nhằm
bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người lao động này. Do đó, chế độ
hưu trí là cách thức để nhà nước quản lý rủi ro xã hội, để có chính
sách phù hợp với tình hình kinh tế – chính trị của đất nước. Hơn nữa,
thực hiện tốt tất cả các chính sách, chế độ BHXH, bảo hiểm hưu trí
đến với mọi người dân không những là mục tiêu của nhà nước ta mà là
mục tiêu chung của các quốc gia bởi vì nó là thước đo năng lực và
trình độ của mỗi quốc gia. Chỉ có quốc gia nào có hệ thống BHXH,
bảo hiểm hưu trí hoàn thiện chứng tỏ quốc gia đó là quốc gia phát
triển.
Xu hướng già hóa của dân số thế giới càng nhiều dẫn đến số
lượng những người nghỉ hưu ngày càng gia tăng, để đảm bảo ổn định
xã hội và an toàn xã hội, đòi hỏi bảo hiểm xã hội hưu trí ra đời là
không thể thiếu và ngày càng phải được mở rộng, hoàn thiện hơn để

phù hợp với tình hình kinh tế –chính trị – xã hội. Do đó, chế độ bảo
hiểm xã hội đã thể hiện được tính nhân đạo của bảo hiểm xã hội đối
với con người. Đồng thời, chế độ hưu trí còn khơi dậy và giữ vững
đạo lý tốt đẹp của dân tộc về tương trợ cộng đồng, săn sóc và quan
tâm đến người cao tuổi cũng như phản ánh trình độ văn minh của một
chế độ xã hội.
Như vậy, chính sách bảo hiểm hưu trí nhìn chung phải là một
chính sách mang tính lâu dài, tương đối ổn định. Chế độ bảo hiểm hưu
trí là một trong những vấn đề xã hội, đang dành được sự quan tâm rất

__________________________ ______________________________________


14

lớn của người lao động, của Nhà nước, của ILO và các tổ chức Quốc
tế khác.
1.2. Đánh giá chung về thực trạng bảo hiểm hưu trí trước khi ban
hành Luật BHXH 2006
Bảo hiểm hưu trí là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta,
luôn được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và Hiến pháp qua các
thời kỳ. Để tổ chức thực hiện, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật về bảo hiểm hưu trí, trong đó quy định các chế độ,
chính sách bảo hiểm hưu trí đối với những lao động về hưu an dưỡng
tuổi già, trong đó có cả những người trong lực lượng vũ trang.
1.2.1. Những nội dung hợp lý
Sau một thời gian thực hiện pháp luật về bảo hiểm hưu trí đã
mang lại những kết quả đáng ghi nhận:
Một là, đối tượng tham gia bảo hiểm hưu trí đã được mở rộng
đến tất cả các thành phần kinh tế:Nhà nước và phi Nhà nước.

Hai là, quỹ bảo hiểm hưu trí hình thành từ sự đóng góp của
người sử dụng lao động và người lao động; quỹ hoạt động theo
nguyên tắc hạch toán, cân đối thu chi, độc lập với ngân sách nhà nước
và được quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật.
Ba là, chế độ bảo hiểm hưu trí đã góp phần ổn định đời sống của
người lao động trong quá trình lao động và nghỉ hưu, bảo hiểm hưu trí
đã quy định rõ trách nhiệm của người lao động, mức hưởng bảo hiểm
hưu trí đã trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng.Mức bảo hiểm xác
định trong khoảng 45% đến 75% lương đóng là hợp lý.
__________________________ ______________________________________


15

Trên thực tế, bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm hưu trí nói
riêng ngày càng phát triển, khẳng định vai trò của mình trong đời sống
xã hội. Năm 2005 đã chi trả cho 121.800 người hưởng BHXH hàng
tháng, tăng 20,7% so với năm 2004, trong đó có 100.000 người hưởng
chế độ hưu trí, tăng 21,3%; đồng thời năm 2005 cũng chi trả cho
225.500 người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội 1 lần, tăng 31,3%; hoạt
động bảo hiểm xã hội đã góp phần không nhỏ để giảm bớt khó khăn,
giải quyết các nhu cầu cần thiết cho người nghỉ hưu. (Theo số liệu
Báo cáo tổng kết chính sách BHXH của Bộ lao động thương binh xã
hội ngày 10/8/2005).
Việc quản lý Nhà nước về bảo hiểm hưu trí đã được thực hiện
thống nhất trên cơ sở phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước với
chức năng hoạt động sự nghiệp của bảo hiểm xã hội.
1.2.2. Những vấn đề còn tồn tại:
Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện, chính sách bảo hiểm xã hội
còn bộc lộ những tồn tại, cụ thể như sau:

a, Về ban hành chính sách bảo hiểm xã hội
Điều lệ bảo hiểm xã hội đã ra đời từ cách đây hơn 10 năm mà
đến năm 2006 vẫn mang tính tạm thời, các văn bản chỉ đạo thực hiện,
sửa đổi, bổ sung các chế độ cụ thể vẫn là các văn bản dưới luật, cộng
với sự tuân thủ pháp luật chưa nghiêm đã hạn chế nhiều đến hiệu quả
trong thực tế. Mặc khác, chế độ bảo hiểm hưu trí được sửa đổi quá
nhiều lần trở lên chắp vá, thiếu tính khoa học, nhiều nội không hợp lý
và thiếu thống nhất.
b, Về phạm vi đối tượng
__________________________ ______________________________________


16

Trong suốt thời gian qua, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
bắt buộc tuy đã được mở rộng nhưng với số người tham gia chưa
nhiều. Hiện nay, trong khoảng hơn 10 triệu người có quan hệ lao động
thì chỉ mới có 6 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, chủ yếu vẫn là
lao động thuộc khu vực Nhà nước; số lao động làm việc ở khu vực
ngoài quốc doanh tham gia bảo hiểm xã hội thấp, chỉ chiếm khoảng
20% tổng số lao động thuộc diện phải tham gia bảo hiểm xã hội.
c, Về chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng
Các quy định về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động
được quy định trong chế độ hưu trí này chưa hợp lý:
+ Công thức đóng/ hưởng chưa hợp lý:
- Công thức tính lương hưu hàng tháng còn có sự phân
biệt giữa lao động nam và lao động nữ, trong khi tỷ lệ đóng bảo hiểm
là như nhau. Điều đó là không công bằng giữa các lao động này.
- Đối với người lao động hưởng hưu trí hàng tháng với
mức thấp thì sẽ giảm 1% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn

cứ đóng bảo hiểm xã hội nếu nghỉ việc trước tuổi là tương đối thấp.
Nó chưa thể hiện sự công bằng giữa tỷ lệ cộng – trừ cho cùng một đơn
vị thời gian cũng như không đảm bảo được chế độ cân đối thu chi của
quỹ bảo hiểm xã hội.
+ Về cách tính bình quân lương hàng tháng làm căn cứ đóng
BHXH còn có sự phân biệt giữa khu vực Nhà nước và ngoài quốc
doanh.

__________________________ ______________________________________


17

- Công thức tính bình quân gia quyền các mức tiền lương
tháng làm căn cứ đóng BHXH của người lao động đóng theo bảng
lương do Nhà nước quy định
Tổng số tiền làm căn cứ đóng BHXH của 60 tháng
Mức bình quân
của tiền lương

(5 năm cuối) trước khi nghỉ hưu
=
60 tháng

tháng đóng
BHXH

- Công thức tính bình quân gia quyền các mức tiền lương
tháng làm căn cứ đóng BHXH của người lao động không theo thang
bản lương do Nhà nước quy định bằng tổng giá trị tiền lương đóng

BHXH của từng tháng nhân với khu vực liên doanh, tư nhân,...
- Công thức áp dụng cho người đồng thời đóng hai loại
BHXH trên:
Tổng số TL làm căn cứ

+

Tổng số TL làm căn

Mức bình

đóng BHXH theo thang

cứ

quân tiền

bảng lương do Nhà nước

đóng BHXH không

lương tháng

quy định

theo

= để tính

thang lương bảng do


lương hưu

Nhà nước quy định
Tổng số tháng đóng bảo hiểm xã hội

__________________________ ______________________________________


18

Cách tính khác nhau như trên không phù hợp với nguyên tắc
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, không bình đẳng giữa những
người lao động
+ Theo quy định tại Đ25 của Điều lệ bảo hiểm xã hội, để được
hưởng hưu trí đầy đủ, ngoài điều kiện tuổi đời phải có đủ 20 năm
đóng BHXH trở lên.Song, tại Đ26 quy định để được hưởng hưu trí
hàng tháng với mức lương thấp hơn cho phép có thời gian đóng
BHXH từ đủ 15 năm đến đủ 20 năm, phải có tuổi đời đủ 60 tuổi đối
với Nam, 55 đối với Nữ. Tương tự, tại Đ4 của NĐ09/CP lại quy định
để được hưởng hưu trí hàng tháng, cán bộ xã, phường ngoài điều kiện
tuổi đời (nam đủ 55, nữ đủ 50) thì chỉ cần có đủ 15 năm trở lên có
đóng BHXH. Qua đó, ta thấy sự chưa thống nhất trong quy định về tời
gian đóng bảo hiểm tối thiểu giữa các đối tượng tham gia.
+ Mức lương trợ cấp 1 lần khi hưởng bảo hiểm, hưu trí hàng
tháng cho người có thời gian đóng BHXH lâu hơn khống chế không
quá 5 tháng lương là không phù hợp, vì nó không khuyến khích các
đối tượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội nhiều hơn, đóng góp
công sức nhiều hơn.
+ Tuổi về hưu của lao động nữ được quy định chung là 55 tuổi là

chưa linh hoạt, vì hiện nay, trong một số lĩnh vực, ngành nghề (ví dụ:
nghiên cứu khoa học, bác sĩ, giáo viên, ...) mặc dù đã đến tuổi về hưu
nhưng đa số họ vẫn đủ sức khỏe và đang phát huy kinh nghiệm làm
việc. Như vậy, quy định này vừa lãng phí lao động, vừa dẫn đến thất
thu và bội chi quỹ bảo hiểm xã hội.
d, Về chế độ bảo hiểm hưu trí một lần:
__________________________ ______________________________________


19

+ Về đối tượng hưởng hưu trí 1 lần, pháp luật cũ còn quy định
quá nhiều đối tượng và không có sự thống nhất giữa các văn bản:
Theo nghị định số 01/2003/NĐ-CP thì chỉ có 2 trường hợp được
hưởng hưu trí 1 lần: người lao động định cư hợp pháp ở nước ngoài và
trường hợp người lao động nghỉ việc đã đủ tuổi nghỉ hưu hoặc suy
giảm khả năng lao động từ 61% trở lên do ốm đau, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp nhưng chưa đủ thời gian đóng BHXH để hưởng hưu
trí hàng tháng. Đến thông tư 07/2003/TT-BLĐTBXH lại cho phép
người lao động nghỉ việc chưa đủ điều kiện hưởng hưu trí hàng tháng
nhưng nếu 6 tháng không tiếp tục làm việc thuộc đối tượng tham gia
bảo hiểm xã hội bắt buộc mà người lao động có đơn tự nguyện thì sẽ
giải quyết trợ cấp bảo hiểm xã hội 1 lần.
+ Về mức lương bảo hiểm hưu trí 1 lần quy định là mỗi năm
đóng BHXH tính bằng 1 tháng lương bình quân làm căn cứ đóng bảo
hiểm xã hội. Mức lương này là quá thấp, không tương xứng với mức
đóng.
e, Việc tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội:
Vấn đề này còn một số hạn chế, chưa có giải pháp tích cực để
chống tình trạng chiếm dụng, nợ đọng tiền đóng BHXH. Tồn tại này

là do người sử dụng lao động và người lao động chưa nhận thức đầy
đủ về quyền lợi và trách nhiệm trong việc thực hiện bảo hiểm xã hội;
công tác tuyên truyền về BHXH chưa được coi trọng; việc thanh tra,
kiểm tra chưa được thường xuyên và chưa có các chế tài đủ mạnh để
xử lý vi phạm. Một số quy định về thủ tục, hồ sơ giải quyết chế độ bảo

__________________________ ______________________________________


20

hiểm xã hội cho người lao động chưa minh bạch và chưa đảm bảo yêu
cầu của cải cách hành chính.
f, Vấn đề quỹ bảo hiểm xã hội dài hạn:
Quỹ hưu trí chưa đảm bảo cân đối lâu dài. Theo mức đóng,
hưởng bảo hiểm như quy định trước đây, dự tính cho thấy quỹ có khả
năng cân đối thu – chi đến năm 2020, từ 2021 trở đi, số chi lớn hơn số
thu. Quỹ sẽ giảm nhanh và dự báo đến 2031, số chi sẽ lớn hơn rất
nhiều so với số thu.
g, Có sự pha trộn giữa chế độ BHXH với một số chính sách khác
Do trước đây cùng một nguồn quỹ là ngân sách Nhà nước nên
chế độ hưu trí bị đan xen, lồng ghép với các chính sách xã hội khác
như chính sách đối với người có công với cách mạng, chính sách việc
làm. Một trong những biểu hiện của việc đan xen này là việc giảm tuổi
đời hoặc quy đổi thời gian công tác. Điều này góp phần làm cho mức
chi trợ cấp cho các chế độ hưu trí và mất sức lao động là rất lớn.
1.3. Sự cần thiết phải đổi mới chế độ bảo hiểm hưu trí theo Luật
BHXH 2006
Theo sự phân tích trên, bảo hiểm hưu trí còn nhiều vấn đề tồn
tại, chưa có khả năng phát triển bền vững. Vì vậy, yêu cầu đổi mới chế

độ bảo hiểm hưu trí, giải quyết các tồn tại trên theo hướng:
+ Cần pháp điển hoá các chế định về bảo hiểm hưu trí trong một
văn bản thống nhất, trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu
đạt được.

__________________________ ______________________________________


21

+ Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội nói chung và bảo
hiểm hưu trí nói riêng, không chỉ theo hình thức bắt buộc mà còn theo
hình thức tự nguyện.
+ Xác định công thức đóng – hưởng hợp lý trên cơ sở: thống
nhất dần cách tính bảo hiểm giữa các thành phần kinh tế, giải quyết
chế độ hưu trí cho lao động nữ một cách hợp lý, thống nhất điều kiện
về thời gian đóng để hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng…
+ Cần tách chế độ bảo hiểm hưu trí với các chế độ, chính sách
khác.
+ Cần có quy định về đầu tư, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội để
quỹ phát triển hiệu quả, đảm bảo cân đối thu – chi.
Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong
những năm qua cũng đòi hỏi bảo hiểm xã hội phải có sự đổi mới
tương ứng.
Qua 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi
cơ bản từ một nền kinh tế tự cung, tự cấp, khép kín với cơ chế quản lý
tập trung, bao cấp, chúng ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường,
định hướng XHCH, không những đã thoát khỏi khủng hoảng và lạm
phát mà đã có sự tăng trưởng. Sau khi kết thúc kế hoạch 5 năm (1991
– 1995), với hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch đều hoàn thành và hoàn

thành vượt mức, đất nước ta đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế,
10 năm gần đây, là 10 năm phát triển kinh tế ổn định với tốc độ cao,
GDP đạt bình quân 7,5%/ năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; mức bình
quân theo đầu người năm 1995 là 206 nghìn đồng, năm 2005 là 640
USD, năm 2006 là 720 USD. Như vậy, mức GDP tính theo đầu người
__________________________ ______________________________________


22

năm 2005 gấp 2,2 lần năm 1995. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng
nhanh, năm 2005 đạt trên 5,2 tỷ USD, tính chung mọi nguồn vốn cho
đầu tư phát triển, hàng năm đã chiếm 35% đến 37% GDP, là mức đầu


cao

so

với

các

nước

trong

khu

vực.


(Nguồn:

/>thongke/kt_xh/2005/122005/b3 được lưu vào ngày 1/5/2007 05:40:12
GMT của Google). Theo báo cáo mới nhất về “Tổng quan kinh tế
châu á 2006” của ngân hàng phát triển châu á (ADB) thì tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam đạt 7,8%, dự báo là 7,6% cho năm 2007. Theo
công bố của Tổng cục Thống kê, tăng trưởng tổng sản phẩm trong
nứơc của năm 2006 tăng 8,17% so với năm 2005. Cũng trong 20 năm
qua, cơ cấu kinh tế có những chuyển biến tích cực theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá gắn sản xuất với thị trường, gắn nhập khẩu
với xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng đột phá để phát triển kinh tế. Về
chuyển dịch cơ cấu ngành, thể hiện rõ nhất thông qua việc điều chỉnh
tỷ trọng từng nganh trong cơ cấu GDP, so sánh năm 2005 với năm
1988 thì thấy: tỷ trọng nông nghiệp trong GDP từ 46,3% giảm xuống
còn 21%, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 21,6% lên 41%, tỷ
trọng dịch vụ tăng từ 33% lên 38%. Những số liệu trên đây cho ta thấy
nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, năm sau cao
hơn năm trước. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã năm lần điều chỉnh mức
lương tối thiểu nhằm phù hợp với thực tế tăng trưởng và biến động giá
cả, tiền tệ, kéo theo sự tăng trưởng tương ứng của lương hưu và trợ
cấp. Điều đó đã tác động đến sự ổn định của bảo hiểm hưu trí cũng

__________________________ ______________________________________


23

như việc hoạch định và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, đòi hỏi có sự
thay đổi, tính toán cho phù hợp.

Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, còn có sự
đóng góp rất lớn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước, ngoài các
doanh nghiệp tư nhân và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói chung.
Luật đầu tư chung, luật doanh nghiệp … có hiệu lực đã đóng góp rất
lớn trong tiến trình đổi mới kinh tế – xã hội ở nước ta. Vì thế , đã có
hàng trăm nghìn doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập và
phát triển tạo việc làm, thu nhập cho hàng triệu lao động, hàng năm
khu vực ngoài quốc doanh đã đóng góp khoảng hơn 60% trong GDP.
Do đó, việc hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ
bảo hiểm hưu trí nói riêng theo hướng mở rộng đối tượng tham gia là
vấn đề rất cần thiết.
Nước ta đang thực hiện chính sách đổi mới, chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà
nước. Trong bối cảnh đó, quan hệ lao động theo cơ chế mới cũng hình
thành, người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế được bình đẳng
trước pháp luật … Thực tế đó cũng đóng góp không ít thành công
trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bên cạnh đó cũng
còn bộc lộ một số vấn đề cần khắc phục.
Việc thực thi các chính sách còn chưa triệt để tạo nhiều kẽ hở
cho nhiều đối tượng lao động và sử dụng lao động dựa vào đó để tìm
cách vi phạm pháp luật về bảo hiểm hưu trí, hàng triệu người lao động
thuộc diện bắt buộc nhưng chưa tham gia bảo hiểm xã hội, đặc biệt là
khu vực ngoài Nhà nước.
__________________________ ______________________________________


24

Hơn nữa, qua gần 20 năm phát triển kinh tế thị trường và 10
năm tách quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với Ngân sách Nhà nước, cho

thấy Việt Nam đã có kinh nghiệm để hoàn thiện bảo hiểm xã hội nói
chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng phù hợp với điều kiện mới củă
nền kinh tế thị trường.
Xuất phát từ tình hình nói trên, việc ban hành luật BHXH nhằm
pháp điển hoá các quy định hiện hành và bổ sung các quy định mới về
bảo hiểm xã hội cho phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng nguyện vọng đông đảo của
người lao động, đảm bảo an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.

__________________________ ______________________________________


25

Chương ii:
những điểm mới của chế độ bảo hiểm hưu trí theo Luật Bảo hiểm
xã hội 2006
Để khắc phục những vấn đề còn tồn tại của chế độ Bảo hiểm hưu
trí, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của đông đảo những người lao
động trong nước, phù hợp với các quy định Quốc tế, Luật Bảo hiểm
xã hội ra đời đã có sự thay đổi đáng kể về bảo hiểm hưu trí. Trong đó,
có một số điểm mới cơ bản sau đây: các quy định về điều kiện hưởng,
mức hưởng lương hưu hàng tháng với mức thấp, nâng mức hưởng trợ
cấp một lần, cách tính bình quân tiền lương tháng, điều chỉnh tiền
lương trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ theo quy định
của Chính phủ. Cụ thể như sau:
2.1. Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng:
2.1.1. Điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng
a) Điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm
Luật Bảo hiểm xã hội 2006 bổ sung quy định thời gian đóng bảo

hiểm xã hội tối thiểu để đủ điều kiện nghỉ hưu là 20 năm: “Người lao
động quy định tại các điểm a, b, c, e khoản 1 Điều 2 của Luật này có
đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu…”
(Đ50.1). Như vậy, đã có sự thay đổi đáng kể so với quy định của
Điều lệ bảo hiểm trước đây, điều kiện chung để được hưởng chế độ
hưu trí là có đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên (Điều lệ bảo
hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/11/1995
của Chính phủ )
__________________________ ______________________________________


×