Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.52 KB, 62 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thẩm quyền xét xử theo sự việc của Toà án nhân dân (TAND) là một trong
những quy định trung tâm của chế định thẩm quyền xét xử của Tòa án. Việc quy
định đúng đắn thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự (VAHS) của
TAND có vai trò quan trọng trong việc thực hiện tốt các nhiệm vụ tố tụng. Đồng
thời, thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cũng là cơ sở để xác
định thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng khác, tiết kiệm chi phí cho
những người tham gia tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, Nhà nước và toàn xa
hội trong quá trình giải quyết vụ án. Có thể nói thẩm quyền xét xử theo sự việc
của TAND luôn là quy định được quan tâm hàng đầu ngay từ khi bắt đầu nghiên
cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS).
Chiến lược cải cách tư pháp đa được Đảng và Nhà nước Việt Nam khởi
xướng từ lâu được coi là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà
nước Pháp quyền xa hội chủ nghĩa. Nghị quyết 08 ngày 2/1/2002 của Bộ chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, và nhất là
Nghị quyết 49 ngày 2/6/2006 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đa tạo ra sự chuyển biến đồng bộ. Theo đó, đối với công tác xét
xử của Tòa án thì tiếp tục “phân định các thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân. Từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp
huyện trên cơ sở kiện toàn tổ chức đội ngũ cán bộ cho Tòa án cấp này. Kiện
toàn đến đâu mở rộng thẩm quyền xét xử đến đó”.
So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền xét xử
của TAND cấp huyện được mở rộng hơn nhiều. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003
vẫn quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm thuộc về cả Tòa án cấp huyện và Tòa
án cấp tỉnh. Do vậy, việc xác định thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS



2
của TAND cấp huyện tạo điều kiện cho việc xác định thẩm quyền xét xử sơ
thẩm các VAHS của TAND cấp tỉnh. Thẩm quyền xét xử theo sự việc của
TAND cấp huyện được quy định một cách hợp lý, chặt chẽ thì phần lớn tội
phạm xảy ra sẽ được xử lý kịp thời, phát huy được tác dụng giáo dục, răn đe,
góp phần bảo vệ trật tự xa hội. Thực tế hiện nay, khi thực hiện thẩm quyền xét
xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện còn có nhiều vướng mắc do
nhiều nguyên nhân khác nhau.
Những lý do trên đây lập luận cho tính cấp thiết của đề tài mà chúng tôi
chọn nghiên cứu.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện theo quy định của BLTTHS
năm 2003 bao gồm thẩm quyền xét xử theo đối tượng, theo sự việc, và theo lanh
thổ. Do đó, phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của đề tài này là “thẩm
quyền xét xư theo sự việc các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp
huyện”. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh, thẩm quyền xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án và thẩm quyền xét xử theo sự
việc các VAHS của Tòa án quân sự khu vực không thuộc phạm vi nghiên cứu
của đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thực tiễn
xét xử của TAND cấp huyện, mục đích nghiên cứu của đề tài là:
- Làm rõ khái niệm thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND
cấp huyện.
- Làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thẩm
quyền xét xử theo sự việc của TAND cấp huyện.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định trên, đặc biệt là từ khi áp
dụng thẩm quyền mới theo quy định của BLTTHS năm 2003, chỉ ra một số kiến
nghị nhằm nâng cao năng lực xét xử của TAND cấp huyện, hoàn thiện các quy



3
định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND
cấp huyện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của đề tài là triết học Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về xây dựng Nhà nước Pháp quyền xa hội chủ nghĩa, về cải
cách tư pháp và nền hành chính quốc gia. Việc nghiên cứu đề tài còn dựa trên
thực tiễn xét xử của TAND cấp huyện, khảo sát nghiên cứu các số liệu thống kê
về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ của TAND cấp huyện.
Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu của đề tài còn bao gồm phương pháp
so sánh, thống kê, lịch sử, phân tích, tổng hợp...
Đề tài nghiên cứu “Thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân cấp huyện” là một đề tài phức tạp. Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn
sâu sắc đến các thấy cô giáo và các bạn sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội,
đặc biệt là Thạc sĩ Đỗ Thị Phượng đa tận tình chỉ bảo giúp đỡ tôi hoàn thành
khoá luận tốt nghiệp này. Lần đầu tiên tiếp cận, làm quen với công tác nghiên
cứu khoa học, do hạn chế về tài liệu và khả năng nhận thức của bản thân nên
khoá luận khó có thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Vì vậy, rất mong được
sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu
này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


4
CHƯƠNG 1

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ THEO SỰ VIỆC CÁC VỤ ÁN

HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA
ÁN NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân
Trong xa hội loài người có sự phân hoá giai cấp, với tư cách như là công
cụ hữu hiệu nhất bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, thực hiện chức năng
quản lý điều hành toàn xa hội, quyền lực Nhà nước ra đời. Cho đến nay, lịch sử
xa hội loài người đa trải qua nhiều kiểu Nhà nước khác nhau: Nhà nước chiếm
hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư bản, Nhà nước xa hội chủ nghĩa.
Mặc dù tính chất của mỗi Nhà nước là khác nhau, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp
thống trị khác nhau, nhưng chúng đều có một điểm chung nhất đó là bất kỳ Nhà
nước nào cũng bao gồm nhiều bộ phận, có vai trò khác nhau nhưng có mối liên
hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau cùng thực hiện quyền lực Nhà nước, đó chính là các
cơ quan Nhà nước. Mỗi cơ quan Nhà nước, khi thực hiện chức năng nhiệm vụ
của mình, đều được hoạt động trong một phạm vi, một lĩnh vực nhất định với
quyền năng mà pháp luật cho phép được gọi là thẩm quyền của các cơ quan Nhà
nước. Nếu như dưới Chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến, quyền lực Nhà
nước bao gồm quyền hành pháp, tư pháp, và lập pháp rơi vào tay một số người,
thậm chí một người, khi đó cơ quan Nhà nước thực hiện thẩm quyền theo sự
phân công của nhà Vua.
Đến thời kỳ Tư bản chủ nghĩa, học thuyết “Tam quyền phân lập” ra đời vào
thế kỷ XVIII. Kế thừa hạt nhân hợp lý của học thuyết này, các nhà kinh điển của
Chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xa hội


5
chủ nghĩa đa đưa ra những quan điểm mới về tổ chức quyền lực Nhà nước. Theo
đó, quyền lực Nhà nước không nằm trong tay một số người mà được phân chia
cho các cơ quan Nhà nước khác nhau nhằm dùng quyền lực để hạn chế quyền

lực. Mỗi cơ quan Nhà nước khác nhau chỉ được thực hiện một loại quyền lực
nhất định, trên một lĩnh vực nhất định, một phạm vi nhất định: Quốc hội thực
hiện quyền lập pháp; Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát thực hiện quyền hành
pháp và tư pháp. Bản chất của sự phân chia quyền lực này theo Ănggen không
phải cái gì khác hơn là “phân công lao động thiết thực áp dụng trong cơ chế
Nhà nước nhằm mục đích giản đơn và kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà
nước” [1, tr.203]
Theo Từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học xa hội
Việt Nam xuất bản năm 1992 thì “thẩm quyền” được hiểu là “quyền xem xét để
kết luận và định đoạt một vấn đề nhất định”. Khái niệm “thẩm quyền” thường
được hiểu gắn liền với hoạt động của cơ quan, tổ chức, hoặc nhân viên Nhà
nước. Sự phân định thẩm quyền này sẽ là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự hoạt
động đồng bộ, nhịp nhàng, không trùng lặp của bộ máy Nhà nước vốn đa rất
phức tạp với nhiều cơ quan, bộ phận cấu thành.
Toà án là cơ quan được Quốc hội trực tiếp phân công thực hành quyền
xét xử bảo vệ pháp luật, bảo đảm lẽ phải và công bằng xa hội. Theo quy định tại
Điều 127 của Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và Điều 1 Luật
Tổ chức TAND 2002 thì Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xa hội
chủ nghĩa Việt Nam, chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử mà không có bất kỳ
một cơ Nuan nhà nước nào có thẩm quyền này, đó là thẩm quyền riêng biệt của
Tòa án.
Theo định nghĩa về thẩm quyền đa được phân tích ở trên thì thẩm quyền
của Tòa án được hiểu chính là tổng hợp những hành vi pháp lý mà Tòa án được
thực hiện theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền của Tòa án theo nghĩa rộng
không chỉ bao gồm thẩm quyền xét xử mà còn bao gồm thẩm quyền giám đốc
việc xét xử, hướng dẫn Toà án áp dụng đúng pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét


6
xử, giải thích các vấn đề có liên quan đến thực tiễn xét xử, tham gia vào quá

trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh Thẩm phán, Hội thẩm ...
Việc thực hiện các hành vi trên có mối liên hệ chặt chẽ với việc thực hiện thẩm
quyền xét xử, tạo điều kiện tốt cho Tòa án thực hiện việc xét xử.
Theo nghĩa hẹp, thẩm quyền của Tòa án được xác định là quyền được
xem xét giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật, nó bao gồm tổng hợp
các quyền mà pháp luật cho phép Tòa án quyết định đối với các vấn đề liên
quan đến nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho việc xét xử trong giới hạn hoặc
phạm vi nhất định [16, tr.10].
Như vậy, thẩm quyền của Tòa án là một chế định rất rộng bao gồm thẩm
quyền về nội dung và thẩm quyền về hình thức [22, tr.345]. Thẩm quyền về hình
thức là việc xác định Tòa án được xét xử những vụ án nào và xem xét những
vấn đề gì khi xét xử (thẩm quyền xét xử, giới hạn và phạm vi xét xử). Thẩm
quyền về nội dung là quyền hạn giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án đa
được xem xét, những vấn đề bảo đảm cho việc xét xử, hoặc các vấn đề khác của
tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động xét xử, ví dụ: quyền ra các quyết định
đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án... Trong các nội dung trên, thẩm quyền xét
xử, giới hạn xét xử và phạm vi xét xử (thẩm quyền về hình thức) là cơ sở để xác
định thẩm quyền quyết định của Tòa án (thẩm quyền nội dung), vì Tòa án chỉ có
thể quyết định những vấn đề thuộc phạm vi cho phép và đa được xem xét. Tuy
nhiên, những vấn đề thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cũng chỉ có ý nghĩa
khi được Tòa án giải quyết bằng một quyết định của Hội đồng xét xử.
Ở nước ta, các TAND được tổ chức theo đơn vị hành chính lanh thổ. Toà
án tối cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, phúc thẩm; TAND cấp tỉnh và Tòa án
quân sự khu vực vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, vừa có thẩm quyền xét xử
phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm; TAND cấp huyện và Tòa án quân sự khu
vực chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Thẩm quyền xét xử của Tòa án được
hiểu là quyền của Tòa án với việc xét xử (xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án
quyết định tố tụng) các VAHS, dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, các



7
khiếu kiện hành chính… theo một trình tự nhất định. Ví dụ: khi có sự việc phạm
tội, Tòa án sẽ có thẩm quyền xét xử theo trình tự được quy định trong pháp luật
tố tụng hình sự; khi phát sinh các tranh chấp về kinh tế, lao động, hôn nhân gia
đình… Tòa án sẽ giải quyết theo trình tự được quy định trong pháp luật tố tụng
dân sự; khi có các khiếu kiện về các quyết định hành chính hoặc hành vi hành
chính của cán bộ nhân viên Nhà nước thì Tòa án sẽ giải quyết vụ án hành chính
theo trình tự tố tụng hành chính.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm có vai trò quan trọng, để xác định thẩm
quyền xét xử phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm. Việc xác định một vụ án có
thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của một Tòa án cụ thể hay không cần căn cứ
vào những dấu hiệu nhất định. Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì Tòa án
cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh, TAND và Tòa án quân sự đều có thẩm quyền xét
xử sơ thẩm, trong đó việc xét xử sơ thẩm tập chung chủ yếu ở TAND câp huyện.
“Sơ thẩm”: là xét xử lần đầu để quyết định tất cả các vấn đề liên quan
trong vụ án [24, tr.220].
Từ những phân tích trên chúng tôi có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm của TAND như sau:
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp
huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh là quyền được tiến hành xem xét, giải quyết
vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo trình tự sơ thẩm.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự
của Tòa án nhân dân cấp huyện
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm của
Tòa án được xác định dựa trên các dấu hiệu sau:
Dấu hiệu về lãnh thổ, tức là việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các
VAHS của Tòa án căn cứ vào nơi thực hiện tội phạm, nơi tội phạm hoàn thành,
nơi kết thúc điều tra gọi là thẩm quyền xét xử theo lanh thổ.
Dấu hiệu về đối tượng phạm tội, tức là việc xác định thẩm quyền xét xử
sơ thẩm các VAHS của Tòa án căn cứ vào đối tượng thực hiện hành vi phạm tội



8
là quân nhân hay thường dân mà xác định thẩm quyền xét xử thuộc về TAND
hay Tòa án quân sự gọi là thẩm quyền xét xử theo đối tượng.
Dấu hiệu về sự việc phạm tội, tức là việc xác định thẩm quyền xét xử sơ
thẩm các VAHS căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội, tính chất phức tạp của hành vi phạm tội, tội phạm càng nghiêm trọng, càng
phức tạp thì đòi hỏi cấp Tòa án và người xét xử có trình độ càng cao gọi là thẩm
quyền xét xử theo sự việc.
Trong các dấu hiệu trên, việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự
việc các VAHS là rất quan trọng và khó xây dựng nhất vì nó gắn liền với sự
trưởng thành và hoàn thiện của Tòa án các cấp, thực tế của công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm, quan điểm của Đảng và Nhà nước… Mặt khác, việc
đánh giá, xác định những yếu tố như tính chất của tội phạm, tính phức tạp và
nghiêm trọng của hành vi phạm tội lại mang màu sắc chủ quan của nhà làm luật.
Tuy nhiên, khi xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các VAHS của Tòa án thì
đồng thời cần phải căn cứ vào cả ba dấu hiệu trên. Nếu bỏ sót một trong ba dấu
hiệu có thể sẽ dẫn đến việc xác định sai thẩm quyền, vi phạm thủ tục tố tụng.
Như đa phân tích, thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS là thẩm
quyền xét xử được xác định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội, đây là căn cứ được áp dụng để phân định thẩm quyền khi trong hệ
thống Tòa án của một nước có hai cấp trở lên cùng có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm các VAHS. Ở Việt Nam, Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện đều có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Do vậy, việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm
giữa cấp tỉnh và cấp huyện là một tất yếu khách quan để đảm bảo giải quyết
nhanh chóng, đúng đắn VAHS.
Theo Luật Tổ chức TAND năm 2002, cấp huyện là cấp xét xử thấp nhất
có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. TAND cấp huyện bao gồm các TAND được tổ
chức theo địa giới hành chính ở các huyện, thị xa, thành phố trực thuộc tỉnh

hoặc ở các quận, huyện, thành phố trực thuộc Trung ương. TAND cấp huyện xét
xử sơ thẩm những VAHS, dân sự, kinh tế, lao động... theo quy định của pháp
luật tố tụng tương ứng. Nếu như việc xét xử những vụ án dân sự, kinh tế, lao


9
động… chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì việc xét xử những VAHS,
do tính chất của đối tượng phạm tội, nên bên cạnh hệ thống TAND, Tòa án quân
sự cũng có thẩm quyền xét xử. Vì vậy, TAND xét xử những tội phạm không
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử
theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện: Thẩm quyền xét xử các vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện là quyền mà pháp luật cho phép Tòa
án nhân dân cấp huyện được tiến hành xem xét, giải quyết vụ án hình sự, ra
bản án, quyết định tố tụng theo trình tự sơ thẩm căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của tội phạm.
Như vậy, muốn xác định thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của
TAND cấp huyện cần căn cứ vào 2 dấu hiệu, dấu hiệu về tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội để phân biệt thẩm quyền xét xử của TAND cấp
huyện và TAND cấp tỉnh; dấu hiệu về đối tượng thực hiện hành vi phạm tội để
phân biệt thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực.
Việc xác định thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp
huyện có ý nghĩa rất lớn trong tố tụng hình sự. Từ việc xác định thẩm quyền này
ta có thể xác định được thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh, Thẩm
quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, phúc thẩm của TAND cấp tỉnh và Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC), đồng thời còn là cơ sở để xác định thẩm quyền
điều tra, truy tố của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả xét xử của Tòa án. Do vậy, các nhà làm luật luôn quan tâm, đánh giá,
hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử theo sự việc các
VAHS của TAND cấp huyện và coi đó là một trong những quy định trung tâm

của pháp luật tố tụng hình sự.
1.2. CƠ SỞ QUY ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ THEO SỰ VIỆC
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.2.1. Cơ sở lý luận
Là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của kiến trúc thượng tầng, phản
ánh điều kiện kinh tế của Nhà nước, pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng


10
hình sự nói riêng cần phải được ban hành phù hợp với điều kiện kinh tế xa hội.
Trình độ phát triển của Nhà nước, trình độ nhận thức pháp luật của nhân dân,
vấn đề pháp chế và tôn trọng quyền tự do, dân chủ của công dân là những yếu tố
quyết định khi xác định thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện.
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước xa hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lanh đạo
duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lanh đạo bằng cách đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ nhất định và sử dụng pháp luật như
là công cụ hữu hiệu nhất để thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương đó
đi vào cuộc sống. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án
không thể không dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước. Sự nghiệp đổi mới
đa được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá... và đổi mới
tư pháp cũng là nhiệm vụ trọng tâm. Vấn đề thẩm quyền xét xử và phân định lại
thẩm quyền xét xử của TAND các cấp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của cải cách tư pháp nói chung và đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Toà
án nói riêng. Nghị quyết Hội nghị lần VIII- BCHTW Đảng (khóa VII) đa đề ra
nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, trong đó xác định:
“...nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp quận, huyện
theo hướng việc xét xử được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa án cấp
tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm”. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX cũng nêu rõ: “sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, phân định hợp lý thẩm
quyền của Tòa án nhân dân các cấp”. Bước sang thế kỷ XXI, nước Việt Nam

đang có những bước phát triển vô cùng mạnh mẽ, nhiệm vụ cải cách tư pháp, cải
cách hệ thống Tòa án trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nghị quyết số 08 ngày
2/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới, Nghị quyết số 49 ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đa thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước về sự
đổi mới và hoàn thiện hệ thống Tòa án. Đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá
trình xây dựng BLTTHS năm 2003, trong đó có việc xây dựng những quy định
về thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện.


11
Nhà nước Việt Nam bao gồm 3 cấp đơn vị hành chính lanh thổ: tỉnh,
huyện, và xa. Dựa theo sự phân chia này, hệ thống các cơ quan tư pháp trong đó
có TAND cũng được tổ chức từ Trung ương đến cấp huyện, gồm: TANDTC,
TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện. Đây cũng là một trong những cơ sở để
phân định thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện.
Trong hệ thống Tòa án, Tòa án cấp huyện đóng vai trò là một mắt xích vô
cùng quan trọng đa góp phần cùng với các cấp Tòa án khác hoàn thành nhiệm
vụ xét xử mà Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự giao cho ngành Tòa án,
đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xa hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức
và công dân. Khi xác định thẩm quyền xét xử cho các cấp Tòa án khác bao giờ
và trước tiên cũng phải xác định thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS cho
Tòa án cấp huyện, vì đây là cấp xét xử thấp nhất. Đồng thời, thẩm quyền xét xử
các VAHS của Toà án còn quy định thẩm quyền điều tra, truy tố của Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát, ảnh hưởng đến các quy định của pháp luật về các giai
đoạn của quá trình tố tụng như: thời hạn tạm giam, điều tra... Do vậy, khi xác
định thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND cấp huyện cần phải xem xét
nghiên cứu một cách toàn diện các chế định khác của BLTTHS, có như vậy mới
tạo ra sự phù hợp, đồng bộ và thống nhất trong quá trình tố tụng, đảm bảo hoạt
động có hiệu quả của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Thực hiện hoạt động tố tụng là những cá nhân con người cụ thể, kết quả
của hoạt động tố tụng ít nhiều vẫn mang màu sắc chủ quan của con người. Để có
thể phản ánh một cách khách quan sự việc phạm tội, xét xử đúng người, đúng
tội, đảm bảo tính công bằng xa hội thì người tiến hành tố tụng cần phải có trình
độ nghiệp vụ chuyên môn nhất định. Vụ án càng khó, càng phức tạp đòi hỏi
người có trình độ càng cao. Việc phân định thẩm quyền xét xử theo sự việc các
VAHS cho TAND cấp huyện không thể không tính đến trình độ của Thẩm phán,
Cán bộ ngành Toà án, Điều tra viên, Kiểm sát viên, đồng thời cần phải tính đến
điều kiện phương tiện kỹ thuật làm việc, cơ sở vật chất của Tòa án, Viện kiểm
sát và Cơ quan điều tra cấp huyện. Nếu phân định thẩm quyền cho Tòa án cấp


12
huyện giải quyết những vụ án mà tính chất của vụ án đó vượt quá khả năng trình
độ của người tiến hành tố tụng sẽ khó có thể bảo đảm được tính khách quan,
đúng đắn của vụ án. Nhưng nếu phân định thẩm quyền một cách dè dặt, đánh giá
thấp khả năng, trình độ của họ sẽ dẫn đến tình trạng Tòa án cấp trên phải xét xử
quá nhiều, án tồn đọng với số lượng lớn. Trong khi đó, Tòa án cấp huyện lại ít
việc, có thể đảm nhận xét xử một số lượng vụ án lớn hơn, khó hơn. Điều đó làm
hạn chế khả năng của Tòa án cấp huyện.
Nhìn từ góc độ kinh tế ta thấy, một vụ án nếu được xét xử ở cấp huyện
bao giờ cũng chi phí thấp hơn nếu nó được xét xử ở Tòa án cấp tỉnh. Xét từ phía
cơ quan tiến hành tố tụng, một vụ án được xét xử ở Tòa án cấp huyện sẽ tiết
kiệm được chi phí do địa bàn được giới hạn, quá trình tố tụng sẽ đơn giản, nhanh
chóng hơn nhiều. Xét từ phía người tham gia tố tụng, họ sẽ có điều kiện thuận
lợi hơn để tham gia phiên toà, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các
khoản chi phí đi lại, lưu trú, tiền ăn, ở trong trường hợp vụ án được xét xử nhiều
ngày cũng sẽ thấp hơn, tránh tình trạng hoan phiên toà vì người tham gia tố tụng
vắng mặt do khoảng cách địa lý xa, giao thông đi lại khó khăn, chi phí lớn, điều
này càng được thể hiện rõ ở các tỉnh miền núi, nơi điều kiện kinh tế còn thấp,

giao thông khó khăn.
Ngoài ra, pháp luật tố tụng hình sự là luật hình thức phản ánh luật nội
dung là pháp luật hình sự. Toà án chỉ xét xử những hành vi mà Bộ luật Hình sự
(BLHS) quy định là tội phạm. Do vậy, khi xác định thẩm quyền xét xử của
TAND cấp huyện phải tính đến sự phù hợp của nó với các quy định của pháp
luật hình sự, nhất là các quy định về tội phạm, phân loại tội phạm, quan điểm
của Đảng và Nhà nước về tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm
tội được thể hiện ở mức hình phạt áp dụng cho từng loại tội.
Các căn cứ trên có mối quan hệ khăng khít, biện chứng với nhau, có những
căn cứ bổ sung cho nhau. Vụ án được Tòa án cấp thấp xét xử sẽ có điều kiện
thực hiện các quyền tố tụng của đương sự như quyền có mặt tại phiên toà, trực
tiếp gặp Toà án để đưa ra các yêu cầu, và có hiệu quả về mặt chi phí cho quá


13
trình tố tụng để giải quyết tốt vụ án. Ngược lại, cũng có những cơ sở lại mâu
thuẫn nhau, nếu dựa vào năng lực người tiến hành tố tụng thì nhìn chung những
vụ án càng được Tòa án cấp cao hơn xét xử thì càng có khả năng bảo đảm tính
đúng đắn khách quan hơn, nhưng lại tốn kém hơn. Tuy nhiên sự mâu thuẫn đó
nằm trong mối liên hệ thống nhất là nhằm đạt tới việc thực hiện tốt nhất mục
đích tố tụng.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Nếu như các căn cứ đa được phân tích trên là điều kiện cần để xác định
thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện, thì các căn cứ
được phân tích trong phần này là điều kiện đủ. Việc tính đến hiệu quả của công
tác xét xử của TAND cấp huyện, sự lớn mạnh về đội ngũ cán bộ tiến hành tố
tụng nói chung, các Thẩm phán, Hội thẩm của Tòa án cấp huyện nói riêng, và
nhiều yếu tố khác sẽ là cơ sở không thể thiếu khi xác định thẩm quyền xét xử
theo sự việc các VAHS của TAND cấp huyện.
Như phần lý luận đa phân tích, thẩm quyền của Tòa án là cơ sở để xác định

thẩm quyền của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Do vậy, khi đánh giá thực
tiễn để xác định thẩm quyền xét xử theo sự việc các VAHS của TAND cấp
huyện cho phù hợp cần phải xem xét, đánh giá thực tiễn của toàn bộ quá trình
điều tra, truy tố, xét xử. Thực tế cho thấy, thẩm quyền xét xử các VAHS của
TAND ngày càng được quy định phù hợp. Nếu trước năm 1960, TAND cấp
huyện chỉ được xét xử sơ thẩm những VAHS nhỏ mang tính chất vi cảnh thì sau
1960, Tòa án cấp huyện đa được xét xử cả những VAHS nhỏ có thể cho phép sử
phạt từ 2 năm tù trở xuống, và sau này được xử cả tội nghiêm trọng có khung
hình phạt 7 năn tù trở xuống. Cho đến nay, một số Tòa án cấp huyện được xử tới
các tội phạm rất nghiêm trọng có khung hình phạt từ 15 năm tù trở xuống.
Kể từ khi thực hiện thẩm quyền xét xử theo quy định của BLTTHS năm
1988, hàng năm, số lượng án mà TAND cấp huyện xét xử cao hơn so với TAND
cấp tỉnh (tỷ lệ chiếm từ 60% đến 70% tổng số vụ án đa được xét xử sơ thẩm).
Mặc dù vậy, số lượng vụ án mà Tòa án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm không phải là


14
nhỏ. Bên cạnh đó, TAND cấp tỉnh còn phải tiến hành xét xử phúc thẩm (chiếm
khoảng 46% tổng số vụ án đa thụ lý, 60% số vụ án đa xét xử ở Tòa án cấp huyện
[21, tr.76], xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm. Đồng thời, số vụ án kinh tế, lao
động... mà TAND cấp tỉnh xét xử hàng năm cũng rất lớn nên tình trạng án tồn
đọng là tất yếu. Trung bình hàng năm, án tồn đọng của TAND cấp tỉnh là
khoảng 11% đến 13%. Thực trạng xét xử trên đa làm ảnh hưởng lớn đến chất
lượng xét xử, vi phạm hoạt động tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước và công dân. Mặt khác, số lượng án cấp huyện bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm chiếm tỷ lệ nhỏ từ
20% đến 30% [17, tr.18]. Số án sơ thẩm của Tòa án cấp huyện bị Toà phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ hoặc sửa chỉ là rất nhỏ và chủ yếu là cải sửa
nhằm thay đổi biện pháp chấp hành hình phạt, mức hình phạt. Điều đó cho thấy,
Toà án cấp huyện có thể xét xử thêm một số loại tội, một số khung hình phạt mà

Toà án cấp tỉnh đang có thẩm quyền xét xử.
Về đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, trình độ năng lực đa được
nâng lên một cách đáng kể. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện tiêu chuẩn hóa
Thẩm phán theo đúng quy định của pháp luật. Nếu so sánh trình độ của Thẩm
phán hiện nay với trình độ Thẩm phán năm 1994 đa có bước tiến đáng kể. Đến
nay, 86% Thẩm phán đa có trình độ đại học Luật hoặc cao đẳng Toà án, số có
trình độ luân huấn và trung cấp chỉ chiếm 14%, không có Thẩm phán nào có
trình độ sơ cấp hoặc chưa được học Luật. Các Thẩm phán còn nợ tiêu chuẩn
đang tiếp tục hoàn thiện chương trình đại học Luật tại chức để có đủ trình độ
như Pháp lệnh quy định [17, tr.18].
Tất cả những cơ sở trên cho thấy, việc quy định thẩm quyền xét xử theo
sự việc các VAHS của TAND cấp huyện theo hướng mở rộng là hợp lý. Với vai
trò quan trọng của mình trong mối liên hệ với các quy định khác của pháp luật
TTHS, thẩm quyền xét xử các VAHS của TAND cấp huyện phải được quy định
một cách phù hợp trên cơ sở đánh giá một cách toàn diện tất cả các căn cứ trên.


15
1.3. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ THEO
SỰ VIỆC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ra đời, hệ thống Tòa án đa được hình thành với một loạt các văn bản có liên
quan, đặc biệt là Hiến pháp 1946, Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về Tổ chức
Toà án và ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền
giữa các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án. Theo đó, hệ
thống TAND bao gồm: Tòa án tối cao, Tòa án phúc thẩm, Toà đệ nhị cấp và Toà
sơ cấp. Tòa sơ cấp là cơ chế xét xử thấp nhất (tương đương với TAND cấp
huyện ngày nay) chỉ có thẩm quyền “xét xử sơ thẩm những vụ án phạt giam từ 1

đến 5 ngày, những vụ án xử bồi thường quá 150 đồng, hoặc những việc xin bồi
thường quá số tiền ấy” (Điều 5, Sắc lệnh 51), những VAHS còn lại sẽ thuộc
thẩm quyền xét xử của Toà đệ nhị cấp. Như vậy, Toà sơ cấp chỉ có thẩm quyền
xét xử những VAHS nhỏ, đơn giản, mang tính vi cảnh.
Sau một thời gian thực hiện, nhất là trong điều kiện có chiến tranh, các quy
định trên dần bộc lộ những điểm bất hợp lý. Do vậy, đến 26/5/1948 Sắc lệnh số
85 về ấn định thẩm quyền của Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp trên tinh thần
mở rộng thẩm quyền của Tòa án sơ cấp được ban hành, cho phép Tòa án sơ cấp
có thể xử việc bồi thường quá 200 đồng, hoặc nếu vì tình thế chiến tranh lại mất
liên lạc với Toà đệ nhị cấp thì Tòa án cấp này giam cứu bị can đến 45 ngày nếu
là việc tiểu hình, hoặc đến 4 tháng nếu là việc đại hình.
Bước sang giai đoạn những năm 1950, Việt Nam bắt đầu tiến hành cải
cách tư pháp. Hệ thống Tòa án được kiện toàn thêm một bước, Tòa án sơ cấp,
Toà đệ nhị cấp và Toà phúc thẩm đổi tên thành TAND cấp huyện, TAND tỉnh
và Tòa án liên khu. Tiếp đó, một số văn bản pháp luật khác cũng quy định thành
lập thêm một số Tòa án, ví dụ: Tòa án vùng tạm chiếm đóng có thẩm quyền của
cả TAND cấp huyện, TAND dân tỉnh và Tòa án liên khu. Một số Tòa án đặc


16
biệt được thành lập để xét xử các cán bộ viên chức Nhà nước phạm tội hối lộ,
tham nhũng làm giảm uy tín Cách mạng, xét xử những tên địa chủ, cường hào
gian ác chống phá chính sách cải cách ruộng đất.
Như vậy, với 15 năm xây dựng và từng bước trưởng thành, hệ thống
Tòa án nói chung và TAND cấp huyện nói riêng đa hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ
chính quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân, đáp
ứng kịp thời yêu cầu chính trị, góp phần không nhỏ vào sự thắng lợi của Cách
mạng dân tộc. Hiến pháp năm 1959 đa đánh dấu một bước ngoặt đầu tiên trong
lịch sử lập pháp Việt Nam. Pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử theo
sự việc của TAND cấp huyện cũng bước sang một giai đoạn phát triển mới.

1.3.2. Giai đoạn từ 1960 đến khi ban hành BLTTHS năm 1988
Sau khi Hiến pháp năm 1959 có hiệu lực, một loạt các văn bản pháp luật
có liên quan đa ra đời làm thay đổi cơ bản hệ thống Tòa án trong thời kỳ đó như
Luật Tổ chức TAND năm 1960, Pháp lệnh ngày 23/3/1961, một loạt các văn bản
hướng dẫn như: Thông tư số 1080 ngày 25/9/1961, Thông tư số 1209 ngày
19/5/1962 và Thông tư số 03/TATC ngày 4/9/1963 về hướng dẫn thực hiện
thẩm quyền mới của TAND cấp huyện. Cụ thể như sau:
Điều 16 Luật Tổ chức TAND năm 1960 quy định: “Tòa án nhân dân cấp
huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương được
xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự, dân sự do pháp luật quy định thuộc thẩm
quyền của các Tòa án đó... Được phân xử những việc hình sự nhỏ không phải
mở phiên toà”. Tiếp đó, Pháp lệnh năm 1961 quy định mở rộng thêm một bước
đáng kể thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện, cho phép TAND cấp huyện
phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên toà và sơ thẩm những
VAHS nhỏ có thể phạt tù từ 2 năm trở xuống.
Đối với những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên toà, TAND cấp
huyện xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm ngay. Đây là những vụ án mà
TAND cấp huyện được quyền trực tiếp thụ lý và xét xử.


17
Bên cạnh đó, việc xét xử sơ thẩm những VAHS có tính chất phức tạp hơn
có thể phạt tù từ 2 năm trở xuống mà TAND cấp huyện được phép xét xử chỉ
khi được TAND cấp tỉnh giao cho.
Thông tư số 1080/TC năm 1961 còn quy định những loại việc mà TAND
cấp huyện phải thỉnh thị TAND cấp tỉnh trước khi xét xử và những vụ án thuộc
thẩm quyền của Tòa án cấp huyện mà Tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, hệ thống Tòa án ở
các tỉnh phía Nam được thành lập. Theo Sắc lệnh số 01 ngày 15/3/1976 của Hội
đồng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền nam Việt Nam quy định:

TAND cấp huyện xét xử những VAHS có hình phạt từ 2 năm tù trở xuống.
Nhưng do tình hình chưa ổn định, để phù hợp với trình độ Thẩm phán, ngày
28/3/1976, Thông tư số 01/ BTP-TT về tổ chức TAND quy định chỉ nên giao
cho TAND cấp huyện xét xử những VAHS ít nghiêm trọng, phức tạp, không
được xét xử những tội phạm phản Cách mạng, những tội gây tổn thương đến sức
khỏe cuả nhiều người, hoặc gây chết người, hoặc xâm phạm nghiêm trọng đến
quyền sở hữu, những vụ án mà việc xác định tội phạm có nhiều khó khăn và
những vụ án có ảnh hưởng chính trị lớn.
Sau khi thống nhất đất nước, các chế định về kinh tế, quyền và nghĩa vụ
của công dân, tổ chức bộ máy Nhà nước của Hiến pháp năm 1959 đa không đáp
ứng được yêu cầu của tình hình mới. Hiến pháp năm 1980 ra đời đa mở ra thời
kỳ mới của công cuộc xây dựng Tổ quốc. Phù hợp với sự thay đổi lớn lao của
đất nước, hệ thống Tòa án cũng cần được củng cố và hoàn thiện. Việc quy định
cho phép TAND cấp huyện được phép xét xử các VAHS có mức hình phạt 2
năm tù trở xuống là vi phạm nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự vì nó cho
phép Tòa án có thể dự kiến mức hình phạt trước khi xét xử. Mặt khác, TAND
cấp tỉnh cũng phải xét xử với một khối lượng lớn vụ án. Để khắc phục những
tồn tại trên, Luật Tổ chức TAND năm 1981 đa được ban hành mở rộng thêm
thẩm quyền của TAND cấp huyện. Theo Điều 36: “Các Tòa án nhân dân cấp
huyện... có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự trừ những loại việc sau đây:


18
+ Những tội xâm phạm an ninh quốc gia;
+ Những tội phạm hình sự có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, gây hậu quả
lớn, những vụ án mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp tương đương lấy lên để
xét xử”.
Theo đó, TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử những VAHS mà luật
quy định có hình phạt từ 5 năm tù trở xuống.
Thông tư liên tịch giữa TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao

(VKSNDTC), Bộ tư pháp và Bộ nội vụ ngày 6/2/1982 hướng dẫn TAND cấp
huyện xét xử những tội phạm hình sự thường mà khung hình phạt áp dụng từ 7
năm tù trở xuống.
Khi BLTTHS năm 1985 được ban hành, để phù hợp, Thông tư liên ngành
số 01 năm 1986 hướng dẫn: “Tòa án cấp huyện được xét xử một số tội pháp luật
quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống nhưng có các tình tiết giảm nhẹ cho
phép xử 5 năm trở xuống”. Hướng dẫn này chỉ mang tính chất tạm thời, nó vẫn
có điểm bất hợp lý là cho phép dự kiến mức hình phạt trước khi xét xử.
Có thể nhận thấy sự kế thừa hợp lý các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện. Đây là cơ sở quan trọng cho
việc xây dựng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện trong thời gian tới.
1.3.3. Giai đoạn từ 1988 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2003
Với vai trò quan trọng của mình, pháp luật tố tụng hình sự ngày càng phát
triển và hoàn thiện dần. Sau hơn 40 năm, các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự ngày càng phát triển và sự ra đời BLTTHS đầu tiên của Nước Cộng hoà
xa hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1988 là một tất yếu khách quan. Như trên đa
phân tích, các văn bản pháp luật quy định thẩm quyền xét xử theo sự việc các
VAHS của TAND cấp huyện đa bộc lộ những hạn chế nhất định. Để khắc phục
những điểm bất hợp lý đó, khoản 1 Điều 145 BLTTHS năm 1988 quy định:
“Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử
sơ thẩm những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt từ 7 năm tù trở
xuống, trừ một số tội:


19
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội quy định tại các Điều 95, 96, Khoản 1 Điều 172 và các Điều 222,
223, 263, 293, 294, 295, 296 của Bộ luật hình sự”.
BLTTHS năm 1988 đa quy định mở rộng thêm một bước đáng kể thẩm
quyền của Tòa án cấp huyện. Mức hình phạt 7 năm tù trở xuống làm căn cứ xác

định thẩm quyền của TAND cấp huyện là do luật định. Quy định này xác định
thẩm quyền của Tòa án cấp huyện một cách cụ thể, rõ ràng, phù hợp với quy
định của BLHS, đồng thời không vi phạm nguyên tắc của BLTTHS.
Để Tòa án cấp huyện xác định thẩm quyền một cách thống nhất,
TANDTC, VKSNDTC, Bộ tư pháp, Bộ nội vụ đa ra Thông tư liên ngành số 02
ngày 12/1/1989 hướng dẫn thực hiện những quy định của BLTTHS về thẩm
quyền xét xử của Tòa án cấp huyện. Theo Thông tư này, Tòa án cấp huyện được
xét xử cả những tội phạm nghiêm trọng và tội ít nghiêm trọng nếu mức cao nhất
của khung hình phạt do luật định với tội ấy là từ 7 năm tù trở xuống, trừ các tội
được nêu ở điểm a, b khoản 1 Điều 145 BLTTHS năm 1988.
Cho đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 1988 đa
được sửa đổi, bổ sung 3 lần vào tháng 6/1990, tháng 12/1992 và lần cuối vào
tháng 6/2000. Về thẩm quyền xét xử, các lần sửa đổi, bổ sung đa xóa bỏ thẩm
quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC, nhưng không đặt
vấn đề sửa đổi, bổ sung thẩm quyền của TAND cấp huyện. Qua gần 15 năm
thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 145 BLTTHS 1988 về thẩm quyền xét xử
của TAND cấp huyện đa mang lại những kết quả nhất định. Song thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử cho thấy, số vụ án mà TAND cấp tỉnh xét xử ngày càng
nhiều. Đồng thời hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện, trong đó có
TAND cấp huyện ngày càng được củng cố lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng. Do vậy, việc thay đổi thẩm quyền cho phù hợp với thực tế là một yêu cầu
khách quan. Đó là lý do mà BLTTHS năm 2003 ra đời đa thay đổi một bước
đáng kể thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện.


20
CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ THEO SỰ VIỆC

CỦATÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
2.1. CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THUỘC THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đa làm cho Nhà nước
Việt Nam sau 15 năm phát triền đa có những sự thay đổi lớn lao. Mặc dù
BLTTHS năm 1988 được sửa đổi, bổ sung 3 lần, nhưng nhìn chung những sửa
đổi, bổ sung này cũng chưa được tiến hành một cách toàn diện. Các quy định về
thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện hầu như không có gì thay đổi. Quá
trình thực hiện dần bộc lộ những hạn chế nhất định. Để tiếp tục thực hiện chủ
trương của cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án, thực hiện chủ trương của Nghị quyết 08 ngày 2/1/2002 của
Bộ chính trị, BLTTHS năm 2003 được thông qua ngày 26/11/2003 và có hiệu
lực thi hành từ 1/7/2004 đa có những thay đổi mang tính chất tích cực và toàn
diện hơn về thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND cấp huyện.
Khoản 1 Điều 170 của BLTTHS năm 2003 quy đinh như sau:
Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây:
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221,
222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322, 323 của Bộ luật hình sự.
Như vậy, theo quy định của BLTTHS hiện hành thì các Tòa án có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm những VAHS gồm có:


21
- Các TAND huyện, quận, thành phố, thị xa thuộc tỉnh gọi là TAND cấp
huyện;
- Các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gọi là TAND cấp

tỉnh;
- Các Tòa án quân sự khu vực, quân chủng, và tương đương gọi là Tòa án
quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.
Để xác định những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện
theo sự việc cần phân biệt được với những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử sơ
thẩm của TAND cấp tỉnh và những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS
khu vực.
Việc phân định thẩm quyền giữa các cấp Tòa án (mà trong trường hợp
này là thẩm quyền giữa TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh) được căn cứ vào
loại tội phạm và tội danh trong VAHS. Mức độ của tội phạm ngày càng nguy
hiểm thì Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt áp dụng đối với tội phạm đó
càng nghiêm khắc. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng,
tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Dấu hiệu để nhận
biết một tội phạm cụ thể thuộc loại tội nào, nhà làm luật đa dựa trên cơ sở mức
cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 thì:
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xa hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là đến 3 năm tù.
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xa hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là đến 7 năm tù.
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xa hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là đến 15 năm tù.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho
xa hội mà mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là trên 15
năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.


22
Như vậy, việc quy định thẩm quyền xét xử cho Tòa án cấp huyện dựa trên

2 nguyên tắc: căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với
từng tội và xác định những tội phạm không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND
cấp huyện. Theo đó, TAND cấp huyện sẽ được xét xử những VAHS về những
tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng với tội ấy là từ 15 năm
tù trở xuống hoặc hình phạt khác nhẹ hơn, trừ những tội phạm sau đây:
a) Tội xâm phạm an ninh quốc gia (quy định tại chương XI, gồm 15 tội);
b) Tội phá hoại hoà bình, chống phá loài người và tội phạm chiến tranh
(quy định tại chương XXIV - gồm 4 tội);
c) Các tội quy định tại các điều:
- Điều 93: Tội giết người;
- Điều 95: Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
- Điều 96: Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Điều 272: Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài
nguyên;
- Điều 216: Tội vi phạm các quy định về điều khiển tàu bay;
- Điều 217: Tội cản trở giao thông đường không;
- Điều 218: Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không
không bảo đảm an toàn;
- Điều 219: Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều
khiển các phương tiện giao thông đường không;
- Điều 221: Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ;
- Điều 222: Tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không
của nước Cộng hoà xa hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Điều 223: Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về
hàng hải của nước Cộng hoà xa hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Điều 224: Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các vi rút tin học;
- Điều 225: Tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng
máy tính điện tử ;



23
- Điều 226: Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính;
- Điều 263: Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu
huỷ tài liệu bí mật nhà nước;
- Điều 293: Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội;
- Điều 294: Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội;
- Điều 295: Tội ra bản án trái pháp luật;
- Điều 296: Tội ra quyết định trái pháp luật;
- Điều 322: Tội đầu hàng địch;
- Điều 323: Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm
tù binh.
Theo quy định của BLHS năm 1999 thì có 344 tội danh với 674 khung.
Nếu thực hiện theo quy định của BLTTHS năm 1988 thì TAND cấp huyện có
thẩm quyền xét xử 347/ 674 khung, chiếm 51,48%. Nếu thực hiện theo thẩm
quyền mới được quy định trong BLTTHS năm 2003 thì TAND cấp huyện có
thẩm quyền xét xử 518/674 khung chiếm 76,85% (tăng hơn so với thời kỳ trước
25,37%). BLTTHS năm 2003 đa mở rộng thêm nhiều nhóm tội và tội danh
không thuộc thẩm quyền xét xử theo sự việc của TAND cấp huyện, nhưng do
tăng thẩm quyền cho TAND cấp huyện được xét xử những tội phạm được quy
định trong BLHS mà mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội đó
là đến 15 năm tù, nên Tòa án cấp huyện sẽ xét xử nhiều khung hình phạt hơn
trong BLHS so với trước đây (tăng 25,37%). Chỉ dựa vào BLHS để phân tích
mà chưa dựa vào thực tiễn xét xử để đánh giá, có thể ở một góc độ nào đó không
được chính xác hoàn toàn vì mỗi hành vi phạm tội được quy định trong BLHS
xảy ra trên thực tế là khác nhau, có tội xảy ra rất thường xuyên, phổ biến (tội
trộm cắp, tội phạm về ma tuý, tội xâm phạm sức khoẻ...) nhưng cũng có tội lại
rất ít xảy ra, hầu như không xảy ra (tội xâm phạm hoà bình...) hoặc do tính chất
đặc thù của hành vi chỉ xảy ra ở một số nơi nhất định (tội vượt biên, tội hoạt
động phỉ...). Nhưng chắc chắn, theo quy định của khoản 1 Điều 170 BLTTHS
năm 2003 thì số lượng án sơ thẩm mà TAND cấp huyện xét xử sẽ tăng. Do vậy,



24
số lượng án mà TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm sẽ giảm dẫn đến số lượng án
phúc thẩm ở TANDTC cũng giảm theo, tạo điều kiện cho TANDTC thực hiện
công tác giám đốc thẩm, tái thẩm, tổng kết công tác xét xử, hướng dẫn các Tòa
án cấp dưới áp dụng pháp luật... đạt hiệu quả cao.
Hiện nay, điều kiện xét xử cấp huyện đa được kiện toàn hơn trước, nhưng
do trình độ Thẩm phán và điều kiện cơ sở vật chất ở các địa phương khác nhau,
có sự chênh lệch rất lớn giữa nhiều nơi: miền núi và đồng bằng, giữa thành phố
và nông thôn... Đồng loạt tăng thẩm quyền cho tất cả TAND cấp huyện theo quy
định khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003 trong một thời gian ngắn có thể
khiến cho một số Tòa án chưa thể đáp ứng ngay được. Do vậy, việc đặt ra lộ
trình thực hiện thẩm quyền theo khoản 1 Điều 170 của BLTTHS năm 2003 đối
với TAND cấp huyện là hợp lý. Nghị quyết số 24/2004/NQ-QH11 về việc thi
hành BLTTHS năm 2003 đa chỉ rõ tại mục 3: “Kể từ ngày Bộ luật tố tụng hình
sự có hiệu lực, những Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh... có đủ điều kiện thực hiện thì được giao thẩm quyền xét xử mới
được quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Những
Tòa án huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh... chưa đủ điều kiện thực hiện thì
thực hiện thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng, trừ những tội phạm quy định tại các điểm a, b, c khoản
1 Điều 170 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Nhưng chậm nhất là đến
ngày 1/7/2009, tất cả các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh phải thực hiện thống nhất thẩm quyền xét xử”.
Ngay sau đó, ngày 29/4/2004 Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra 2 Nghị
quyết: Nghị quyết số 509 và Nghị quyết số 523 quy định cụ thể cho 170 Toà án
cấp huyện thực hiện thẩm quyền mới. Điều 1 Nghị quyết số 509/2004/NQUBTVQH11 đa nhận định: “Trên cơ sở tăng cường đội ngũ cán bộ, cơ sở vật
chất của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh... đồng thời bảo đảm sự đồng bộ trong việc thực hiện

thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan này, hàng năm Tòa án


25
nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chính
phủ thống nhất đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định những Tòa án
nhân dân cấp huyện... được thực hiện thẩm quyền xét xử”. Nghị quyết số 523
quy định cụ thể cho 170 Toà án cấp huyện đầu tiên được thực hiện theo thẩm
quyền mới, chủ yếu là các Toà án thị xa, thành phố thuộc tỉnh, các TAND quận,
huyện của thành phố trực thuộc Trung ương.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về giao thẩm quyền mới cho Tòa án
cấp huyện xét xử các VAHS, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Bộ Tư pháp đa ban hành nhiều Chỉ thị, Thông tư hướng dẫn các cơ quan
tư pháp địa phương củng cố bộ máy tổ chức; nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ,
công chức; tăng cường cán bộ có năng lực; bổ sung kinh phí trang thiết bị làm
việc; mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ TAND cấp huyện, tăng ngân sách
đầu tư về cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động cho các đơn vị thực hiện thẩm
quyền mới; thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành tiến hành kiểm tra việc
TAND cấp huyện thực hiện thẩm quyền mới tại một số tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
Theo báo cáo của TANDTC thì Liên ngành tư pháp Trung ương đa chỉ đạo
các cơ quan tư pháp cấp tỉnh dự kiến danh sách các TAND cấp huyện có đủ điều
kiện để giao thực hiện thẩm quyền mới. Trên cơ sở đó, ngày 27/7/2006, Nghị
quyết được Quốc hội thông qua đa cho phép thêm 117 TAND huyện, quận, thị
xa, thành phố thuộc tỉnh được thực hiện thẩm quyền xét xử theo quy định tại
khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003.
Việc không cho phép đồng loạt các TAND cấp huyện trong cả nước thực
hiện thẩm quyền mới, về lý luận, là chưa phù hợp với quy định của BLTTHS
năm 2003. Tuy nhiên, như đa phân tích ở trên, điều này là cần thiết và phù hợp
với thực trạng xét xử của nước ta hiện nay. Hơn nữa, chúng ta có thể vận dụng

quy định tại khoản 2 Điều 170 BLTTHS năm 2003 quy định về những vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện mà Tòa án cấp tỉnh lấy lên để
xét xử.


×