Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

thẩm quyền xét xử theo sự việc các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.46 KB, 64 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta được khởi đầu bằng Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) với việc thừa nhận kinh tế nhiều thành
phần và chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy nền kinh tế thị trường ln tiềm ẩn trong nó
những phức tạp,địi hỏi nhất định. Chấp nhận chuyển sang nền kinh tế thị trường
là chấp nhận sự điều tiết thị trường bằng những quy luật của nó - một điều rất xa
lạ với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước đó. Các quy luật như: quy
luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh ... đã trở thành “những bàn tay
vơ hình” tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
trường mà ở đó lợi nhuận và hiệu quả được xem là mục tiêu, điều kiện đồng thời
là lý do tồn tại hay khơng tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, cạnh tranh cũng xuất
hiện như một hiện tượng phổ biến mang tính tất yếu trên thị trường. Nó diễn ra
trên mọi mặt của đời sống kinh tế và trở thành yếu tố quan trọng mà các doanh
nghiệp buộc phải quan tâm.
Từ năm 1995, với việc tham gia ASEAN, nước ta bắt đầu tham gia vào
quá trình hội nhập kinh tế một cách toàn diện và ngày càng sâu rộng hơn đánh
dấu bằng việc tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
(APEC), ký kết hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) và mới đây là
việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Quá trình này đã làm thay
đổi một cách cơ bản vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế .
Đối xử bình đẳng giữa các nước bạn hàng, giữa doanh nghiệp trong nước
và doanh nghiệp nước ngoài là một trong những cam kết cơ bản trong AFTA,
APEC, BTA và WTO. Các cam kết sẽ tăng thêm sức ép cạnh tranh với hàng hố
nhập khẩu, với doanh nghiệp nước ngồi hoạt động trong và ngoài lãnh thổ Việt
Nam. Điều này sẽ đặt các doanh nghiệp trong nước cũng như toàn bộ nền kinh
tế trước những thách thức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy
nhiên, thể chế pháp lý ở nước ta lúc này vẫn còn nhiều bất cập trong việc đảm




bảo cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, đang hạn
chế doanh nghiệp tham gia thị trường và cạnh tranh. Để doanh nghiệp trong
nước chuẩn bị cho quá trình hội nhập, bước vào cạnh tranh quốc tế gay gắt khi
các cam kết quốc tế có hiệu lực đầy đủ, nhà nước ta cần xây dựng chính sách
cạnh tranh để tạo ra và duy trì mơi trường cạnh tranh tích cực trên thị trường
trong nước.
Đứng trước những địi hỏi cấp bách đó, tại kỳ họp thứ VI, Quốc hội khố
XI ngày 03/12/2004, Luật Cạnh tranh được thơng qua sau 14 lần chỉnh sửa. Có
thể nói, sự ra đời của Luật Cạnh tranh 2004 đã đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng trong đời sống kinh tế – xã hội, trở thành công cụ điều chỉnh các hoạt động
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Có người đã nhận xét, sự ra đời của
Luật Cạnh tranh 2004 chứng tỏ lỗ hổng cuối cùng trong quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường đã được khắc phục.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay phần lớn là những doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh, khả năng cạnh tranh trên thị
trường còn hạn chế. Bên cạnh đó, vẫn cịn nhiều doanh nghiệp thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước, ỷ lại vào Nhà nước, tỏ ra kém hiệu quả trong sản xuất kinh
doanh. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thì những yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng bộc lộ rõ
hơn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Đây là một thực tế khó
khăn trong việc đưa các quy định của Luật Cạnh tranh vào cuộc sống.
Vậy làm thế nào để chính sách cạnh tranh được thực thi một cách có hiệu
quả, tạo cạnh tranh năng động trên thị trường? Một trong những vấn đề đặt ra là
phải tiến hành cải cách DNNN.Từ lâu, cải cách DNNN là mối quan tâm của
Đảng và nhà nước ta với nhiều giải pháp được thực hiện trong từng thời kỳ khác
nhau. Tuy nhiên, thực tế phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa
qua cho thấy: Cổ phần hoá (CPH) là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta
trong giai đoạn hiện nay. CPH là giải pháp tối ưu cho quá trình sắp xếp, đổi mới,

nâng câo hiệu quả của DNNN, là giải pháp tạo ra môi trường cạnh tranh lành

2


mạnh, năng động, bình đẳng – qua đó giúp thực thi có hiệu quả những quy định
của Luật Cạnh tranh (2004).
Với mục đích tìm hiểu một cách tồn diện về cạnh tranh, pháp luật cạnh
tranh và ảnh hưởng của tiến trình CPH DNNN đối với việc đưa Luật Cạnh tranh
vào cuộc sống, người viết đã chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho khoá
luận tốt nghiệp, khoá học 2003 – 2007.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây có một số bài viết, cơng trình nghiên cứu khoa học
tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của cạnh tranh nói riêng và
CPH DNNN nói chung. Mỗi cơng trình khoa học có mục đích nghiên cứu khác
nhau, do vậy cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu cũng khác nhau. Nhưng chưa
có đề tài nào tập trung nghiên cứu CPH DNNN trên phương diện như một giải
pháp thực thi Luật Cạnh tranh trong cuộc sống. Vì vậy, nội dung, phạm vi
nghiên cứu đề tài này khơng trùng lặp với các cơng trình đã được nghiên cứu
trước đó.
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một cách hệ thống, tồn diện về cạnh
tranh, từ đó khẳng định sự cần thiết của việc CPH DNNN đối với quá trình thực
thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn cạnh tranh và
CPH DNNN, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những điểm còn hạn chế và cần
khắc phục.
- Mục đích nghiên cứu: Đi sâu nghiên cứu tình hình cạnh tranh, tình hình
CPH DNNN ở Việt Nam hiện nay, qua đó tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa
chính sách cạnh tranh và chính sách về CPH DNNN .Chỉ ra vai trò của CPH
DNNN đối với quá trình đưa Luật Cạnh tranh vào cuộc sống. Đánh giá đúng

tính chất, thực trạng cạnh tranh trên thị trường Việt Nam và sự cần thiết của
CPH DNNN trong việc tạo ra mơi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Từ
đó kết hợp với cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp đẩy nhanh
tiến trình CPH DNNN nhằm thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh.
4. Phương pháp nghiên cứu
3


Đề tài này được người viết nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và thực thi pháp luật kinh tế nói
chung trong đó co pháp luật cạnh tranh.
Ngồi ra đề tài cũng kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận, thực tiễn
được các nhà nghiên cứu đi trước đã đưa ra, những tài liệu đã được cơng bố trên
những tạp chí, bài viết, bài báo cáo tổng kết rút kinh nghiệm của các ngành, các
cơ quan từ hoạt động đến thực tiễn.
Người viết đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phân
tích, chứng minh, so sánh, tổng hợp, thống kê, quy nạp…để rút ra những kết
luận khoa học của mình.
5. Cơ cấu luận văn
Luận văn bao gồm: Lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu và 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận của cạnh tranh và Cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước
Chương II: Thực trạng về cạnh tranh và Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương III: Một số đề xuất đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước nhằm thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh.
Trong suốt q trình nghiên cứu để hồn thành khố luận này, người viết
đã có nhiều cố gắng làm việc một cách nghiêm túc. Nhưng do đây là lần đầu tiên
tìm hiểu, làm quen với chủ đề này, nên khó tránh khỏi những bỡ ngỡ và thiếu

sót. Rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của q thầy cơ, bạn bè
và những ai quan tâm tới vấn đề này để đề tài được hoàn thiện sâu sắc hơn
trong thời gian tới.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

4


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CẠNH TRANH VÀ CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Khái quát chung về cạnh tranh và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.1. Cạnh tranh - động lực thúc đẩy nền kinh tế thị trường
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trường sẽ làm thay đổi về căn bản vai trò của Nhà nước trong thị trường.
Có những điều được coi là hiển nhiên trong nền kinh tế kế hoạch hố đã trở nên
khơng phù hợp với nền kinh tế thị trường và ngược lại, có điều khơng được chấp
nhận trong kinh tế tập trung lại thích hợp trong kinh tế thị trường - cạnh tranh là
một trong những phạm trù như vậy.
Nền kinh tế thị trường hiểu một cách đơn giản nhất là nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường. Ở đó, sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai được giải
quyết do yêu cầu khách quan của thị trường. Cơ chế thị trường được hiểu là tổng
thể các nhân tố cơ bản vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường
trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Cạnh tranh là một trong
những đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường. Khơng có cạnh tranh thì khơng có
nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, nền kinh tế thị trường khi vận hành cũng
phải tuân theo những quy luật khách quan riêng của mình, đó là quy luật cạnh
tranh.
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cho đến nay, về mặt kinh tế đa số các quốc gia trên thế giới đều đi theo

con đường kinh tế thị trường. Thừa nhận với nền kinh tế thị trường cũng đồng
nghĩa với việc thừa nhận các quy luật của nó, trong đó có quy luật cạnh tranh là
quy luật chi phối mạnh mẽ nhất mọi hoạt động của nền kinh tế thị trườn. Nhận
thức được quy luật cạnh tranh, những vấn đề liên quan đến cạnh tranh trong nền
kinh tế thị trường là vô cùng quan trọng và cần thiết đối với Nhà nước – chủ thể
có nhiệm vụ điều tiết nền kinh tế thị trường, đối với các thành phần trong nền
kinh tế thị trường với tư cách là các chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình
5


cạnh tranh. Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là sự sống còn của doanh
nghiệp.
Về mặt thuật ngữ, cạnh tranh (compete. đgt) tên tiếng Anh (competition)
được hiểu là sự tranh đua đẻ giành ưu thế về phía mình trong một lĩnh vực nào
đó.Theo cn từ điển Kinh doanh, xuất bản năm 1992 ở Anh, cạnh tranh trong
cơ chế thị trường được định nghĩa như sau: ''Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình
địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài
nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình''.Theo từ điển
Cornu của Pháp, thì cạnh tranh (concurrence) được hiểu là ''chạy đua trong kinh
tế, hành vi của các doanh nghiệp độc lập với nhau là đối thủ của nhau cung ứng
hàng hoá, dịch vụ, nhằm làm thoả mãn nhu cầu giống nhau vối sự may rủi của
mỗi bên, thể hiện qua việc lôi kéo được họăc để mầt đi một lượng khách hàng
thường xuyên''. ''Chạy đua trên thị trường mà cấu trúc và sự vận hành của thị
trường đó đáp ứng các điều kiện của quy luật cung cầu giữa một bên là các nhà
cung cấp vối bên kia là những người sử dụng hoặc tiêu dùng hàng hoá họăc dịch
vụ:các hàng hoá và dịch vụ này được tự do tiếp cận trong điều kiện các quyết
định kinh doanh phải là hệ quả của áp lưc hoặc do nhữnh ưu đãi do pháp luật
mang lại''[15, tr. 11].Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, cạnh tranh là ''hoạt
động tranh đua giữa những người sản xuât hàng hoá, giữa các thương nhân, các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bổi quan hệ cung cầu,

nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lội nhất...''[14, tr.
375] . Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về cạnh tranh, song nhìn chung dưới
góc độ kinh tế, cạnh tranh được hiểu là sự chạy đua hay ganh đua của các thành
viên của một thị trường hàng hoá, sản phẩm cụ thể nhằm mục đích lơi kéo về
phía mình ngày càng nhiều khách hàng, thị trường và thị phần của một thị
trường cụ thể [22].
Cạnh tranh là hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Với tư cách là
động lực phát triển nội tại của nền kinh tế, cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại
dưới những tiền đề kinh tế và pháp lý nhất định mà những tiền đề đó chỉ có thể
có trong điều kiện kinh tế thị trường. Về phương diện kinh tế, cạnh tranh được
6


hình thành trên cơ sở tiền đề là có sự tham gia của các thành viên thương
trường, có cuộc đua chạy mục tiêu kinh tế giữa các thành viên và chúng đều
diễn ra trên một thị trường hàng hoá cụ thể. Ví dụ: vì mục tiêu lợi nhuận, doanh
số hoặc thị phần. Xét về phương diện pháp lý, cạnh tranh chỉ có thể diễn ra trong
điều kiện pháp luật thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu,
khi tự do thương mại và theo đó là sự tự do kinh doanh và quyền tự chủ của các
nhân được hình thành và đảm bảo.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh, các tín hiệu giá cả, lợi nhuận tạo
ra sự kích thích để các doanh nghiệp chuyển nguồn lực từ nơi tạo ra giá trị thấp
hơn sang nơi giá trị cao hơn. [16, tr. 17].
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người
khác, song xét dưới góc độ tồn xã hội, cạnh tranh ln có tác động tích cực.
Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan trọng nhất để huy động nguồn lực
của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hố, dịch vụ cịn thiếu, qua đó nâng
cao năng lực sản xuất của tồn xã hội. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận
một số chức năng quan trọng như: đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu; hướng

dẫn việc sử dụng các nhân tố vào sản xuất vào những nơi có hiệu quả nhất, tạo
mơi trường thuận lợi để sản xuất thích ứng với mọi sự biến động của nhu cầu và
công nghệ sản xuất, cạnh tranh tác động tích cực đến sự phân phối thu nhập.
Tầm quan trọng của những chức năng này có thể thay đổi theo từng thời kỳ. Ở
mỗi thời kỳ khác nhau, tuỳ theo việc đánh giá tầm quan trọng của mỗi chức
năng, người ta xây dựng mô hình chính sách cạnh tranh khác nhau.
Cạnh tranh điều chỉnh cung – cầu hàng hoá trên thị trường: khi một cung
hàng hố nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả
thị trường giảm xuống, chỉ những chủ cơ sở kinh doanh kinh doanh nào đủ khả
năng cải tiến công nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá
bán sản phẩm mới có thể tồn tại được. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh là nhân tố
quan trọng kích thích ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất.

7


Khi một cung hàng hố nào đó thấp hơn cầu, hàng hoá sẽ trở nên khan
hiếm trên thị trường, giá cả tăng tạo nên lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi
đó, người kinh doanh sẽ đầu tư vốn, xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc
nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội. Điều quan trọng là động lực đó
hồn tồn tự nhiên, khơng theo và khơng cần theo bất kỳ một mệnh lệnh hành
chính nào của cơ quan hành chính Nhà nước.
Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh luôn luôn quan tâm đến việc cải
tiến công nghệ, trang bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm, hạ giá thành, và trên cơ sở đó hạ giá bán của hàng hoá.
Trong điều kiện của cơ chế thị trường, mức độ của cạnh tranh đã trở lên
gay gắt thì các doanh nghiệp vì sự tồn tại của mình ln phải tính tốn để vượt
lên trên các đối thủ cạnh tranh của mình. Điều đó có nghĩa là cạnh tranh có khả
năng tạo sức ép để chống trì trệ, khắc phục suy thối và buộc các doanh nghiệp
phải kinh doanh có hiệu quả [22].

Trong cạnh tranh, tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ
làm ăn hiệu quả, đồng thời có doanh nghiệp bị thua lỗ, thậm chí phá sản. Đối với
xã hội, phá sản doanh nghiệp khơng hồn tồn mang ý nghĩa tiêu cực, vì các
nguồn lực của xã hội được chuyển sang cho các nhà kinh doanh khác tiếp tục sử
dụng một cách có hiệu quả hơn. Vì vậy, phá sản khơng phải là sự huỷ diệt hoàn
toàn mà là sự huỷ diệt sáng tạo [16, tr. 34]. Việc duy trì các doanh nghiệp kém
hiệu quả cịn gây ra nhiều lãng phí cho xã hội hơn là phá sản. Qua đây ta thấy,
cạnh tranh làm cho nền kinh tế ln có khả năng cơ cấu lại một cách năng động.
Tóm lại, cạnh tranh là động lực thúc đẩy đổi mới và theo kinh tế học
Adam Smith gọi là “bàn tay vơ hình”
1.2. Khái qt chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.2.1. Khái niệm CPH DNNN
1.2.1.1. Khái niệm DNNN
DNNN được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau ở các nước khác nhau
do cách tiếp cận khác nhau về khoa học hoặc do để thực hiện các số liệu thống
kê với mục đích khác nhau. Một số nước thống kê DNNN có thể liệt kê cả
8


những tổ chức nghiên cứu mà không hoạt động thương mại. Trong khi đó, có
những quốc gia khi thống kê DNNN lại bỏ qua những DNNN do chính quyền
địa phương quản lý. Tuy nhiên, đa số các nước đều có những điểm chung khi
nói đến DNNN - Đó là vấn đề sở hữu của Nhà nước.
Định nghĩa DNNN được sử dụng khá phổ biến là định nghĩa trong Báo
cáo của Tổ chức phát triển Liên hợp quốc (UNIDO). Theo UNIDO, DNNN
được định nghĩa là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước hoặc do Nhà
nước kiểm sốt, có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hoá và cung cấp dịch
vụ. Theo định nghĩa này, DNNN bao gồm các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ
phần lớn cổ phần và cả những doanh nghiệp tuy Nhà nước không giữ phần lớn
cổ phần song do sự phân tán của cổ đông mà Nhà nước nắm giữ quyền chi phối,

các doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sự quản lý của các bộ ngành.
Khái niệm DNNN trong hệ thống pháp luật Việt Nam thay đổi qua nhiều
thời kỳ tương ứng với sự thay đổi về quan niệm đối với sở hữu Nhà nước, thay
đổi trong cơ chế quản lý kinh tế. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị
trường và để DNNN hoạt động có hiệu quả hơn, năm 1995, Nhà nước ta đã ban
hành Luật DNNN, thể chế hoá nhiều quan điểm mới về loại hình doanh nghiệp
này.
Luật DNNN 1995 định nghĩa DNNN như sau: “DNNN là tổ chức kinh tế
do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh
hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước
giao, DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh
nghiệp quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính chính trên
lãnh thổ Việt Nam”
Khái niệm DNNN được phát triển tương đối sâu trong định nghĩa và các
quy định của Luật DNNN 2003. Điều 1 – Luật DNNN 2003 quy định: “DNNN
là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp
chi phối, được tổ chức dưới hình thức Cơng ty Nhà nước, công ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn”.
9


Đến Luật Doanh nghiệp 2005 thì DNNN được định nghĩa như sau:
“DNNN là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ” [ K22
- Điều 4]
Như vậy, Luật DNNN 2003 và Luật Doanh nghiệp 2005 đã đa dạng hố
các DNNN trên tiêu chí quyền chi phối chứ khơng phải tiêu chí sở hữu trước
đây.
1.2.1.2. Khái niệm và bản chất của CPH DNNN
CPH DNNN bắt đầu thực hiện thí điểm từ năm 1990. Cơ sở pháp lý cho

việc thực hiện chương trình này là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/05/1990
của Hội đồng Bộ trưởng và sau đó được thực hiện với quy mô rộng hơn. Thực
ra, việc CPH được đề cập từ những năm 1987, song thực tế lúc đó chưa cho
phép triển khai giải pháp này. Bởi ở nước ta vào thời điểm này vẫn tồn tại nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế Nhà
nước và kinh tế tập thể. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường được Đại hội
Đảng lần thứ VI (12/1986) khởi xướng đã tạo ra những điều kiện, tiền đề để cải
cách triệt để vì nó giải quyết được căn nguyên của những yếu kém trong tổ
chức, quản lý và hoạt động của DNNN, đó là vấn đề sở hữu. CPH doanh nghiệp
chấp nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân
các thực thể kinh tế vi mô mà trước hết là trong các doanh nghiệp. CPH DNNN
là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trước đổi mới ít ai
dám nghĩ đến.
Xét ở khía cạnh chính trị: CPH DNNN khơng nhằm mục tiêu tư nhân hố
nền kinh tế, mặc dù CPH có chứa đựng yếu tố “tư nhân hố”. CPH được coi là
q trình tư nhân hố một phần. CPH khơng xố bỏ hồn tồn sở hữu Nhà nước
trong các cơ sở kinh tế công, mà chỉ giảm mức độ sở hữu, tức là chỉ có sự thay
đổi về lượng chứ khơng có sự thay đổi về chất trong các cơ sở kinh tế này [20,
tr. 135]. CPH là giải pháp làm cho sở hữu sở hữu trong DNNN từ ''ảo'' đến
''thực'', chuyển từ sự kiểm soát bằng “chế độ quan liêu” sang sự kiểm sốt thơng
qua lợi ích của các chủ sở hữu thực. Khác với làn sóng tư nhân hố ở các nền
kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu đang chuyển các DNNN từ sở hữu chung của xã
10


hội sang sở hữu của cá nhân, CPH DNNN ở Việt Nam nhằm thu hút sự tham gia
làm chủ thực sự của người lao động vào DNNN thông qua việc để họ sở hữu
một phần vốn trong DNNN, biến họ từ “người lao động ” thuần tuý thành người
lao động “có sở hữu vốn của doanh nghiệp”. Giải pháp này làm cho doanh
nghiệp có thêm những chủ nhân thực sự bên cạnh chủ nhân trừu tượng là Nhà

nước. Với tư cách là giải pháp cải cách nền kinh tế, CPH DNNN ở nước ta
được tiến hành với sự cân nhắc triệt để các hậu quả chính trị và xã hội của nó.
Đặc biệt CPH DNNN vẫn đảm bảo được tính định hướng xã hội chủ nghĩa của
việc phát triển kinh tế thị trường trong lúc vẫn củng cố được những thành quả
của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nước ta [20, tr. 170].
Xét về bản chất pháp lý: CPH là việc biến doanh nghiệp một chủ thành
doanh nghiệp nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu
chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những
người khác.Những người này trở thành sở hữu chủ của doanh nghiệp theo tỷ lệ
tài sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp CPH. Xét đưới góc độ này thì CPH dẫn
tới sự xuất hiện không chỉ của công ty cổ phần trên nền tảng của doanh nghiệp
được CPH
Qua phân tích trên đây ta thấy, để hiểu rõ hơn về bản chất của CPH, cần
phải nhận thức được bản chất chính trị và bản chất pháp lý của CPH.
1.2.2. Vai trò của CPH DNN trong việc thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh
CPH có vai trị to lớn trong việc đổi mới DNNN, nhất là ở những nền kinh
tế chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Tác dụng của CPH thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, CPH có tác dụng làm cho sở hữu đối với doanh nghiệp trở nên
đa dạng hơn. Chính vì vậy nó giải quyết được khá triệt để về vấn đề sở hữu
trong DNNN loại hình doanh nghiệp với những vướng mắc về hậu quả và sự
kém năng động trong sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, CPH có tác dụng trong xã hội hố tư liệu sản xuất trong doanh
nghiệp thuộc sở hữu một chủ. Như vậy, các thực thể kinh doanh vĩ mô cũng trở

11


nên đa sở hữu như bản thân nền kinh tế vĩ mơ. Điều này tạo ra sự tương thích
nhất định giữa các giải pháp quản lý vĩ mô và vi mô.

Thứ ba, CPH tạo cho những người lao động cơ hội thực sự làm chủ doanh
nghiệp nếu như họ mong muốn. Bằng việc sở hữu cổ phần (hay phần vốn góp )
của doanh nghiệp, người lao động có thể tham gia vào việc quyết định các vấn
đề quan trọng của doanh nghiệp thông qua “nền dân chủ cổ phần” [20, tr. 147]
họ góp phần hình thành nên các cơ quan quản lý doanh nghiệp, quyết định vấn
đề trọng đại của nó. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao tính chủ động,
tích cực của người lao độmg khơng chỉ đối với các vấn đề của doanh nghiệp mà
cả đối với các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Những tác động to lớn mang tính phổ biến trên của CPH đương nhiên
đúng với giải pháp CPH DNNN mà đất nước ta đang tiến hành. Trong bối cảnh
Việt Nam hiện nay, những tác động này của CPH cịn phát huy tác dụng lớn hơn
vì thực trạng của DNNN đang đòi hỏi phải cải cách triệt để trong lúc đó nhiệm
vụ đặt ra là khơng được làm mất đi vai trị chủ đạo của chúng. Ngồi ra, ở Việt
Nam, CPH DNNN cịn có những tác động sau:
Thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán đang gặp khó khăn
trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước. Sự phát triển của thị trường
chứng khoán phụ thuộc chủ yếu vào việc trên thị trường có chứng khốn để giao
dịch hay khơng. Các cơng ty cổ phần thường là các doanh nghiệp cung cấp
chứng khoán với tỷ lệ lớn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, số
lượng công ty cổ phần ở nước ta khơng lớn và nhất là khơng có tiềm lực kinh tế
mạnh vì phần lớn là những cơng ty cổ phần tư nhân. Các doanh nghiệp, các công
ty lớn và Tổng công ty của Nhà nước chưa được CPH và cũng chưa phát hành
trái phiếu rộng rãi. CPH DNNN ở nước ta sẽ tạo ra những chủ thể phát hành
chứng khoán có tiềm lực.
CPH ở nước ta có tác dụng rất lớn trong việc đẩy lùi tình trạng lãng phí,
tham nhũng đang khá phổ biến trong các DNNN và những cơ quan quản lý. Sự
bao cấp của Nhà nước đối với nhiều doanh nghiệp, cơ chế xin – cho là mảnh đất
tốt lành cho những hành động lãng phí, tham nhũng. CPH tạo ra sự giám sát chặt
12



chẽ của chủ sở hữu (cổ đông) đối với giám đốc và cán bộ quản lý DNNN CPH.
Điều này có nghĩa là Giám đốc, nhân viên quản lý không dễ dàng thực hiện các
hành vi vụ lợi như khi DNNN đang hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Nhà
nước.
Những phân tích về tác động của CPH đã nêu ở trên có ý nghĩa quan
trọng đối với việc đổi mới và nâng cao hiệu quả của DNNN, từ đó góp phần
thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
2. Khái quát pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước
2.1. Pháp luật về cạnh tranh
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Do đó cạnh
tranh chỉ xuất hiện dưới những tiền đề kinh tế pháp lý cụ thể. Ngày nay, có lẽ
khơng ai cịn hồi nghi về sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường ở nước
ta, vì vậy cạnh tranh đã đựoc nhìn nhận chung như là động lực phát triển nội tại
của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh cũng chỉ thật sự diễn ra khi pháp luật thừa
nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi tự do thương mại và
theo đó là tự do kinh doanh, tự do khế ước và quyền tự chủ của các cá nhân
được hình thành và bảo đảm. Cạnh tranh cũng chỉ diễn ra khi khơng có bất kỳ
một quy định hay hành vi nào ngăn cản sự nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm
năng [19, tr. 5]- những doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập thị trường. Tất cả những
tiền đề đó đã được hình thành ở nước ta từ khi Đảng và Nhà nước ta có chủ
trương thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường đó. Nền tảng pháp lý của chủ
trương đó là Hiến pháp 1992 (Điều 15 và các điều 16, 19, 20, 21, 22, 25). Ngày
nay, nhu cầu nâng cao hơn nữa hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm,
của doanh nghiệp, và cả nền kinh tế đòi hỏi phải tạo ra cơ sở pháp lý cho tự do
cạnh tranh và kiểm sốt q trình đó trong quỹ đạo của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.1.1. Sự cần thiết phải ban hành Luật Cạnh tranh
Khi lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường tức là chúng ta đã thừa nhận sự

tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, thừa nhận tính khách quan của quy luật
13


kinh tế, đặc biệt là quy luật cạnh tranh với tư cách là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, thừa nhận sự tồn tại của quy luật cạnh tranh
khơng có nghĩa là chúng ta để mặc cho cạnh tranh diễn ra một cách “nguyên
thuỷ ” theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”. Ngày nay, ngay cả những quốc gia theo
khuynh hướng kinh tế thị trường tự do nhất cũng không áp dụng triệt để học
thuyết kinh tế “bàn tay vơ hình” của Adam Smith vốn chủ trương thủ tiêu sự can
thiệp của Chính phủ đối với sự vận hành của nền kinh tế [23, tr. 7].
Ở nước ta, đã có khơng ít các cơng trình nghiên cứu về sự cần thiết của
các nội dung cơ bản của Luật Cạnh tranh. Trên cơ sở các nghiên cứu đó, về cơ
bản có những yếu tố sau đây tác động đến việc phải xây dựng Luật Cạnh tranh ở
nước ta bao gồm:
Thứ nhất, là yêu cầu của bản thân nền kinh tế. Nhu cầu điều tiết nền kinh
tế thị trường bằng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, trong đó Luật cạnh
tranh là một trong những luật cơ bản. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp trước đây, cạnh tranh hầu như không diễn ra, hoặc diễn ra rất đơn giản vì
vốn chỉ có hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể và mọi vấn đề từ
chiến lược sản xuất kinh doanh, phân phối hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ đến
người dân đều thực hiện theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước. Chuyển sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với đa thành phần kinh tế,
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng khốc liệt. Mặt khác, các
DNNN, đặc biệt là các Tổng công ty 90, 91 với những đặc quyền do cơ chế
mang lại đã và đang tìm mọi cách bảo vệ vị trí độc quyền của mình hoặc vị trí
thống lĩnh của mình vì lợi ích cục bộ (điển hình trong lĩnh vực Bưu điện, Điện
lực, Bưu chính – viễn thơng, xăng dầu…). Trong khi đó, các biện pháp điều tiết
kinh tế vĩ mô (thể hiện trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật như: Bộ
luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật các Tổ chức tín dụng,

Luật Kinh doanh bảo hiểm) đã khơng đủ để điều chỉnh và kiểm soát các hiện
tượng này. Khi chưa có Luật Cạnh tranh, nhiều khi các cơ quan cơng quyền đã
phải chọn các giải pháp mang tính tình thế là “mượn” các quy phạm trong các
luật khác để xử phạt, hệ quả tất yếu là dễ bị rơi vào một trong hai khuynh
14


hướng: hoặc “tả khuynh” (hình sự hố các quan hệ dân sự, kinh tế ), hoặc “hữu
khuynh” (để mặc vi phạm diễn ra mà khơng xử lý vì chưa có quy phạm để điều
chỉnh) [23]. Chính vì vậy, rất cần thiết phải có các quy định của pháp luật để
điều tiết các hành vi và hiện tượng đã nêu trên.
Thứ hai, nhu cầu kiểm soát độc quyền, đặc biệt khi mở cửa thị trường để
hội nhập kinh tế quốc tế.
Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tồn tại bằng cách nào cũng
thường gây ra những hậu quả tiêu cực nhất định đối với nền kinh tế quốc dân.
Độc quyền trong kinh doanh sẽ dẫn đến hình thành giá cả độc quyền, giá cả lũng
đoạn cao, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Ở hầu hết các nước
đều tồn tại các loại độc quyền tự nhiên, độc quyền Nhà nước. Ở nước ta, với
xuất phát điểm thấp và một số đặc điểm nội tại của tình hình kinh tế – xã hội
trong thời gian tới sẽ vẫn còn một số ngành và lĩnh vực tồn tại một số ngành và
lĩnh vực tồn tại độc quyền Nhà nước. Tuy nhiên, thông qua các quy định của
Luật Cạnh tranh, Nhà nước cần có cơ chế kiểm sốt nhằm hạn chế hiện tượng
cửa quyền, lũng đoạn, lạm dụng vị trí độc quyền để tránh gây hậu quả xấu cho
xã hội.
Bên cạnh đó, cùng với q trình mở cửa thị trường thông qua việc ký kết
và gia nhập các hiệp định thương mại song phương và đa phương, đã và sẽ xuất
hiện những công ty đa quốc gia hoạt động ở Việt Nam. Những công ty này, với
sức mạnh kinh tế của mình, có khả năng tạo lập được vị thế độc quyền. Trong
bối cảnh đó, các doanh nghiệp nội địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế đang có
nguy cơ bị loại bỏ. Để chiếm lĩnh thị trường, các doanh nghiệp nước ngoài đã

thiết lập vị thế độc quyền diễn ra ở mức độ khác nhau. Do đó, việc chuẩn bị các
cơ sở pháp lý để kiểm soát độc quyền trong kinh doanh là điều cần thiết.
Thứ ba, yêu cầu tạo lập và duy trì một mơi trường kinh doanh bình đẳng.
Mặc dù Hiến pháp 1992 chính thức thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh
tế và khẳng định quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật,
nhưng khi thực hiện, nhiều cơ quan quản lý Nhà nước đã không thực sự tuân thủ
quy định này. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt
15


là giữa DNNN và doanh nghiệp khu vực tư nhân khá phổ biến. Bên cạnh đó, do
quyền lợi địa phương, cục bộ, một số cơ quan Nhà nước bằng các mệnh lệnh
hành chính của mình, gián tiếp can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, tạo lợi thế cho một hay một số doanh nghiệp vẫn đang diễn ra. Tình
trạng đó làm xuất hiện những rào cản thương mại ngay trên chính thị trường nội
địa. Ví dụ theo cách “chỉ được mua xi măng của tỉnh nhà trong xây dựng” hay
gần đây là việc Sở giáo dục một tỉnh yêu cầu các trường phổ thông trên địa bàn
chỉ được mua bút bi của một doanh nghiệp [18], làm mất cơ hội cạnh tranh bình
đẳng của các doanh nghiệp khác, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Vì vậy, việc ban hành Luật Cạnh tranh với các chế tài nghiêm khắc đối
các hành vi làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh bình đẳng là rất cần
thiết
2.1.2. Tổng quan pháp luật về cạnh tranh
2.1.2.1. Pháp luật cạnh tranh của một số nước trên thế giới
Cạnh tranh, chính sách cạnh tranh và các thủ pháp cạnh tranh là những
phạm trù rất đa dạng trong thực tiễn. Vì vậy, nội dung pháp lý của khái niệm
cạnh tranh khó xác định cụ thể so với khái niệm pháp lý về cạnh tranh không
lành mạnh. Khác với các bộ phận khác của pháp luật kinh tế, pháp luật cạnh
tranh tiếp cận hành vi cạnh tranh từ mặt trái của nó và khơng triệt để về tính xác
định về mặt nội dung.

Ở nhiều nước, theo thông lệ, pháp luật cạnh tranh được chia thành hai lĩnh
vực, đó là: pháp luật về chống cạnh tranh khơng lành mạnh (Unfair
Competition) và pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh (Restrictive
Competition). Ngoài ra, pháp luật cạnh tranh của các nước có những quy định về
xem xét, kiểm tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay hạn chế
cạnh tranh. Bên cạnh đó, quản lý Nhà nước về cạnh tranh cũng là một vấn đề
lớn thuộc pháp luật cạnh tranh mà theo đó, pháp luật thiết lập cơ quan cạnh
tranh và xác lập địa vị pháp lý của chúng [22, tr . 5;6]. Nhiều quốc gia đã điều
tiết cạnh tranh bằng pháp luật ngay cuối thế kỷ XIX như : Canada là quốc gia
đầu tiên trên thế giới ban hành Luật Cạnh tranh (1889). Song khi nhắc đến Luật
16


Cạnh tranh, người ta vẫn coi Hoa Kỳ là “cha đẻ” của ngành luật này với hai đạo
luật được ban hành cách đây trên dưới một thế kỷ (Đạo luật Sherman Act năm
1980 và Clayton Act năm 1914) hoặc từ những thập niên 40, 50 của thế kỷ XX
như: Pháp (1945), Nhật Bản (1947), Cộng hoà Liên Bang Đức (1958)… Kinh
nghiệm của một số nước trong thiết kế chính sách cạnh tranh được thể hiện:
Mỹ là một trong những nước sử dụng rộng rãi và thành công yếu tố cạnh
tranh để phát triển kinh tế và là nước ban hành Luật Cạnh tranh từ rất sớm. Do
vậy thực tế, Mỹ đã có mơi trường cạnh tranh tự do nên pháp luật cạnh tranh của
Mỹ tập trung chủ yếu vào việc ngăn ngừa hạn chế hình thành độc quyền. Trong
khi đó, do hệ thống pháp luật còn quy định hạn chế cạnh tranh nên Australia có
một cách tiếp cận ngược lại: chú trọng phát triển cạnh tranh, chống hạn chế cạnh
tranh hơn là kiểm soát hành vi của doanh nghiệp độc quyền [16, tr . 22].
Ở Pháp, Luật Cạnh tranh được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật
có mục đích điều tiết thị trường. Nói một cách đơn giản thì Luật Cạnh tranh bao
gồm “những quy định kiểm sốt, những biện pháp mà các tác nhân kinh tế sử
dụng để thu hút khách hàng của tác nhân khác” [15, tr. 14].
Nhật Bản là một nước Châu Á có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam,

nhất là văn hoá kinh doanh, với việc đánh giá tinh thần cộng đồng cao hơn tính
độc lập cá thể. Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh cũng gặp những vấn đề mà
hiện nay ta đang phải giải quyết như: môi trường kinh doanh thiếu minh bạch, rõ
ràng.
Mặc dù cách rất xa Việt Nam về mặt địa lý, nhưng kinh nghiệm của
Mexico rất đáng đựoc tham khảo. Là một nước đang phát triển, Mexico chấp
nhận và khuyến khích cạnh tranh ngay cả với nước láng giềng khổng lồ có
khoảng cách phát triển khá xa.
Ngồi ra, chúng ta cũng học hỏi kinh nghiệm của các nước như: Trung
Quốc, Hàn Quốc, Đức, Nga.
Mặc dù có thể có những đặc điểm riêng với trình độ phát triển cao hơn
nhiều so với nước ta, nhưng kinh nghiệm của những nước này cung cấp cho
chúng ta những bài học quý báu trong việc xây dựng chính sách cạnh tranh phù
17


hợp với điều kiện thực tế của mình. Tiếp thu bài học của nước khác và vận dụng
khéo léo chính sách cạnh tranh sẽ giúp chúng ta bắt kịp với các nước khác về
phát triển kinh tế.
2.1.2.2. Những nội dung cơ bản của Luật Canh tranh
* Gần như đã thành thông lệ quốc tế, Luật Cạnh tranh của các nước trên
thế giới đều tập trung điều chỉnh các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Các quy định bảo vệ thị trường, bao gồm các quy định về thoả thuận hạn
chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, tập trung kinh tế.
- Các quy định bảo vệ tác nhân kinh tế, bao gồm các chế định cạnh tranh
không lành mạnh, cấm phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại.
- Các quy định về cơ quan quản lý, điều tiết cạnh tranh.
- Các quy định về tố tụng cạnh tranh.
- Các biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.
* Luật cạnh tranh 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật cạnh

tranh ở Việt Nam
Trước kia khi nước ta chưa ban hành Luật Cạnh tranh thì pháp luật có liên
quan đến cạnh tranh tồn tại rải rác tại một số văn bản thuộc các lĩnh vực pháp
luật sau đây: Bộ luật Dân sự, pháp luật về sở hữu công nghiệp và chuyển giao
công nghệ, pháp luật về quảng cáo, pháp luật về quản lý cạnh tranh trong hoạt
động thương mại (Luật Thương mại). Tuy nhiên các quy định nói trên trong các
lĩnh vực điều chỉnh pháp luật khác nhau, kể cả khi chúng được thực hiện nghiêm
chỉnh vẫn chưa có đủ khả năng đáng kể để duy trì một trật tự cạnh tranh lành
mạnh ở nước ta.
Luật Cạnh tranh (2004) ra đời là một chế định pháp lý mới, phù hợp với
cơ chế thị trường. Luật này điều chỉnh những nội dung chủ yếu sau:
- Quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh: Thoả thuận hạn chế cạnh tranh,
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, tập trung kinh
tế;
- Quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
- Quy định về cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh;
18


- Quy định về trình tự thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử
lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
Cùng với việc ban hành Luật Cạnh tranh, Chính phủ đã ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh, gồm những văn bản sau:
- Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh;
- Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/09/2005 của Chính phủ quy
định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh;
- Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ về việc
thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, cơ cấu tổ chức của
Hội đồng cạnh tranh;

- Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh (2004) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra
khung pháp lý để duy trì một trật tự cạnh tranh lành mạnh ở nước ta.
2.2. Pháp luật về CPH DNNN
CPH là giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của
DNNN, mang tính chất chiến lược và có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của
nền kinh tế, xã hội của đất nước.
2.2.1. Sự cần thiét của pháp luật điều chỉnh CPH DNNN
CPH DNNN động chạm đến sở hữu Nhà nước, sở hữu tồn dân theo
hướng giảm tỷ trọng của nó. Hơn nữa, do nhiều yếu tố gắn với cơ chế kế hoạch
tập trung trước đây, việc CPH DNNN chứa đựng nguy cơ lãng phí ngân sách và
sự giàu lên của một số ít viên chức Nhà nước. Có thể nói, CPH là vấn đề nhạy
cảm cả về chính trị lẫn kinh tế. Chính vì vậy, CPH cần được tiến hành trên nền
tảng pháp lý vững chắc. Xét ở khía cạnh này, pháp luật hiện hành về CPH chưa
đáp ứng được. Từ trước đến nay, để tạo cơ sở pháp lý cho CPH, Nhà nước ta chỉ
ban hành các văn bản dưới luật trong đó phần nhiều là các Nghị định, Nghị
quyết hoặc các Thông tư hướng dẫn. Khác với thực tiễn lập pháp ở nhiều nước
tiến hành cải cách DNNN, ở nước ta hiện nay chưa có một văn bản hiệu lực cao
19


nào điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ CPH. Tốc độ CPH, việc giải quyết tốt
các vấn đề hậu CPH phụ thuộc khá nhiều vào sự tồn tại của một văn bản pháp
luật có hiệu lực cao mới giải quyết được một cách toàn diện, triệt để các vấn đề
liên quan đến CPH.
Việc hoàn thiện nền tảng pháp lý ở nước ta nên bắt đầu từ việc xây dựng
Luật CPH. Sự cần thiết phải xây dựng Luật CPH bắt nguồn từ những lý do khác
nhau dưới đây:
Thứ nhất: CPH có mục tiêu là sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao

hiệu quả DNNN – một bộ phận chủ yếu là thành phần kinh tế Nhà nước. Đối với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, CPH có tầm quan
trọng cả về kinh tế lẫn chính trị và xã hội. Xét ở khía cạnh kinh tế, CPH có thể
mang một sức sống mới cho thành phần kinh tế Nhà nước, đặc biệt là DNNN.
Xét từ góc độ chính trị, CPH đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại trong những
hình thức kinh tế mới, thích hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tăng hiệu quả của chúng và vai trị chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước.
Chính tầm quan trọng này quyết định sự cần thiết phải có một nền tảng pháp lý
tương xứng, đó chính là luật.
Thứ hai: Các quy định pháp luật hiện hành rất tản mạn, thiếu tính hệ
thống và có những mâu thuẫn lẫn nhau, cản trở khơng ít đến việc thực hiện hiệu
quả CPH DNNN. Một ví dụ cụ thể: Chỉ một thời gian ngắn sau khi ban hành
Nghị định số 64/2002/NĐ- CP, Nhà nước đã ban hành 17 văn bản khác nhau
liên quan đến việc thực thi Nghị định này [20, tr. 275]. Cho đến nay, việc rà soát
và đánh giá lại các tác động cũng như hiệu lực của các quy định pháp luật về
CPH chưa được thực hiện một cách chính thức và đầy đủ. Một trong những yêu
cầu hiện nay là rà soát để loại bỏ các quy định mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu tác
dụng hoặc phản tác dụng đối với tiến trình CPH.
Thứ ba: CPH động chạm đến nhiều vấn đề pháp lý quan trong như vấn đề
sở hữu Nhà nước, Công ty cổ phần, phát hành chứng khoán, việc làm, bảo hiểm.
Các vấn đề nêu trên đều được điều chỉnh bằng các văn bản luật, chính vì vậy,

20


nhiều quy định của pháp luật về CPH, mặc dù có tầm quan trọng rất lớn song
vẫn dễ bị vơ hiệu hoá bởi các Nghị định và các văn bản dưới luật khác.
Thứ tư: Do chúng ta coi CPH như một chương trình quốc gia nên việc thể
chế hố nó cũng cần ở tầm một văn bản luật. Các quốc gia khi thực hiện tư nhân
hố như một chính sách, chương trình quốc gia đều ban hành Luật CPH. Kinh

nghiệm này cũng cần được tham khảo đối với việc thực hiện chương trình quốc
gia về CPH ở nước ta.
Như vậy, việc ban hành các quy định của pháp luật về CPHDNNN là một
việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2.2.2. Tổng quan pháp luật về CPH DNNN
2.2.2.1. Khái quát sự phát triển của các quy định pháp luật về CPH
DNNN
CPH DNNN trong suốt thời gian đã đựoc tiến hành trên một nền tảng
pháp lý chưa thực sự vững chắc. Điều này được thể hiện qua thực trạng pháp
luật về CPH dưới đây:
Văn bản pháp luật đầu tiên về CPH DNNN là Quyết định số 143/HĐBT
ngày 10/05/1990. Quyết định này đã đưa ra một số điều kiện để chọn các DNNN
làm thí điểm CPH. Hơn nữa, các tiêu chí cho việc chọn DNNN thí điểm CPH
hồn tồn dựa vào mong muốn chủ quan của doanh nghiệp, ý chí của chủ sở hữu
không được thể hiện rõ. Theo Quyết định, chỉ những DNNN kinh doanh có lãi
và có khả năng mua cổ phần mới điựơc tiến hành CPH. Tiếp theo Quyết định
143/HĐBT, Chính phủ ban hành Chỉ thị số 2002/CP ngày 06/08/1992 và sau đó
vài tháng ban hành tiếp chỉ thị số 84/TTg ngày 04/03/1993 về việc CPH DNNN.
Sau một thời gian thực hiện thí điểm CPH DNNN, ngày 07/05/1996,
Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP về “Chuyển một số DNNN thành công
ty cổ phần”. Chưa đầy một năm sau đó, Chính phủ đã ban hành tiếp Nghị định
số 25/CP ngày 26/03/1997 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 28/CP.
Các quy định của Nghị định 28/CP và nghị định 25/CP đã tạo ra được cơ sở
pháp lý khá vững chắc để chuyển các DNNN sang hình thức cơng ty cổ phần đã
đựoc Luật cơng ty 1990 xác định. Các văn bản này đã quy định mục tiêu, điều
21


kiện, thủ tục cổ phần hố, quyền và lợi ích của người lao động khi DNNN được
CPH.

Ngày 29/06/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 44/CP về chuyển
DNNN thành Công ty cổ phần. Khác với Nghị định số 28/CP, Nghị định 44/CP
có thêm các quy định về hình thức CPH, về quyền mua cổ phần trong DNNN
CPH, các vấn đề liên quan đến định giá tài sản của DNNN CPH. Chính nhờ
những quy định này, nên việc CPH được tiến hành trên cơ sở pháp lý vững chắc
hơn. Để tạo thêm động lực mới cho tiến trình CPH, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 64/2002/NĐ- CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển đổi DNNN thành công
ty cổ phần. Với 36 điều, Nghị dịnh số 64/2002/NĐ- CP đã quy định nhiều vấn
đề cụ thể hơn về tiến trình CPH. Sau đó 2 năm, Chính phủ ban hành Nghị định
178/2004/NĐ- CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành
công ty cổ phần. Nghị định 64/CP và Nghị định 187/CP đã điều chỉnh một số
vướng mắc và trong quá trình CPH theo các văn bản pháp luật trước đây không
giải quyết được. Đó là vấn đề liên quan đến định giá tài sản DNNN, xử lý tài
chính khi CPH, chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động sau CPH …
Như vậy, trong 16 năm thực hiện CPH, Chính phủ đã liên tục hoàn thiện
cơ sở pháp lý cho CPH để điều chỉnh có hiệu quả hơn các vấn đề nảy sinh.
2.2.2.2. Những điểm cơ bản trong pháp luật hiện hành về CPH các DNNN
Nội dung của pháp luật hiện hành về CPH tập chung chủ yếu ở Nghị định
178/2004/NĐ- CP ngày 16/11/2004. Nghị định này được ban hành trên cơ sở kế
thừa các quy định phù hợp với thực tế cuộc sống của các văn bản pháp luật
trước đây, cũng như thực tiễn CPH sinh động. Nội dung của pháp luật hiện hành
về CPH có những điểm quan trọng sau:
* Đối tượng áp dụng:
Về cơ bản, khơng có những hạn chế đối với diện DNNN CPH. Hạn chế
CPH chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn
theo những danh mục mà Chính phủ công bố, DNNN được CPH không phụ
thuộc vào thực trạng hoạt động, điều kiện hạn chế đối với việc CPH bộ phận của
DNNN là bộ phận đó có đủ điều kiện hạch tốn độc lập và việc CPH khơng ảnh
22



hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc bộ phận cịn
lại của DNNN.
* Hình thức CPH:
Thứ nhất: Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành
cổ phiếu thu hút thêm vốn, áp dụng đối với những doanh nghiệp cổ phần có nhu
cầu tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và
nhu cầu vốn của công ty cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần đựoc
phản ánh trong phương án CPH.
Thứ hai: Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết
hợp vừa bán bớt một phần vốn Nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu
hút vốn.
Thứ ba: Bán tồn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp
vừa bán toàn bộ vốn Nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn.
* Chủ thể được mua cổ phần:
Đối tượng và điều kiện mua cổ phần được mở rộng. Pháp luật quy định
nhà đầu tư trong nước được quyền mua cổ phần của các doanh nghiệp CPH với
số lượng khơng hạn chế, cịn nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của các
doanh nghiệp CPH theo quy định của pháp luật Việt Nam.
* Xử lý tài chính khi CPH:
Các DNNN CPH có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan có liên quan,
chủ động xử lý theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật những tồn tại về
tài chính trước khi xác định giá trị doanh nghiệp CPH và trong quá trình CPH.
* Xác định giá trị doanh nghiệp CPH:
Các doanh nghiệp CPH được áp dụng một trong các phương pháp xác
định giá trị doanh nghiệp như sau: phương pháp tài sản, phương pháp đóng tiền
chiết khấu, các phương pháp khác. Việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH
được thực hiện thơng qua các tổ chức có chức năng định giá đối với các doanh
nghiệp CPH có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên. Cịn
doanh nghiệp CPH có tổng giá trị tài sản dưới 30 tỷ đồng thì khơng nhất thiết


23


phải thuê tổ chức định giá, doanh nghiệp này có thể tự xác định giá trị doanh
nghiệp và báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp.
* Quyền lợi của người lao động:
Công ty cổ phần đựoc thành lập trên cơ sở của DNNN CPH có trách
nhiệm kế thừa mọi nghĩa vụ đối với người lao động từ DNNN chuyển sang, có
quyền tuyển chọn, bố trí sử dụng lao động và phối hợp với các cơ quan liên
quan giải quyết chế độ cho người lao động theo quy định của pháp luật.
Giá bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp được
giảm 40% so với giá đấu bình quân.
Những quy định trên đây của pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho quá trình
CPH doanh nghiệp, giúp cho quá trình này diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả,
từ đó góp phần hình thành nên những doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh trên thị
trường.
2.3. Mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật về CPHDNNN
Cạnh tranh và CPH có mối quan hệ biện chứng và có tác động qua lại lẫn
nhau. Mối quan hệ này được biểu hiện như sau:
2.3.1. Cạnh tranh vừa là động lực vừa là mục tiêu của CPH DNNN
Hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả, ít có khả năng cạnh tranh
trên thị trường của DNNN trong bối cảnh đất nước ta đang chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, tham gia nhiều hơn vào các khu vực mậu dịch tự do hoặc các
hiệp định thương mại song phương, đa phương sẽ là một thách thức lớn đối với
nền kinh tế nước ta. Đòi hỏi đặt ra là phải tiến hành cải cách DNNN, giúp những
doanh nghiệp này tự chủ hơn, năng động hơn trên thị trường. Và CPH là một
trong những giải pháp hiệu quả đáp ứng đựoc yêu cầu đó. CPH làm cho hiệu quả
sản xuất kinh doanh của các DNNN CPH được nâng cao. CPH không làm thay
đổi một cách cơ bản kết cấu sở hữu của nền kinh tế. Chính sự đa dạng về hình

thức tồn tại của DNNN sẽ làm sinh động thành phần kinh tế cơng, làm nó thích
ứng hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của
DNNN được tăng lên, từ đó giúp hình thành nên những tập đồn kinh tế lớn, đầy
đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
24


Đi liền với tăng cường hiệu quả của DNNN, CPH thu hẹp những doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ trên các địa bàn và trong các lĩnh vực ngành nghề. Nhờ đó
mà khu vực kinh tế tư nhân có cơ hội đầu tư hình thành các doanh nghiệp tư
nhân hoặc các cơng ty cổ phần năng động, dễ thích ứng với sự thay đổi của công
nghệ và thị trường. Lúc này, các chủ thể kinh doanh được tự chịu trách nhiệm
trước quyết định của mình, khi họ được tự do lựa chọn hàng hoá dịch vụ từ
những nhà cung cấp khác nhau, cũng như việc phải tiêu thụ được sản phẩm của
họ trên thị trường ngày càng khó tính, lúc đó buộc nhà đầu tư phải vươn lên để
kinh doanh có hiệu quả. Qua đó giúp tăng cường sức mạnh của kinh tế tư nhận.
Giống như quy luật cạnh tranh sinh tồn trong tự nhiên, quy luật cạnh tranh trong
nền kinh tế thị trường luôn khẳng định chiến thắng luôn thuộc về những chủ thể
kinh doanh có khả năng thích nghi với thị trường mạnh hơn, có trình độ quản lý
và tri thức về khoa học và cơng nghệ cao, có tố chất sáng tạo. Chỉ khi có sức
cạnh tranh mạnh mẽ, doanh nghiệp mới có cơ hội tồn tại và phát triển. Ngược
lại, những chủ thể kinh doanh yếu kém khơng đủ năng lực, khơng thích nghi
đựợc với các điều kiện của thị trường sẽ bị loại ra khỏi đời sống kinh doanh.
2.3.2. CPH DNNN - tiền đề cho hạot động cạnh tranh diẽn ra trên thị
trường
Người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh, môi trường pháp lý là ba yếu tố cơ
bản để cạnh tranh có thể diễn ra trên thị trường. CPH xét trên diện rộng là quá
trình tái cơ cấu nền kinh tế, sắp xếp, hệ thống lại nền kinh tế và tạo ra môi
trường pháp lý lành mạnh, tạo điều kiện để cạnh tranh diễn ra và phát triển. Vì
các DNNN sau CPH sẽ trở thành cơng ty cổ phần, được đăng ký và hoạt động

theo Luật doanh nghiệp – khi đó khơng cịn tồn tại cơ quan chủ quản và khơng
cịn cơ chế “xin - cho” đối với doanh nghiệp nữa, mọi hình thức bảo hộ được xoá
bỏ. Các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị chi phối bởi các
quy luật thị trường và pháp luật. Mối quan hệ giữa Nhà nước và công ty cổ phần
giờ đây chỉ là quan hệ giữa cổ đông với công ty. Cơ quan đại diện sở hữu cho
phần vốn góp của Nhà nước có các quyền và nghĩa vụ của cổ đông theo quy
định của pháp luật. Thông qua cơ chế cổ phần, tạo ra sự bình đẳng giữa các
25


×